Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Tiểu luận) đề tài phân tích vai trò của nhà nước việt nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xhcn ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.04 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA TRUYỀN THÔNG

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ-NIN

ĐỀ TÀI: Phân tích vai trị của nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Đăng Thu
Sinh viên thực hiện

: Bùi Dạ Minh Châu

Lớp

: PR14-01

Mã sinh viên

: 1456010003

Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2021

h


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………….. 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY …. 2


I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VAI TRỊ QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG …………………………. 2
1. Sự hình thành và phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước ……………………… 2
2. Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ……... 3
2.1. Những ưu thế của nền kinh tế thị trường thể hiện ……………………………. 4
2.2. Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường thể hiện ………………………... 5
3. Tính tất yếu khách quan của vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà nước ……………... 5
4. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường …………………………….. 6
II. MỤC TIÊU, CHỨC NĂNG VÀ CÁC VAI TRÒ QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA
NHÀ NƯỚC ………………………………………………………………………. 9
1. Các mục tiêu ……………………………………………………………………. 9
2. Các chức năng ………………………………………………………………….. 9
3. Các vai trị ……………………………………………………………………. 11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .……….. 13
CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ
KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY …………….………… 15
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………… 17
Tài liệu tham khảo ………………………………………...…...…………. 18

h


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, về mặt kinh tế, Việt Nam vẫn còn là một trong những quốc gia
đang phát triển. Để có thể vươn lên trình độ phát triển ngang hàng với các quốc gia
khác, Việt Nam cần tìm cho mình con đường phát triển phù hợp với tình hình kinh
tế xã hội trong nước, bên cạnh đó phải đảm bảo xu thế phát triển chung của thế
giới. Đó chính là việc chuyển đổi nền kinh tế sang KTTT định hướng XHCN có sự
quản lý của Nhà nước.

Vì thế, Đảng đã xác định “việc chuyển đổi nền kinh tế sang KTTT định
hướng XHCN” là việc rất cần thiết và Đảng cũng nhấn mạnh vai trò kinh tế của
Nhà nước là vô cùng quan trọng. Theo quan điểm của Paul Samuelra - Nhà kinh tế
học người Mỹ cho rằng để điều hành một nền kinh tế khơng có cả chỉnh phủ lẫn thị
trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. Sự thành công của đổi mới kinh tế
ở nước ta càng khẳng định vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là rất
cần thiết vì nó dẫn dắt thị trường phát triển theo hướng tích cực và khắc phục
những hạn chế của nền kinh tế thị trường gây ra để phát triển nền kinh tế một cách
tốt nhất.
Việt Nam chúng ta đã sớm nhận rõ vai trò động lực của Nhà nước tới nền
KTTT. Vấn đề đặt ra là phải làm rõ được vai trò kinh tế của Nhà nước và sử dụng
nó một cách có hiệu quả để thúc đẩy quá trình vận động nền KTTT theo định
hướng XHCN có lợi nhất, vừa phát huy tác dụng tích cực và hạn chế được những
khuyết điểm của nền KTTT vừa đảm bảo được sự tăng trưởng kinh tế, đảm bảo
công bằng xã hội.
Từ những điều trên, trong bài viết này, em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích
vai trị của nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay” theo những định hướng nội dung mà giảng viên đã
cung cấp.
1

h


CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I.

TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VAI TRỊ QUẢN LÝ KINH TẾ

CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Sự hình thành và phát triển vai trị kinh tế của Nhà nước
Nhà nước là cơng cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã
hội cho phù hợp với lợi ích của nó. Chức năng ban đầu của Nhà nước là quản lý
hành chính bao gồm các lĩnh vực chủ yếu như:
 Chức năng đối ngoại: Quản lý lãnh thổ, thiết lập quan hệ bàn giao với
các nước láng giềng .
 Chức năng đối nội: Quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giữa
các cá nhân, các giai cấp, các tầng lớp, các cộng đồng dân tộc sao cho
phù hợp với ý chí của giai cấp đã sản sinh ra nó.
Lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay
từ buổi ban đầu khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện. Sau đó mới được nhận thức
và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau thì vai trị kinh tế của Nhà nước cũng biểu hiện ở mức độ khác nhau.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô là kiểu Nhà nước đầu tiên
trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối
của cải được sản xuất ra. Của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự
điều khiển q trình sản xuất của giai cấp chủ nơ, nhưng khối lượng của cải ấy
không được phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng các thủ đoạn bạo lực
– công cụ chiếm đoạt cưỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến, ngoài can thiệp vào việc phân phối của cải, Nhà
nước phong kiến còn tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản
xuất nơng nghiệp, khuyến khích di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các
chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ… nhằm phát triển kinh tế. Nhìn
chung các hoạt động này diễn ra tự phát. Khác biệt với các Nhà nước phong kiến
phương Tây, chức năng quản lý kinh tế được các Nhà nước phong kiến phương
Đông nhận thức sớm hơn. Ở Trung Quốc, Mạnh Tử đã nói: “Chính sách kinh tế
Nhà nước phong kiến phải hướng vào làm giàu cho dân. Dân giàu thì nước mới
mạnh.” Tư tưởng kinh tế này rất tương đồng với tư tưởng kinh tế của Adam Smith,
họ đều cho rằng về bản chất, lợi ích cá nhân thống nhất với lợi ích tồn xã hội, mọi

người trong khi làm giàu cho mình thì cũng đồng thời làm giàu cho xã hội, từ đó
đặt lên vai trị Nhà nước phải điều hồ, sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho sự xung
2

h


đột lợi ích cá nhân khơng làm thủ tiêu lợi ích xã hội mà ngược lại phải thúc đẩy lợi
ích xã hội. Ở Việt Nam tư tưởng Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế cũng được
hình thành rất sớm như: triều đại nhà Lý kiểm soát tất cả các thái ấp, bảo vệ chế độ
sở hữu Nhà nước về ruộng đất; Nhà Hồ ban hành chính sách hạn điền, hạn nô; Nhà
Lê ban hành chế độ quân điền…
Trong thời đại hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản (từ thế kỷ XV),
dưới sự hỗ trợ của công cụ bạo lực, Nhà nước tư bản non trẻ đã thực hiện phương
thức tích luỹ nguyên thuỷ để giúp cho giai cấp tư sản cần có sự hỗ trợ của Nhà
nước. Vì vậy vai trị kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng được nâng cao.
Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường luôn luôn là vấn đề
được quan tâm và gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học, từ đó xuất hiện những
quan điểm khơng giống nhau về vai trị kinh tế của Nhà nước. Theo một số nhà
kinh tế học thì để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển có tính kế hoạch cân đối, Nhà
nước phải đóng vai trị trung kiện kinh tế, can thiệp sâu sắc và rộng rãi vào kinh tế
quốc dân ở tầm vĩ mô và vi mô.
Theo chủ nghĩa Mác: “Không thể cải biên kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò
kinh tế của Nhà nước, sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước đã thúc đẩy các điều
kiện kinh tế xã hội phát triển và hoàn thiện.”. Các Mác coi quyền lực Nhà nước
như “vai trò bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội mới”. Lê-nin chỉ rõ Nhà nước
XHCN có vai trị kinh tế đặc biệt, khơng cịn là bộ máy ăn bám trên q trình sản
xuất mà nó chuyển sang tổ chức thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân.
Theo Paul Samuelson: “Cơ chế thị trường định giá cả và sản lượng trong
nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình

thuế, chi tiêu và luật lệ.”, các nền kinh tế hiện đại chỉ phát triển được khi sử dụng
cơ chế hỗn hợp để điều khiển nền kinh tế. Cơ chế đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp
vào nền kinh tế theo quy luật của thị trường và vào các q trình của nó, định
hướng nó đến mục tiêu mong muốn, sự can thiệp của Nhà nước chỉ thành công khi
bản thân Nhà nước cũng phải tuân theo những quy luật của thị trường.
Có thể nói, tuy những quan điểm khơng giống nhau về vai trị kinh tế của
Nhà nước. Nhưng các nhà kinh tế học đều có chung quan điểm vai trị của Nhà
nước là quản lý vĩ mơ nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế để khắc phục những nhược
điểm của nền kinh tế quốc dân, tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế phát triển.
2. Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
Q trình phát triển sản xuất của xã hội loài người từ trước tới nay đã trải qua
những thời kỳ sau:
 Nền kinh tế tự cung tự cấp
 Nền kinh tế hàng hoá
3

h


 Nền kinh tế thị trường
Thị trường gắn liền với q trình sản xuất và lưu thơng hàng hố. Nó ra đời
và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thơng hàng hố.
“Thị trường là trung tâm của tồn bộ q trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề
cơ bản của nền sản xuất xã hội là sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu và bằng
phương pháp nào đều phải thơng qua thị trường. Vì vậy thị trường đóng vai trị hoạt
động và phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả”.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác
động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có. Cơ chế thị trường chính là một
hình thức tổ chức kinh tế, trong đó những người tiêu dùng và các nhà kinh doanh
tác động lẫn nhau qua thị trường để giải quyết những vấn đề trung tâm của sản xuất

xã hội.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị trường,
trong đó quy luật giá trị đóng vai trị chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung
cầu trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền kinh
tế hàng hố, nó nằm trong tiến trình phát triển lịch sử khách quan về kinh tế của xã
hội loài người. Do vậy, nền kinh tế thị trường cũng có những ưu thế và khuyết tật
của nó.
2.1. Những ưu thế của nền kinh tế thị trường thể hiện
Thứ nhất, thúc đẩy sản xuất và gắn sản xuất với tiêu thụ - thực hiện mục tiêu
của sản xuất. Do đó, người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kỳ sản xuất, thực hiện tái
sản xuất mở rộng, áp dụng nhanh chóng sản xuất - khoa học - công nghệ và quay
nhanh tiền vốn, đạt tới lợi nhuận tối đa.
Thứ hai, thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các
điều kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản xuất, tìm mặt hàng mới
và thị trường tiêu thụ, mở rộng quan hệ trong kinh doanh, phá thế độc quyền và
khép kín trong một đơn vị kinh doanh, tìm cách đạt tới lợi nhuận tối đa.
Thứ ba, thúc đẩy sự tiến bộ khoa học - cơng nghệ đưa nhanh vào sản xuất,
kích thích tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hố sản xuất và nâng
cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của khách hàng
và thị trường.
Thứ tư, thúc đẩy quá trình tăng trưởng dồi dào sản phẩm hàng hố, dịch vụ,
thúc đẩy và kích thích sản xuất hàng hố phát triển, đề cao trách nhiệm của nhà
kinh doanh với khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Thứ năm, đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập
trung sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt, các đơn vị
4

h



chủ thể sản xuất kinh doanh làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép tích tụ, mở rộng
qui mơ sản xuất. Mặt khác, do quá trình cạnh tranh làm cho sản xuất được tập trung
vào các đơn vị kinh tế thực sự đứng được trên thị trường, làm ăn có hiệu quả cao,
đồng thời loại bỏ những đơn vị làm ăn kém hiệu quả. Chính q trình cạnh tranh
kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất.
2.2. Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường thể hiện
Thứ nhất nền kinh tế thị trường mang tính tự phát, tìm kiếm lợi nhuận bằng
bất kỳ giá nào, không đi đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu về phát
triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường cịn dẫn đến tập
trung hoá cao độ, sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung
và tính tự điều chỉnh của nền kinh tế.
Thứ hai, xã hội phát sinh tiêu cực, tệ nạn gắn liền với hiện trạng kinh tế sa
sút, gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm mọi thủ đoạn, mánh khoé làm
hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo… không từ một thủ đoạn nào, dù là dơ bẩn
nhất để thu lợi nhuận tối đa.
Thứ ba, vì lợi ích và lợi nhuận riêng biệt, dẫn đến sự sử dụng bừa bãi, tàn
phá tài ngun và huỷ diệt mơi trường sinh thái.
3. Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trên đất nước ta hiện
nay đang diễn ra với bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều biến động. Việt Nam
đã bước vào thời kỳ mới với quan hệ quốc tế cởi mở, đa phương và đa dạng.
Vai trò quản lý của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt
động lao động chung và do tính chất xã hội hố của sản xuất quy định. Lực lượng
sản xuất càng phát triển, trình độ xã hội hố sản xuất càng cao thì phạm vi thực
hiện vai trò này càng rộng và mức độ địi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường là bước
phát triển tất yếu của kinh tế tự cung tự cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có
nội dung rất phong phú, bao gồm những trình độ và khuynh hướng phát triển khác
nhau trong một kết cấu gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhiều chủ thể
kinh tế khác nhau, vừa mang tính kinh tế cổ truyền, vừa chứa đựng những yếu tố

của nền kinh tế hiện đại, phát triển theo định hướng XHCN với vai trò chủ đạo của
kinh tế quốc doanh. Đó là thời kỳ phải giải quyết hai mâu thuẫn chính:
Thứ nhất là mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm phát triển với yêu cầu phải
phát triển nền kinh tế hiện đại bằng quá trình đẩy nhanh phát triển nền kinh tế hàng
hoá, kinh tế thị trường.
5

h


Thứ hai là mâu thuẫn giữa những yếu tố nhanh nhạy của kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần với những yếu tố tự giác của quản lý vĩ mô, định hướng phát triển
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là cơ quan đại diện cho lợi ích của nhân dân, là chủ đại diện sở
hữu toàn dân, Nhà nước quản lý nền kinh tế đó, thực hiện chế độ dân chủ trong mọi
khâu, mọi mặt của quá trình tái sản xuất. Tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, mức độ đạt được của sự xã hội hố trong mỗi nước, mỗi thời kỳ mà giữa
chúng có quan hệ tỷ lệ nhất định làm cho nền kinh tế phát triển thăng bằng ổn định,
khai thác, tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng như bên ngồi. Sự
phát triển khơng ngừng của lực lượng sản xuất, sự tác động thường xuyên của các
điều kiện tự nhiên, xã hội, chính trị… làm cho các quan hệ tỷ lệ đó ln biến động.
Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các quan hệ
bên trong mà còn phụ thuộc vào các quan hệ bên ngoài, vào thị trường khu vực, thị
trường quốc tế. Tình hình đó đặt lên vai Nhà nước, dân tộc nhiệm vụ không chỉ là
người bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia mà còn là người hiểu biết quy luật
vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội, có khả năng sử dụng các địn bẩy
kinh tế, thể chế hố các chủ trương, chính sách kinh tế thành hệ thống các luật lệ,
các quy chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động đối
ngoại, định hướng sự phát triển của các ngành, các vùng, các lĩnh vực, các thành
phần kinh tế để đảm bảo yêu cầu thăng bằng, cân đối trong sự phát triển do chính

các quy luật khách quan của đời sống kinh tế, xã hội quy định.
Từ đó ta có thể khẳng định: Tính tất yếu khách quan của vai trị quản lý vĩ
mô của Nhà nước Việt Nam là do ưu khuyết điểm của cơ chế thị trường và thực
trạng của nền kinh tế Việt Nam. Ngồi ra cịn do u cầu thăng bằng cân đối trong
sự phát triển của kinh tế mà địi hỏi phải có vai trị quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Trong diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII do đồng chí
Lê Đức Anh, Uỷ viên Bộ chính trị ban chấp hành Trung ương khố VII, đọc ngày
28/6/1996 có đoạn: “Xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN”. Có thể thấy trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta còn ở
giai đoạn thấp, hệ thống pháp luật chưa hoàn hảo, những ưu thế chưa thể hiện rõ
nét, những khuyết tật có cơ hội nảy sinh thì vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà nước là
rất cần thiết và là một tất yếu khách quan.
4. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là cần thiết và khơng thể
thiếu được vì nó dẫn dắt thị trường phát triển theo hướng tích cực và khắc phục,
sửa chữa những gì mà cơ chế thị trường chưa đạt được cũng như những hậu quả mà
nó gây ra để phát triển nền kinh tế một cách tốt nhất.
6

h


4.1. Nhà nước đóng vai trị định hướng cho sự phát triển nền kinh tế
Nhà nước không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận như một doanh nghiệp cá biệt
mà theo đuổi mục tiêu chung của dân tộc là dân giàu, nước mạnh, nền kinh tế tăng
trưởng một cách ổn định, vững chắc trong điều kiện công bằng xã hội và hiệu quả
kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất
các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác nhau về cùng một lợi ích để sao cho

trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần
vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc. Để có thể hồn thành chức năng định hướng nền
kinh tế Chính phủ phải tạo ra được công cụ định hướng để quy tụ hành động của
các doanh nghiệp, người tiêu dùng cá biệt theo chiều hướng vận động của nền kinh
tế và Nhà nước ta đã có hai định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế, đó là:
 Chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
 Kế hoạch hố định hướng .
4.2. Tạo mơi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần
phát triển
Ngày nay khi kinh nghiệm lịch sử của các nước đi trước đã trở thành lý luận,
các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình bằng cách: chủ
động sử dụng kiến trúc thượng tầng và quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản
xuất để hồn thành vai trị đó Nhà nước ta đã phải thực hiện những công việc sau:
 Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền
kinh tế
 Bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất
 Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
 Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường
 Ổn định về chính trị
4.3. Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng hiệu quả tạo ra động
lực sản xuất
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng sự hoạt động của quy
luật giá trị càng dẫn đến việc phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia rẽ
dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế
và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép
sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị, xã hội, mâu thuẫn gắt
gay về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn đến sự đe doạ ổn định chế độ. Để ổn
định về mặt chính trị, tạo ra môi trường xã hội lành mạnh cho các doanh nghiệp
làm ăn, Nhà nước phải hoàn thành các phân phối và phân phối lại thu nhập của các

7

h


tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng, hiệu quả. Mặt khác trong nền
kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường,về trình độ
tay nghề và sự may mắn dẫn đến sự khác nhau là lẽ đương nhiên. Do vậy, Nhà
nước phải biết lựa chọn phương án phân phối lại như thế nào đó cho các hoạt động
kinh tế có hiệu quả trong sự bình đẳng cho phép.
4.4. Can thiệp vào các quá trình kinh tế mỗi khi có chấn động
Định hướng và tạo mơi trường phân phối thu nhập là những công việc cần
thiết thể hiện vai trò của Nhà nước trong một chiến lược dài hạn. Dưới ảnh hưởng
của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, của quan hệ kinh tế quốc tế,
việc hiện thực hoá mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn bị những “cú
sốc” làm chệch hướng là điều khơng tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước
phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, quỹ dự trữ quốc gia, chi tiêu ngân
sách để giảm những chấn động cú sốc gây nên, đưa nền kinh tế đi theo định hướng.
4.5. Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta Nhà nước cùng một lúc phải hoàn
thành hai nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế:
Thứ nhất, Nhà nước điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch
định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các
phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng, công
bằng, hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp làm ăn, can
thiệp vào nền kinh tế mỗi khi có “cú sốc” để làm giảm các chấn động trên con
đường đi đến mục tiêu.
Thứ hai, cùng với chức năng điều khiển nền kinh tế, Nhà nước cịn phải đóng
vai trị người quản lý tài sản quốc gia. Về mặt đối ngoại, Nhà nước có trách nhiệm
bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngồi đến các vùng đặc quyền

đặc lợi trong lịng đất, vùng trời và vùng biển. Về mặt đối nội, Nhà nước là người
chủ sở hữu các nguồn lực này và phân bố sử dụng sao cho hợp lý. Mặt khác, Nhà
nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Với tư cách là chủ sở
hữu của doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trị độc
quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của đế chế. Với tư cách là
người chủ quản lý đất nước, Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể của quá trình
phân cơng lại vai trị giữa các thành phần kinh tế sao cho lợi ích riêng của các
thành phần kinh tế khơng làm triệt tiêu lợi ích chung của tồn xã hội.
4.6. Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tục q
trình tự do giá cả, thương mại hoá nền kinh tế với những nội dung cơ
bản
8

h


Xố bỏ tình trạng độc quyền, xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng
cách tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tạo ra các điều
kiện, các tiền đề kinh tế, pháp lý cho sự hoạt động của các thị trường cần thiết như
thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động…
4.7. Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tục quá
trình tự do giá cả, thương mại hoá nền kinh tế với những nội dung cơ
bản
 Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân với các quyền cụ thể như
thừa kế, thế chấp, cho thuê…
 Cho thuê hoặc đấu thầu tài sản sản xuất.
 Cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh.
II. MỤC TIÊU, CHỨC NĂNG VÀ CÁC VAI TRÒ QUẢN LÝ KINH TẾ
CỦA NHÀ NƯỚC
Phát triển kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng

CNXH ở nước ta là qúa trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong
một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hố, có kỷ cương, xố bỏ áp bức, bất
cơng, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
1. Các mục tiêu
1.1. Mục tiêu phân bố nguồn lực có hiệu quả
1.2. Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề
xã hội
1.3. Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế
Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hố nền
tài chính quốc gia, phát triển các thành phần kinh tế trong nước, kinh tế quốc doanh
đóng vai trị chủ đạo. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Khuyến khích phát minh sáng kiến và sử dụng nguồn lực chất xám tham gia vào
quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới, cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền.
Thúc đẩy thị trường phát triển toàn diện tất cả các yếu tố (lao động, vốn, kỹ thuật,
đất đai,…) trong tất cả các lĩnh vực và trong mọi không gian. Mặt khác mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, phát triển
mạnh du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài…
1.4. Bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Tổ quốc
2. Các chức năng
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước được quan niệm với tư cách là cơ
quan quyền lực chính trị bảo vệ lợi ích của tồn dân và là chủ sở hữu đại diện cho
9

h


tồn dân đối với tài sản quốc gia. Do đó, Nhà nước cần thực hiện đúng các chức
năng chủ yếu trong lĩnh vực quản lý về kinh tế.
2.1. Định ra khuôn khổ pháp luật cho các hoạt động sản xuất kinh doanh

Nhà nước đặt ra các khung pháp luật, đề ra hệ thống pháp lý, đặt ra những
điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động của thị trường, quy định hoạt
động kinh tế mà các doanh nghiệp và người tiêu dùng trong mọi thành phần kinh tế
phải tuân theo. Các khung pháp luật phải đảm bảo được tính dân chủ sự bình đẳng
các cơ may để mọi cơng dân có thể tham gia các hoạt động thị trường. Đối với Việt
Nam, do hệ thống hoạt động kinh tế còn đơn sơ nên chức năng này chưa được thực
hiện đầy đủ. Do đó, chúng ta cần đổi mới việc xây dựng, ban hành và thực thi luật
pháp đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế xã hội theo cơ chế thị trường, bảo đảm tính
hệ thống của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến luật pháp và các thông lệ
quốc tế, khẩn trương xây dựng và ban hành hệ thống luật kinh tế, luật bảo vệ mơi
trường… và phổ cập cho tồn dân.
2.2. Ổn định và cải thiện các hoạt động kinh tế
Bàn tay vơ hình của cơ chế thị trường có thể tạo ra nhiều yếu tố cho nền kinh
tế nhưng nó cũng không tránh khỏi chu kỳ kinh doanh dẫn tới lạm phát, thất
nghiệp. Nếu Nhà nước buông lỏng cho thị trường vận động thì biến động đó rất rõ.
Nhà nước XHCN cần phải tìm mọi cách kiểm sốt và ngăn chặn những thăng trầm
của của chu kỳ kinh doanh thông qua các chính sách kinh tế như chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ để làm giảm biên độ dao động của chu kỳ kinh doanh,
hạn chế thất nghiệp lạm phát. Ở nước ta, Chính phủ cần hồn thiện các chính sách
để tạo điều kiện cần thiết cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả, sử dụng
chính sách tài chính và chính sách tiền tệ tác động có lợi đến sản lượng, việc làm,
thu nhập và giá cả, tạo nên sự phát triển nhịp nhàng, năng động của nền kinh tế.
2.3. Chức năng hiệu quả kinh tế
Cơ chế thị trường có thể dẫn tới một số thất bại, làm giảm hiệu quả của sản
xuất và tiêu dùng. Do đó Nhà nước cần phân bổ tài nguyên và nguồn lực sao cho
đảm bảo hiệu quả kinh tế, ngăn chặn những hành động bất chấp luật lệ, những tư
tưởng cạnh tranh khơng lành mạnh, đồng thời có các chính sách và kế hoạch dẫn
dắt nền kinh tế để giúp nhà doanh nghiệp lựa chọn để sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào và phân phối cho ai để sản xuất có hiệu quả cao nhất.
2.4. Chức năng cơng bằng xã hội

Phân phối là một khâu không thể thiếu được của q trình tái sản xuất. Nó
nối liền sản xuất với tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, nó phản ánh quan hệ
giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của tồn xã hội. Cơ chế thị trường có thể
10

h


giúp chúng ta sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, vật tư, sức lao động giúp các nhà
doanh nghiệp sản xuất những hàng hoá phù hợp với yêu cầu thị trường. Nhưng
ngay cả trong trường hợp hoàn hảo như người ta mơ tả thì nó cón có những hạn chế
bởi vì hàng hố được sản xuất và tiêu thụ theo tiếng gọi của lợi nhuận chứ không
phải theo ước nguyện của mọi tầng lớp. Do đó trong xã hội sẽ nảy sinh rất nhiều
những sự bất bình đẳng lớn trong nền kinh tế về thu nhập, cơ may… nhiều nghịch
cảnh còn tồn tại. Trong những trường hợp này, thị trường vẫn làm đúng chức năng
của nó là đặt hàng vào tay người có thể trả tiền nhiều nhất. Vì vậy Nhà nước cần có
những biện pháp điều tiết để đạt được cơng bằng xã hội thơng qua những chính
sách những cơng cụ pháp luật.
3. Các vai trị
3.1. Định hướng chiến lược đúng đắn vai trị quan trọng mang tính chất
tiên quyết đối với sự phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh Nhà nước khơng can thiệp vào họ sản xuất cái
gì, sản xuất như thế nào và sản xuất bằng cách nào, tiêu thụ ở đâu. Nhà nước can
thiệp bằng cách đưa ra các luật, chia xẻ pháp luật định hướng ta cần phát triển như
thế nào và phát triển cái gì làm chủ đạo. Nhà nước không theo đuổi mục tiêu lợi
nhuận mà chỉ vươn tới một xã hội ổn định hơn. Định hướng cho các doanh nghiệp
là định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau sao
cho mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình nhưng cũng đồng thời góp phần
của mình theo đuổi lợi ích dân tộc bằng việc hoạch định các chính sách theo cơ cấu

ngành, vùng, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên để mang tính định hướng cao hơn.
Sau khi lựa chọn chiến lược phát triển đúng đắn Nhà nước đều đề ra các chương
trình phát triển kinh tế xã hội nhằm dẫn dắt, khuyến khích mọi thành phần kinh tế
hướng vào mục tiêu đề ra. Sự dẫn dắt của Nhà nước với những chiến lược đúng đắn
sẽ là bước vững chắc để xã hội có thể bước được những bước cao hơn.
3.2. Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư từ các nguồn trong và
ngoài nước đặc biệt là vốn đầu tư từ nước ngoài
Nhà nước luôn phải giữ mức lãi suất tiết kiệm là dương nghĩa là phải cao
hơn lạm phát để khuyến khích gửi tiền tiết kiệm cũng như sử dụng vốn vay có hiệu
quả. Các hình thức lưu động vốn khá phong phú và linh hoạt có thể bằng nhiều
hình thức cổ phiếu, trái phiếu, thị trường chứng khoán rất phát triển. Hoạt động của
thị trường chứng khốn sẽ góp phần quan trọng vào việc huy động vốn tạo điều
kiện cho vốn di chuyển dễ dàng đến những khu vực kinh doanh có hiệu quả và bổ
sung hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nguồn vốn bao gồm: viện trợ, vốn vay đầu
tư và vốn trực tiếp từ nước ngoài. Xây dựng cơ sở hạ tầng có sẵn hệ thống cung cấp
điện nước, nhà ở, bưu điện, kho tàng, giao thông, thuận lợi cho thuê với giá rẻ,
nhằm giúp các nhà đầu tư nước ngồi nhanh chóng đi vào hoạt động sản xuất, rút
11

h


ngắn vòng quay của vốn. Lập ra các khu mậu dịch tự do “khu công nghiệp chế biến
xuất khẩu”, “khu công nghiệp tự do” để thực hiện tổng hợp của nó. Những vấn đề
này đề ra khơng ai khác ngồi Nhà nước có thể làm được.
3.3. Nhà nước thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mơ
Nhà nước thực hiện một cách linh hoạt, mềm dẻo các chính sách và tín dụng
như: nới lỏng hàng rào thuế quan, miễn giảm thuế, và có lãi suất ưu đãi đối với
hàng xuất khẩu… đã kích thích sản xuất và xuất khẩu. Các biện pháp để ổn định
chống lạm phát là thực hiện có hiệu quả về thu thuế, tăng cường xuất khẩu, để tăng

thu năng suất dùng quỹ phát hành để bồi đắp bội chi, tăng tỷ lệ lãi suất và tiền vay
ngân hàng, khuyến khích hạn chế chi dùng.
3.4. Nhà nước điều tiết thu nhập đảm bảo công bằng xã hội
Đối với sản xuất tăng thu nhập là điều kiện mở rộng để tích luỹ, tăng đầu tư,
tạo ra các nguồn lực gắn với thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh.
Đồng thời thông qua phân phối thu nhập hợp lý các chủ thể kinh tế và người lao
động sử dụng nguồn thu nhập của mình để tăng cầu. Nhà nước cũng có chức năng
phân phối thông qua công cụ điều tiết. Trong kinh tế thị trường chủ sở hữu đất đai
được hưởng địa tô, người lao động phân phối theo tiền lương, tiền công dựa theo
kết quả lao động, người quản lý được phân phối theo lợi nhuận với nguyên tắc đảm
bảo các yếu tố sản xuất kinh doanh phải được trả giá đầy đủ sòng phẳng và thoả
thuận.
3.5. Nhà nước kịp thời điều chỉnh việc sử dụng các thành phần kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế quốc doanh đóng vai
trị mở đường tham gia vào một số khâu quan trọng nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện
cho tư nhân nhanh chóng phát huy hiệu quả đầu tư sản xuất như xây dựng và hiện
đại hoá cơ sở hạ tầng, đảm nhận các dịch vụ thông tin, tiếp thị, đào tạo nghiên cứu
và một phần ứng dụng kỹ thuật mới.
3.6. Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Chính phủ ngồi việc tăng kinh phí từ ngân sách cho giáo dục, đào tạo nhanh
hơn nhiều lần so với mức tăng trưởng kinh tế, còn huy động vốn trong xã hội, thu
hút đầu tư nước ngoài thơng qua đa dạng hố giáo dục đào tạo, chú trọng phát triển
văn hoá, nhân tài. Tạo tiền đề phát triển, tăng trưởng kinh tế, sử dụng nguồn lao
động có hiệu quả nhất trả lương thích đáng cho lao động có trình độ, đảm bảo tái
sản xuất sức lao động.

12

h



CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
Trong quá trình chuyển mình theo một thời đại mới, chúng ta đã thành công
nhưng cũng có những khuyết điểm, vấp váp. Việc đánh giá thực chất và xu thế của
tình hình, rút ra những kết luận đúng đắn làm cơ sở xác định hướng đi cho những
năm sau là điều kiện vô cùng cần thiết. Chúng ta có thể nói rằng chúng ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng để chứng tỏ rằng đường lối đi là đúng đắn, bước
đi là phù hợp theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã đạt được những tiến bộ bước đầu về kinh tế, về nông nghiệp,
đặc biệt là lương thực, kiềm chế một bước đà lạm phát, giảm bớt một phần khó
khăn về đời sống nhân dân. Đã đạt được những tiến bộ về xuất khẩu và cải thiện
đáng kể cán cân nhập khẩu đúng vào lúc mà quan hệ kinh tế đối ngoại có những
biến động đột ngột, viện trợ quốc tế giảm nhiều, nguồn vay nhập siêu khơng cịn,
và khả năng nhập khẩu từ các thị trường truyền thống giảm mạnh. Có thể nói
những tiến bộ kinh tế vừa qua đã giúp cho nền kinh tế nước ta thoát khỏi cơn thử
thách hiểm nghèo.
Nền kinh tế hình thành kinh tế hàng hố, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản xuất, đã có điều chỉnh quan
trọng theo hướng tập trung cho ba chương trình kinh tế đáp ứng hiệu quả hơn
những nhu cầu của thị trường trong nước và đang dần mở rộng với thị trường thế
giới.
Với chính sách đối ngoại mở rộng ta cũng gặt hái được nhiều thắng lợi trong
hoạt động ngoại giao, việc Mỹ bỏ cấm vận năm 1993, việc Việt Nam nhập ASEAN
năm 1996 đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thị trường trong nước với thị
trường thế giới.
II.


HẠN CHẾ CÒN TỒN TẠI

Thứ nhất, mức độ lạm phát vẫn còn cao, những nguyên nhân của lạm phát
chưa được xố bỏ. Sản xuất cịn nhiều mặt đình đốn. Lao động thất nghiệp hoặc
khơng đủ việc làm ngày càng tăng. Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn. Có
những mặt trong lĩnh vực văn hố xã hội chưa chặn đứng được tình trạng xuống
cấp. Tham nhũng, bất cơng và tiêu cực trong xã hội cịn nhiều; trật tự và an tồn xã
hội cịn phức tạp; pháp luật, kỷ cương xã hội chưa nghiêm. Việc chuyển nền kinh tế
mang nặng tính tự cấp, tự túc, với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
13

h


lý của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết để giải phóng và phát huy các
tiềm năng sản xuất trong xã hội nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị
trường là một liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển kinh
tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu
cực xã hội. Đã xuất hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa
đảo, gây tội ác, vi phạm pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm.
Lối sống truỵ lạc chạy theo những thị hiếu thấp hèn, văn hố khơng lành mạnh và
những thủ tục mê tín dị đoan đang được phục hồi và phát triển. Trong thế hệ trẻ có
một bộ phận phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng. Một bộ phận khơng
ít cán bộ đảng viên có chức có quyền, trong đó có cả những người đã từng đóng
góp đáng kể cho cách mạng cũng bị tha hố, biến chất.
Thứ hai, ngồi ra chúng ta cịn có một cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, các văn
bản pháp quy nhiều lúc mâu thuẫn với nhau chồng chéo lên nhau, kém hiệu lực.
Thứ ba, đồng thời với nó là các hệ thống cơ quan thanh tra kiểm tra về kinh
tế nhiều khi gây phiền hà, khó khăn khơng hiệu quả gây ra ức chế cho các nhà

doanh nghiệp.
Thứ tư, cơ chế quản lý còn quá phức tạp, thủ tục vô cùng cồng kềnh và rườm
rà từ cấp trên xuống cấp dưới.
Thứ năm, việc bất cập về lãi suất cũng như thơng tin chưa đầy đủ, chính xác
dẫn đến tình trạng khơng kiểm sốt được mức cung tiền gây ra sự phiền hà và thất
bại của thị trường.
Thứ sáu, việc để hàng lậu tràn vào quá nhiều hay sự “vô tâm” của các nhà
chức trách dẫn đến làm cho giá trị của hàng nội giảm, xuất khẩu giảm người dân
không tiêu thụ được sản phẩm của mình dẫn đến những hành động tiêu cực phá huỷ
hay đốt bỏ các sản phẩm của mình.
Thứ bảy, tư tưởng của Nhà nước ta cịn q cứng nhắc đối với các hình thức
đầu tư vốn vào của các nhà doanh nghiệp nước ngoài.

14

h


CHƯƠNG 3:
CÁC BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ KINH TẾ
CỦA NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Ở nước ta, trong giai đoạn hiện nay, việc tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ngày càng cấp thiết và khơng cịn cách nào
khác là phải đẩy mạnh đổi mới, hồn thiện các cơng cụ quản lý vĩ mơ của Nhà
nước.
I.

ĐỔI MỚI VÀ BỔ SUNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

Tiếp tục đổi mới và bổ sung hệ thống pháp luật, nhất là luật kinh tế, luật bảo

vệ môi trường. Tăng cường kỹ thuật trong việc chấp hành chính sách, chế độ của
Nhà nước. Bảo đảm tính hệ thống của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến luật
pháp và thơng lệ quốc tế. Phát triển các hình thức dịch vụ pháp lý, phổ cập luật cho
toàn dân, kiện toàn bộ máy kiểm tra việc thi hành pháp luật, nghiên cứu thành lập
toà án kinh tế.
II.

ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KẾ HOẠCH

Cơng bố kế hoạch hố qua thời gian đổi mới đã có một số bước tiến bộ. Cần tiếp
tục đổi mới nâng cao kế hoạch, xác định những cân đối lớn, hướng dẫn hoạt động
của các thành phần kinh tế lấy thị trường làm đối tượng chính và căn cứ quan trọng.
Sử dụng chương trình mục tiêu, chính sách đầu tư tín dụng… để tạo điều kiện và
hướng dẫn sự phát triển của các thành phần kinh tế, nâng cao trình độ dự báo kinh
tế - xã hội trong công tác kế hoạch.
III.

ĐỔI MỚI NGÂN SÁCH

Lĩnh vực tài chính tiền tệ thời gian qua đã có một bước đổi mới nhưng nhìn
chung cịn yếu kém, đáng chú ý là hiện tượng thất thu thuế và bội chi ngân sách
còn lớn. Nhà nước hầu như thả nổi phân phối thu nhập, các xí nghiệp quốc doanh,
ngân hàng chưa trở thành trung tâm thanh tốn và tín dụng của xã hội. Vì thế cần
đổi mới căn bản hệ thống tài chính tiền tệ, xây dựng chính sách tài chính quốc gia
và thực hiện hệ thống cải cách tài chính theo hướng khai thác tiềm năng của các
tầng lớp dân cư để phát triển kinh tế, nâng cao nguồn thu cho ngân sách, tạo điều
kiện gây sức ép buộc các doanh nghiệp tìm tịi biện pháp nâng cao hiệu quả kinh
doanh, thực hiện phân phối hợp lý thu nhập quốc dân, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, thực hành tiết kiệm đảm bảo công bằng xã hội
và góp phần hạn chế đẩy lùi lạm phát. Đổi mới ngân sách là phải xây dựng một

ngân sách Nhà nước lành mạnh, không bao cấp và ỷ lại vào viện trợ nước ngoài.
Ngân sách Nhà nước phải được hạch toán theo nguyên tắc ngang giá, thu chi ngân
sách phải hợp lý.
15

h


IV.

NÂNG CAO HIỆU LỰC CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - TÍN DỤNG

Gấp rút tổ chức ngân hàng đủ mạnh, có khả năng thực hiện tốt nghiệp vụ
trong cơ chế thị trường. Ngân hàng Nhà nước làm đúng chức năng quản lý đồng
tiền của mình và giữ tính độc lập tương đối trong phát hành tiền. Phát huy mạnh mẽ
vai trò địn bẩy và cơng cụ điều tiết vĩ mơ của chính sách tiền tệ tín dụng. Kiên trì
thực hiện những nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng, thúc đẩy nâng cao tính
tự chủ tài chính của xí nghiệp để hiện đại hố và hiệu quả hố các xí nghiệp trong
nền kinh tế quốc dân.
V.

NÂNG CAO VAI TRÒ KINH TẾ QUỐC DOANH, KINH TẾ TẬP THỂ
để có thể làm chủ được các lĩnh vực then chốt để từ đó điều chỉnh nền kinh tế
qua hệ thống này thông qua tổng cung và tơng cầu.
VI. THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI, mở rộng hợp
tác với các nước trên thế giới và trong khu vực, tạo ra môi trường quan hệ giao
lưu trao đổi về văn hoá, khoa học, thương mại để hoà nhập nền kinh tế Việt
Nam vào nền kinh tế thế giới.

16


h


KẾT LUẬN
Đối với Việt Nam ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên XHCN, từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN thì vai trị nhà nước là vơ cùng quan trọng. Thơng qua vai trị quản lý
điều hành nền kinh tế của Nhà nước sẽ tạo ra cho nền kinh tế nước ta một trình độ
phát triển mới tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên
thế giới, đồng thời cải thiện nâng cao đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân.
Hơn 10 năm đổi mới chuyển đổi từ nền kinh tế đã đem lại cho Việt Nam
những thành tựu to lớn cực kỳ quan trọng. Đó chính là mốc mới trong sự phát triển
tư tưởng của Đảng. Từ đại hội 6 năm 1986 Đảng ta đã khởi xướng quá trình chuyển
đổi nền kinh tế theo KTTT định hướng XHCN phải có sự quản lý của nhà nước. Tư
tưởng đại hội 7 (1991) lại một lần nữa nhấn mạnh quá trình chuyển đổi là cần thiết
và vai trò kinh tế của Nhà nước là yếu tố quyết định tới sự phát triển nền kinh tế. Vì
vậy Đảng và Nhà nước ta cần có những chính sách giải pháp nhằm phát huy nâng
cao hơn nữa những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường và hạn chế tối đa mặt
tiêu cực. Đồng thời nhà nước phải nâng cao hơn nữa hiệu lực và vai trò kinh tế
trong việc quản lý điều tiết ở tầm vĩ mô nền kinh tế. Phát triển kinh tế gắn liền với
phát triển xã hội nhằm làm cho "mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc có điều
kiện phát triển tồn diện cá nhân đảm bảo công bằng dân chủ".

17

h


Tài liệu tham khảo


1. Giáo trình kinh tế chính trị học (tập 2) - NXB Giáo dục Hà Nội
2. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII
3. Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường - GS-TS Lương Xuân
Quỳ, P.T.S Lê Anh Sắc
4. V.I.Lê Nin toàn tập (tập 3) - NXB Tiến bộ
5. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 - NXB Sự thật,
Hà Nội 1991
6. Một số vấn đề về Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994
7. Cơ chế thị trường và vài trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam - NXB Thống kê
1999

18

h



×