Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

(Tiểu luận) đề tài phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc, kết cấu của ý thức tri thức đóng vai trò như thế nào trong đời sống tinh thần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
⸎⸎⸎⸎⸎

BÀI TẬP LỚN MƠN TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Tên đề tài: “Phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn
gốc, kết cấu của ý thức?
Tri thức đóng vai trị như thế nào trong đời sống tinh thần và trong hoạt
động thực tiễn của con người?”
Tên giảng viên hướng dẫn : Đồng Thị Tuyền
Lớp học phần

: Triết học Mác Lê-nin_1_2(15.1FS).8_LT

Năm học

: 2021-2022

Họ và tên sinh viên

: Hoàng Thị Hải Hà

HÀ NỘI, NĂM 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1

h


NỘI DUNG...................................................................................................................3
1. Bản chất của ý thức....................................................................................3


2. Nguồn gốc của ý thức.................................................................................4
2.1. Mặt tự nhiên...........................................................................................4
2.2. Mặt xã hội...............................................................................................5
3. Kết cấu của ý thức......................................................................................5
3.1. Các lớp cấu trúc của ý thức...................................................................5
3.2. Các cấp độ của ý thức............................................................................6
4. Vai trò của tri thức trong đời sống tinh thần và thực tiễn......................7
4.1. Tri thức là gì?.........................................................................................7
4.2. Vai trị của tri thức trong đời sống thực tiễn..........................................8
4.3. Vai trò của tri thức trong đời sống tinh thần..........................................9
KẾT LUẬN................................................................................................................10

h


MỞ ĐẦU
Theo quan điển của Mác Lê-nin thì triết học được biết đến là hệ thống
quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó,
là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy, đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người: cần phải tổng hợp, trừu tượng hóa, khái qt hóa trí thức về thế
giới thành các khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy luật….để giải thích về thế
giới của chúng ta. Triết học đã xuất hiện ở cả Phương Đông và Phương Tây từ
thế kỉ VIII đến thế kỉ VI trước Công Nguyên và đã trải qua hàng ngàn năm để
có thể tồn tại và phát triển chính nhờ lẽ đó mà Triết học đã trở thành một nền
tảng vững chắc cho sự phát triển thể giới. Được tôn vinh là khoa học của mọi

h



khoa học, Triết học ln cho chúng ta cái nhìn tồn diện, đa chiều và sâu sắc
nhất về mọi khía cạnh, sự vật, hiện tượng, giúp cho còn người đưa ra các cách
giải quyết mọi việc nhanh chóng và hợp lí nhất. Trong suốt chiều dài phát
triển và đi lên của Triết học, Triết học khơng bó buộc mình chỉ tìm hiểu về
một đối tượng nhất định mà sẽ thay đổi theo dịng thời gian của sự kiện. Có
thể nói rằng, đối tượng nghiên cứu xuyên suốt bao nhiêu năm của Triết học
chính là: Tiếp tục giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại,
giữa ý thức và vật chất trên lập trường duy vật; nghiên cứu những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho hoạt động
nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người. Đối với Triết học Mác Lê-nin,
vì được ra đời vào những năm 30 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với
những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công
nhân. Sự ra đời của triết học Mác – Lênin là một cuộc cách mạng thực sự
trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Triết học Mác Lê-nin
nghiên cứu về những quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy. Vai
trò của con người đối với thế giới trên cơ sở giải quyết khoa học vấn đề cơ
bản của triết học. Với khối óc thiên tài của mình, Mác đã giải đáp được những
vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra
đời được coi là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại
biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong nền kinh tế chính trị học và trong chủ
nghĩa xã hội và trong thời kì Triết học Mác Lê-nin hình thành, khoa học tự
nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng và với những phát
minh đó, khoa học đã cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng
vượt lên tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, thốt khỏi tính thần bí của
phép biện chứng duy tâm và trở thành khoa học. Với khối lượng kiến thức rút
ra từ kết quả học cùng với việc tham khảo từ các tài liệu từ các bài giảng của

h



cô và từ thư viện trường, em xin phép được trình bày phân tích quan điểm duy
vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc, kết cấu của ý thức và làm rõ vai trò
của tri thức trong đời sống xã hội trong bài luận dưới đây. Trong quá trình làm
bài nếu có những sai sót về mặt kĩ thuật hay kiến thức, em mong sẽ có thể
nhận được những lời nhận xét và góp ý từ cơ để có thể cải thiện bản thân hơn
trong việc học tập. Em xin chân thành cảm ơn cô đã đọc bài của em!

NỘI DUNG
1. Bản chất của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cho rằng ý thức chính là sự phản ánh
năng động, sáng tạo của hiện thực khách quan vào trong bộ não của con
người. Chính vì lẽ đó mà bản chất của nó được khắc họa rõ nét qua ba mặt
sau:
Đầu tiên, tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể
hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng
tiếp nhận, chọn lọc, xử lý và lưu giữ thông tin và dựa trên cơ sở của những
thông tin đã có nó có thể tạo ra những thơng tin mới và có thể phát hiện ra ý

h


nghĩa của thơng tin được tiếp nhận. Ngồi ra tính năng động, sáng tạo của sự
phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người đặt ra những giả
tưởng, giả thuyết,…vào bên trong đời sống tinh thần của chính mình hoặc
khái qt về bản chất, quy luật khách quan, đồng thời xây dựng các mơ hình
tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Tiếp theo đó, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa
là: ý thức cịn là hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh đó đã được thế
giới khách quan quy định cả mặt về nội dung lẫn mặt hình thức biểu hiện tuy
nhiên nó khơng cịn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã biến đổi

thơng qua lăng kính chủ quan của con người. Theo tư tưởng của Mác: ý thức
“Chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó”.
Và cuối cùng, ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với những hoạt động thực tiễn và phải
chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là của các
quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt thực tế
mà xã hội đã quy định.
2. Nguồn gốc của ý thức.
Dựa theo quan điểm của Mác Lê-nin thì vấn đề nguồn gốc, bản chất của
ý thức là một trong những vấn đề trọng tâm trong cuộc đấu tranh kéo dài giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử của triết học. Theo như
triết học duy vật biện chứng đã khẳng định thì ý thức của con người có nguồn
gốc từ tự nhiên và cả xã hội.

h


2.1.Mặt tự nhiên.
Triết học Mác Lê-nin đã đưa ra ý kiến rằng ý thức chính là một thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao được gọi là bộ óc của con người, là sự
phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Nếu không xảy ra tác động
của thế giới khách quan vào bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất
của ý thức thì sẽ khơng có ý thức từ đó có thể nói: “Bộ não người và sự tác
động của thế giới khách quan vào bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý
thức”.
Về bộ óc con người: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý
thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người.
Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của q trình tiến hố lâu dài về mặt sinh
vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, các tế bào não tạo ra các mối liện hệ để

phân tích xử lý, thu thập thơng tin để đưa ra các hoạt động của cơ thể con
người thông qua các phản xạ.
Về sự phản ánh: Chủ nghĩa Mác Lê-nin đưa ra ý kiến cho rằng phản ánh
là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, cũng là năng lực giữ
lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật
chất khác. Khoảng thời gian phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính
phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp bao gồm: Phản ánh vật lý, phản ánh sinh học, phản ánh ý thức.
2.2.Mặt xã hội.
Bên cạnh mặt tự nhiên thì mặt xã hội cũng là một trong những yếu tố để
ý thức ra đời và cũng chính là điều kiện tiên quyết cho ra đời ý thức của
nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã
hội.

h


Đầu tiên là về lao động: là hoạt động đặc thù của con người. Lao động
đã giúp cho con người có được dáng đi thẳng đứng, giải phóng hai tay; việc
này cùng với chế độ ăn có thịt có ý nghĩa quyết định đối với việc chuyển hoá
từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Ngoài ra chế tạo ra
cơng cụ lao động có ý nghĩa to lớn chính là con người đã có ý thức về mục
đích của hoạt động biến đổi thế giới. Qua đó bộ não con người được phát triển
và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người
ngày càng cao, cũng từ đó mà khẩu ngữ xuất hiện.
Tiếp đến là ngôn ngữ, theo quan điểm của triết học Mác Lê-nin thì ngơn
ngữ chính là: phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, hệ thống tín
hiệu thứ hai, vỏ vật chất của tư duy, hình thức biểu đạt của tư tưởng; qua đó
có thể thấy ngôn ngữ là yếu tố để con người phát triển tâm lý là tư duy trong
xã hội.

3. Kết cấu của ý thức.
3.1.Các lớp cấu trúc của ý thức.
Tri thức: là toàn bộ những hiểu biết của con người về hiện thực khách
quan. Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại
như: tri thức về tự nhiên, tri thức về con người và xã hội. Căn cứ vào trình độ
phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành: tri thức đời thường và tri
thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri
thức lý tính,…
Tình cảm: Những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được
hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự
tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực

h


đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc
đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Ý chí: Sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt
qua những cản trở trong q trình thực hiện mục đích của bản thân. Có thể coi
ý chí là mặt năng động của ý thức, ý chí cịn là quyền lực của con người đối
với mình; nó điều khiển hành vi để con người hướng đến mục đích một cách
tự giác cịn có thể cho phép con người tự kiềm chế và tự làm chủ bản thân và
quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình.
3.2.Các cấp độ của ý thức.
Tự ý thức: ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ
với ý thức về thế giới bên ngồi. Trong q trình phản ánh thế giới khách
quan, con người tự phân biệt, tách mình, đối lập mình với thế giới để đánh giá
mình thơng qua các mối quan hệ từ đó mà con người tự ý thức về bản thân
mình như một thực thể hoạt động có cảm giác, đang tư duy, tự đánh giá năng

lực và trình độ hiểu biết của bản thân về thế giới, về các quan điểm, nguyện
vọng, hành vi, lợi ích,…của mình. Đồng thời xác định vị trí, mạnh yếu của
mình, làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi của mình trong tác động
qua lại với thế giới khách quan.
Tiềm thức: là hoạt động tâm lí diễn ra bên ngồi sự kiểm sốt của ý thức.
Thực chất thì tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước
nhưng đã gần như thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức
của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Tiềm thức không tự động gây ra
các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể khơng cần kiểm sốt chúng một
cách trực tiếp; vai trò của tiềm thức quan trọng trong đời sống và tư duy khoa
học: gắn bó chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần,
vẫn đảm bảo độ chính xác cao và cần thiết của tư duy khoa học.

h


Vô thức: là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển,
nằm ngồi phạm vi của lý trí mà ý thức khơng kiểm sốt được trong một lúc
nào đó gọi là vơ thức. Vơ thức biểu hiện ra thành nhiều trạng thái khác nhau
như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, trực giác… Mỗi hiện tượng
vơ thức có vùng hoạt động, vai trị, chức năng riêng nhưng tất cả đều có một
chức năng là giải tỏa ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng, góp
phần trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người.
4. Vai trò của tri thức trong đời sống tinh thần và thực tiễn.
4.1.Tri thức là gì?
Tri thức đã hình thành từ lâu trong thế giới quan, chúng ta bắt đầu có tư
duy từ khi nào thì tri thức cũng bắt đầu từ lúc đó và trải qua một thời gian dài
phát triển của lịch sử cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trị của nó
đối với sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều. Tri thức có thể
định nghĩa theo rất nhiều cách, ta hiểu theo: “Tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo

và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó (hiểu biết sáng tạo) vào việc tạo
ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Tri thức bao gồm tất cả
những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng tượng (sáng tạo), khả năng, kỹ năng
quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội khác”.
Tri thức có vai trị rất lớn đối với đời sống – xã hội.
Muốn ý thức của con người ngày càng cao và đi lên thì phải tích lũy thật
nhiều tri thức đào sâu vào bản chất của sự vật nhờ đó mà tính năng động của
ý thức đi lên. Nếu đem tri thức biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con
người hoạt động thì tự nó khơng có vai trị gì đối với đời sống hiện thực vì
vậy chúng ta phải biết cách tận dụng nguồn tri thức một cách đúng đắn. Với
đất nước có nền kinh tế đang phát triển như nước ta thì lấy tri thức, trí óc làm

h


yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố
sức lao động và tài nguyên. Vào đúng thời điểm thì: “Tri thức đã trở thành
động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri thức là tài nguyên là tư bản”,
tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng
dài hạn dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị
trường, lựa chọn nghề nghiệp…
4.2.Vai trò của tri thức trong đời sống thực tiễn.
Đất nước đi lên cũng đồng nghĩa với việc ý thức đi lên từ đó chúng ta có
thể thấy tri thức mà nhân loại tìm ra ngày càng nhiều và cũng tác động mạnh
mẽ tới các lĩnh vực của xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá - giáo dục…
Tri thức là nền tảng, là động lực để phát triển kinh tế, là nhân tố đóng vai
trị hết sức quan trọng trong việc góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến bộ
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Ta có thể lấy ví dụ khi so sánh
các nước Châu Phi với Nhật Bản; các nước ở Châu Phi có nguồn tài nguyên
dồi dào và phong phú nhưng nạn mù chữ và đói khát vẫn cịn q nhiều khiến

cho các nước đó rất kém phát triển. Trái lại, Nhật Bản – một đất nước nghèo
tài nguyên, thiên tai rất nhiều nhưng vẫn có nền kinh tế phát triển thậm chí
cịn có thể so sánh và cạnh tranh với các cường quốc lớn mạnh như Mĩ, Trung
Quốc. Qua điều đó ta có thể thấy rằng với nguồn tri thức lớn mạnh và đầy
sáng tạo thì sẽ mang đất nước đến với các vinh quang và thành tựu, đem lại
đời sống ấm no cho nhân dân. Có thể nói rằng: “Tri thức chính là chìa khóa để
thay đổi tương lai.”
Mỗi một lĩnh vực là một chân trời tri thức mà con người luôn khao khát
được vươn tới, lĩnh hội một cách trọn vẹn và từ những hiểu biết đó họ tạo
thành những ý tưởng, xây dựng những bước đi vững mạnh hơn, đưa ra những

h


chính sách thiết thực hơn nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân
dân chính vì lẽ đó mà vào Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển
hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con người. Đại hội đã nhấn
mạnh: “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục
đích cao nhất của mọi hoạt đơng” chiến lược phát triển con người đang là
chiến lược cấp bách. Ta có thể đã biết rằng Bác Hồ chủ tịch vĩ đại của chúng
ta đã ra đi vơi hai bàn tay trắng và đã dùng tri thức mà Bác tích lũy được sau
30 năm bôn ba để đưa nước ta đến với một nền hịa bình độc lập như bây giờ.
Từ đó ta có thể thấy tri thức có vai trị quan trọng như thế nào đối với chính
trị.
Tri thức cũng có vai trị rất lớn đến văn hố - giáo dục của một quốc gia.
Nó giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý
thức của con người được nâng cao. Giáo dục là nền tảng của xã hội; xã hội
phát triển là xã hội ở đó con người được hồn thiện bản thân ở các lĩnh vực,
đặc biệt là đóng góp cho nền giáo dục ngày càng phát triển, cải tiến trên mọi
phương diện. Tuy nước ta vẫn có những mặt vẫn cịn yếu kém của nền giáo

dục nhưng khi có tri thức giúp chúng ta có thêm kiến thức, sự hiểu biết để đổi
mới nội dung, phương pháp giáo dục của nước ta vừa theo kịp nền tri thức
của nhân loại lại vừa giữ gìn bản sắc văn hóa tốt của dân tộc Việt Nam.
4.3.Vai trò của tri thức trong đời sống tinh thần.
Để thỏa mãn nhu cầu giải trí và tận hưởng của con người, tri thức đã đưa
con người tới các ý tưởng để phục vụ nhu cầu như: các trò chơi dân gian cổ
truyền cho tới các trò chơi điện tử hiện đại, từ những bài hát lấy cảm hứng
trong cuộc sống đến những bài thơ bài văn về giá trị nhân văn. Nhờ sự sáng
tạo của tri thức loài người đã biến những thứ có sẵn trong tự nhiên trở thành
những thú vui phục vụ cho đời sống xã hội. Tri thức chính là nơi ươm mần

h


nên thế giới đầy phong phú ngập tràn sắc màu trong khoảng thời gian con
người phát triển.
KẾT LUẬN
Qua thời kì lịch sử của triết học mà ta có thể nhận ra đượcmối liên hệ mật
thiết giữa triết học nói chung và triết học duy vật biện chứng nói riêng và với vật
lí học là một tính tất yếu có quy luật và càng ngày càng phát triển hơn nữa. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng ln tự đặt cho mình một nhiệm vụ phải khái quát
những thành tựu mới của khoa học, xã hội và vật lí học để làm sâu sắc hơn,
phong phú hơn những hiện tượng trong đời sống, trong từng quy luật của nhân
loại con người. Cũng nhờ đó mà việc nghiên cứu tồn diện và sự vận dụng về
phép biện chứng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng và cần thiết để nhằm xây dựng
thế giới quan duy vật triệt để và nhằm phổ biến về khoa học trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Tư duy biện chứng đó chính là năng lực là sức mạnh không
thể thiếu được trong nhận thứcvà trong hoạt động thực tiễn của mỗi con người
chúng ta để có thể giúp mỗi chúng ta tự nâng cao năng lực của bản thân. Là một
sinh viên chúng ta cần phải nắm rõ nội dung và phải có những phương pháp học

hiệu quả, cần phải gắn kết lý luận và cả thực tiễn đồng thời cũng phải rèn luyện
phương pháp biện chứng thường xuyên và vận dụng thực tế vào xã hội, đời sống
của bản thân. Nâng cao tư duy biện chứng và học cách giải quyết tốt xử lí những
vấn đề về cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học để thực hiện giấc mơ
to lớn chính là đưa đất nước phát triển, đi lên sánh vai với năm châu bốn bể như
lời Bác đã từng răn, để đổi mới từng ngày đi lên từng bước vững vàng tương lai.

h


Tài liệu tham khảo:
Tài liệu tập huấn 2019 - Môn Triết học Mác Lê Nin: />subfolder=12/78/87/&doc=127887640403817752583395946985204393611&bit
sid=f74842e1-b137-44b6-aee0-19bb3c2d4beb&uid=71170034-6386-4be38382-ef47c2881f35
(trang 76 đến 89)
Bài giảng chương 2 của giảng viên: Đồng Thị Tuyền
Slide bài giảng chương 2 của giảng viên Đồng Thị Tuyền:
/>view

h



×