Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tiểu luận: Asian equity markets: growth, opportunities, and challenges

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 30 trang )

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP





Đề tài:
ASIAN EQUITY MARKETS: GROWTH,
OPPORTUNITIES, and CHALLENGES

GIÁO VIÊN: TS. HỒ VIẾT TIẾN


SVTH : NHÓM 3 và NHỎM 14
- NGUYỄN THỊ TƯỜNG VI ( Nhóm 14)
- LÊ NGUYỄN VĨNH HẰNG( Nhóm 14)
- NGUYỄN THỊ HÀO( Nhóm 14)
- LÊ TRUNG HIẾU( Nhóm 14)
- NGUYỄN THỊ DIỂM( Nhóm 14)
- PHAN HỒ HOÀNG B

O ( Nhóm 3 cũ)
- LAI DƯỠNG NAM ( Nhóm 3 cũ)
LỚP : TCDN ĐÊM 3 – K22


TPHCM, 2013


2

PHỤ LỤC
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CHÂU Á 3
1.1 Thị Trường Mới Nổi 3
1.2 Những Nhân Tố Dẫn Đến Sự Phát Triển 7
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỚI NỔI
CHÂU Á 17
2.1 Sự Biến Động Về Giá 17
2.2 Những Hoạt Động Kinh Tế 18
2.3 Mối Tương Quan Với Thị Trường Vùng và Thế Giới 21
2.4 Những Chính Sách Cần Thiết 25
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 27



3

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CHÂU Á
1.1 Thị Trường Mới Nổi
Thị trường chứng khoán châu Á đang phát triển khá qui mô và nhanh chóng. Từ
năm 1990 đến 2005, vốn hóa của châu Á đã tăng hơn gấp đôi tương đương 13.7 nghìn
USD , chiếm 30 phần trăm vốn hóa thế giới. Ngoại trừ Nhật Bản và Úc, đã tăng gần mười
lần. Các trung tâm tài chính của Hồng Kông SAR, Singapore và Nhật Bản thống trị khu
vực, chiếm hai phần ba tài sản vốn Châu Á lúc bấy giờ. Thị trường ở một số nước khác,
chẳng hạn như Malaysia và Đài Loan cũng khá lớn. Tuy nhiên, đối với hầu hết các nơi,
vốn hóa thị trường vẫn còn thấp hơn mức các nước công nghiệp.

Sự tăng trưởng tại các thị trường châu Á đã dẫn theo thanh khoản và độ rộng thị
trường được cải thiện.Từ năm 1990, thanh khoản thị trường (đo bằng vòng quay cổ

phiếu) đã tăng gấp đôi so với GDP, trong khi tốc độ chu chuyển (vòng quay cổ phiếu /
vốn hóa thị trường) đã tăng lên gần gấp bốn lần. Độ rộng thị trường (tỷ lệ vốn hóa thị
trường và số lượng chiếm bởi 10 công ty lớn nhất-chiếm phần lớn thị trường) ở châu Á
giờ đã lớn hơn trong thị trường mới nổi khác, mặc dù ít hơn so với các nước công nghiệp.
Thị trường mới nổi trong bài viết đề cập đến chỉ bao gồm: Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn
Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan.
Tuy nhiên, có sự đa dạng đáng kể trong bức tranh toàn cảnh này. Thị trường
chứng khoán ở Trung Quốc và Indonesia vẫn không thanh khoản tốt và ít tác động tới
quy mô của nền kinh tế trong nước, so với mức tăng trưởng của phần còn lại của khu vực.
Ở Trung Quốc, thị trường cổ phiếu sơ khai phản ánh sự hoạt động yếu kém công ty nhà
nước, khi mà các công ty này chiếm khoảng một nửa tổng vốn hóa thị trường (theo Viện
McKinsey Global, 2006a). Phần lớn các công ty thành công của Trung Quốc chọn niêm
yết ở nước ngoài, chủ yếu ở Hồng Kông. Tại Indonesia, sự phát triển của thị trường
chứng khoán đã bị cản trở bởi những yếu kém trong minh bạch thông tin, chính sách
4

công bố thông tin và quản trị doanh nghiệp. Thị trường ở Philippines và Hồng Kông bị
chi phối bởi một số ít các công ty này. Thị trường như Bhutan, nằm ngoài thị trường mới
nổi, tập trung vào các nhà đầu tư quốc tế, phải đối mặt với thách thức duy nhất.
Trong khi tài chính châu Á vẫn duy trì sự thống trị của các ngân hàng, thị trường
chứng khoán cũng là một nguồn quan trọng của tài chính doanh nghiệp. Trong năm 2005,
các công ty mới nổi châu Á khai thác thị trường cổ phiếu khoản 814 tỷ đô la bằng cách
phát hành mới cổ phiếu thông qua các thị trường sơ cấp và thứ cấp (Table 1). Tuy nhiên,
hoạt động phát hành được tập trung cao độ trong khu vực: Hồng Kông chiếm gần một
nửa tổng số phát hành Châu Á, với thị trường lớn nhất tiếp theo (Ấn Độ) chiếm chỉ hơn
một phần năm tổng số. Nhìn chung, cổ phiếu chiếm khoảng 10 phần trăm tài chính doanh
nghiệp tại các thị trường mới nổi Châu Á, nhưng điều này khá cao so với 3,7 phần trăm
trong thị trường mới nổi bên ngoài Châu Á. Cổ phiếu cũng là một phần lớn các tài sản tài
chính trong khu vực, chiếm khoảng một nửa tài sản (tiền gửi, cổ phiếu, trái phiếu) (Figure
3 và 4). Tuy nhiên, cổ phiếu nói chung vẫn chưa phục hồi đến mức trước khủng hoảng

châu Á.

Sự phát triển của thị trưởng phái sinh cô phiếu
Các phái sinh cổ phiếu, như các chứng khoán phái sinh nói chung, có thể chuyển
nhượng những lợi ích nhưng cũng kéo theo những rủi ro được kiểm soát. Các chứng
khoán phái sinh là một lựa chọn khác cho các nhà đầu tư kinh doanh trên thị trường
chứng khoán cơ sở và thị trường tiền bổ sung bằng cách cung cấp các chứng khoán
phòng chống rủi ro và cơ hội kinh doanh chênh lệch giá thấp. Phái sinh cổ phiếu như cổ
phiếu đơn lẻ hoặc chỉ số tăng cường tính thanh khoản trong thị trường vốn tiền mặt, cải
thiện giá bán và giảm chi phí danh mục đầu tư cho các doanh nghiệp. Đồng thời, sự dịch
chuyển nhỏ về giá có thể có một tác động rất lớn trên tình hình tài chính của người tham
gia trong các thị trường này, bởi vì các chứng khoán phái sinh thường thể hiện đòn bẩy
đáng kể.
5

Các phái sinh cổ phiếu đã phát triển mạnh trong một số thị trường ở châu Á. Trên
sàn giao dịch châu Á, các phái sinh cổ phiếu đã chứng kiến sự tăng trưởng nhanh nhất
của tất cả các sản phẩm phái sinh giao dịch. Chứng khoán phái sinh trong thị trường mới
nổi châu Á đã mọc lên như nấm từ 16.5 nghìn tỷ đô la năm 2002 lên 40.3 nghìn tỷ đô la
năm 2005 (tương đương 35,3 phần trăm giao dịch toàn cầu). Vào cuối tháng 8 năm 2006,
các giao dịch chiếm thậm chí 38,6-43,9 phần trăm của giá trị trên toàn thế giới tính theo
giá trị danh nghĩa và số lượng giao dịch tương ứng.
Hầu hết các phái sinh cổ phiếu đều được giao dịch trên sàn (ETD), trái ngược với
sàn giao dịch phái sinh ngoại hối và phái sinh lãi suất, chủ yếu được giao dịch ở OTC.
Những sàn giao dịch chính thức ổn định đang dẫn đầu sự tăng trưởng tại các thị trường
phái sinh châu Á, có thể được chia thành ba nhóm: (i) sàn giao dịch cổ phần hóa hoàn
toàn (Hồng Kông SAR và Singapore), trong đó cung cấp một loạt các sản phẩm phái
sinh, (ii) sàn giao dịch cổ phần hóa không hoàn toàn (Hàn Quốc, Ấn Độ và Malaysia),
trong đó chuyên về các sản phẩm cổ phiếu giao sau và các sản phẩm chỉ số , và (iii) thị
trường phái sinh không hoặc có giới hạn giao dịch trên sàn và giao dịch phái sinh OTC

(Trung Quốc, Indonesia, Philippines, và Thái Lan).

6


Sự phát triển rất nhanh tại thị trường Hàn Quốc nhờ vào những điều khoản hợp
đồng rõ ràng và một môi trường kinh doanh thân thiện với các nhà đầu tư bán lẻ, tổ chức
thị trường phái sinh năng động nhất trên thế giới. Trong năm 2005, giá trị giao dịch hàng
ngày của nó đạt khoản 151 tỷ đô la, gần 34 phần trăm giao dịch trên toàn thế giới (83
phần trăm giao dịch trong tất cả các khu vực châu Á). Từ năm 2000, tăng trưởng giao
dịch phái sinh nhìn chung ở Hàn Quốc, Hồng Kông, và Đài Loan POC đã vượt xa tốc độ
tăng trưởng của cả hai vốn hóa thị trường trong nước và giao dịch tiền mặt trong thị
trường cổ phiếu. Thị trường chứng khoán phái sinh của Ấn Độ cũng có quy mô đáng kể
và thống trị giao dịch toàn cầu trong giao dịch giao sau. Thị trường chứng khoán phái
sinh được ít nhiều được phát triển tốt ở các nước châu Á khác, ngay cả những nơi có thị
trường tiền hoạt động mạnh mẽ. Biến thể trong sự phát triển thị trường phái sinh liên
quan chủ yếu đến sự khác biệt về cơ sở hạ tầng trong hoạt động và pháp lý (Fratzscher,
2006). Điển hình như

sự phát triển mạnh mẽ của các phái sinh cổ phiếu tại Hàn Quốc và
Ấn Độ phản ánh một cơ sở hạ tầng và hoạt động pháp lý vững chắc. Trong khi đó, các
quốc gia đang bị tụt hậu có cơ sở hạ tầng giao dịch yếu kém, bất cập trong luật tạo ra sự
7

không chắc chắn về việc liệu các hợp đồng phái sinh có thể được thực thi (hoặc thậm chí
cho dù các giao dịch phái sinh được cấp phép), quy định về thuế không thân thiện với các
phái sinh, cấm bán khống, và những hạn chế về đầu tư nước ngoài.
Để đạt được đầy đủ những lợi ích của thị trường phái sinh cổ phiếu nhằm thúc đẩy
sự phát triển rộng lớn hơn thì cần sự quản lý chặt chẽ rủi ro đối với sự ổn định tài chính.
Trong các nước châu Á mà không có các sàn giao dịch phái sinh chính thức, sự phổ biến

của OTC phái sinh đòi hỏi phải chú trọng nhiều hơn về công bố và minh bạch, quản lý tốt
và quản lý rủi ro. Rủi ro hệ thống có thể giảm được khi giao dịch xảy ra trong những sàn
giao dịch được tổ chức và quản lý tốt , cần phải yêu cầu ký quỹ và giới hạn phù hợp ,
quản lý thanh toán bù trừ tập trung, giải quyết, tham gia vào giám sát thị trường, thực
hiện đầy đủ công khai, và hỗ trợ rủi ro thông qua các thỏa thuận chia sẻ tổn thất, vốn tiền
gửi của các thành viên, và tái bảo hiểm quá mức tổn thất quốc tế. Ngoài ra, cần người
giám sát và cơ quan quản lý có thể xác định sự ảnh hưởng của các tổ chức tài chính có hệ
thống quan trọng đối với thị trường phái sinh. Các giao dịch bán lẻ lớn các phái sinh có
thể gây ra những thách thức riêng và có thể (về nguyên tắc) đòi hỏi đáng kể hiệu ứng phụ
trên các lĩnh vực thực tế, ví dụ, một thị trường suy thoái mà gây thiệt hại trên diện rộng
hộ gia đình có thể ảnh hưởng đến lòng tin và chi tiêu. Các quan chức các nước cần phải
hiểu rõ vấn đề này đối với sự bảo vệ ổn định tài chính.
1.2 Những Nhân Tố Dẫn Đến Sự Phát Triển
Đa dạng hóa các nhà đầu tư quốc tế
Dòng vốn vào thị trường châu Á mới nổi đã tăng mạnh (Figure 6 và 7). Dòng vốn
bơm vào đặc biệt mạnh mẽ trong những năm gần đây, mặc dù thỉnh thoảng cũng không
tốt(đối với hầu hết các nước, chỉ có một phần của dòng vốn bơm những tháng đầu năm
2006 đã bị rút ra trong đợt bán tháo tháng 6.) Tính đến cuối năm 2004, các nhà đầu tư
quốc tế đã đầu tư khoản 638 tỷ đô la trong thị trường cổ phiếu Châu Á mới nổi làm tăng
gấp 12 lần so với những năm 1990.
8


Theo đó, thị trường châu Á
mới nổi nắm bắt ba phần tư
các khoản đầu tư cổ phiếu
toàn cầu trong thị trường mới
nổi, tăng từ khoảng một nửa
trong năm 1992. Một yếu tố
cơ bản là sự bùng nổ của

dòng chảy từ các quỹ cổ
phần của thị trường mới nổi
chuyên dụng, có tài sản đã
tăng với tỉ lệ vượt quá 54
phần trăm mỗi năm kể từ
năm 2000 (Figure 8). Với tài sản khoản 125 tỷ đô la, đây là các nhà đầu tư quan trọng
trong khu vực. Nhưng con số này phản ánh thấp hơn sự hiện diện của các nhà đầu tư toàn
cầu, kể từ khi thị trường châu Á có khả năng nắm bắt được một phần tài sản lớn hơn đáng
kể được quản lý bởi các quỹ đầu tư toàn cầu.

9


Các nhà đầu tư quốc tế hiện nay
đóng một vai trò quan trọng trong nhiều
thị trường châu Á. Các nhà đầu tư tập
trung ở các thị trường như Hàn Quốc,
Hồng Kông, Đài Loan-Trung Quốc, Ấn
Độ và Singapore, với phân bổ danh mục
đầu tư sang các nước ASEAN tương đối
nhỏ. Tuy nhiên, ngay cả ở các quốc gia,
trong đó cổ phần nước ngoài là tương
đối nhỏ (Table 4), họ vẫn có thể sở hữu
một phần lớn của cổ phiếu giao dịch (số
tiền sẵn có cho giao dịch). Ví dụ, tại Ấn
Độ, người nước ngoài sở hữu 20 phần
trăm cổ phiếu của Morgan Stanley
Capital International (MSCI), và ít hơn
của toàn bộ thị trường, họ nắm giữ trên
80 phần trăm của cổ phiếu giao dịch tự

do MSCI.

Hội nhập tài chính:
Việc kiểm soát các nhà đầu tư
nước ngoài tham gia thị trường
chứng khoán đã được nới lỏng
theo thời gian. Kể từ đầu những
năm 1990, những nền kinh tế như
Tỉnh Đài Loan của Trung Quốc,
Thái Lan và Hàn Quốc danh mục
vốn đầu tư của người không cư trú
tăng dần; Tỉnh Đài Loan đã loại
bỏ hoàn toàn loại hình này trong
năm 2003. Úc, Hồng Kông, Nhật
Bản và Singapore thì mở cửa tương đối cho dòng vốn xuyên biên giới của người nước
ngoài. Ngược lại, quyền hạn thường bị hạn chế đối với các tổ chức đầu tư nước ngoài
hoặc nhà đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc và Ấn Độ, mức độ tham gia bị giới hạn bởi
10

số lượng vốn hóa. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ vốn hóa thị trường châu Á được đầu tư
theo

S&P/IFC (một thước đo của Edison và Warnock đề xuất (2003) để đo lường sự mở
cửa thị trường) có xu hướng tăng từ đầu những năm 1990, phù hợp với cổ phiếu tự do
hóa thị trường.
Nhà đầu tư nước ngoài đủ điều kiện hoặc là những người được đăng ký và được
cấp phép của cơ quan quản lý để đầu tư vào thị trường chứng khoán của một quốc gia.
Họ thường được giám sát bởi cơ quan quản lý quốc gia đó, bao gồm lương hưu, bảo hiểm
và các quỹ tương hỗ, các ngân hàng, và ủy thác đầu tư.
Bảng 5. Hạn chế về Danh mục đầu tư xuyên biên giới ở châu Á năm 2005

Lu

t đ

nh thoáng hơn




Lu

t đ

nh h

n ch
ế

hơn

Úc

Không hạn chế
Thái Lan

Đầu tư cổ phiếu của thành
phần nước ngoài có nhiều
hạn chế khác nhau.
Trung Qu


c

Những nhà đầu tư đạt chuẩn
được đầu tư cổ phiếu loại A
theo hạn ngạch-không quá
10% cô phần 1 công ty niêm
yêt. Năm 2005, tổng hạn
ngạch là 10 tỷ USD
Bangladesh

Những người không cư trú
tự do mua chứng khoán cổ
phiếu.
Indonesia

Những người không cư trú
tự do mua chứng khoán cổ
phiếu, ngoại trừ những công
ty tài chính. Người không
cư trú không thể năm giữ
hơn 1% trong bất kỳ quỹ
đầu tư nào.

n Đ


Nhà đầu tư nước ngoài bị
mức giới hạn đầu tư như sau
: 24%( bảo hiểm), 49%(
hàng không), 74%( ngân

hàng). Không một nhà đầu
tư nước ngoài nào được
năm giữ hơn 10% cổ phần 1
công ty niêm yết.
H

ng Kông

Những người không cư trú
tự do mua chứng khoán cổ
phiếu. Đầu tư vào ngân
hang trên mức giới hạn thì
phải được phê duyệt.
Malaysia

Những người không cư trú
tự do mua chứng khoán cổ
phiếu. Mức giới hạn đầu tư
vào ngân hàng là 30%
Sri Lanka

Những người không cư chú
có thể đầu tư 100% cổ phiếu
vào những công ty đại
chúng và không đại chúng
mà không cần phê duyệt,
nhưng có những hạn chế và
loại trừ nhất định.
Nh


t

Những người không cư trú
tự do mua chứng khoán cổ
phiếu.
Vi

t Nam

Mỗi tổ chức và cá nhân
nước ngoải được phép là
30% cổ phần niêm yết hiện
hành.

11

Hàn Qu

c

Những người không cư trú
do mua chứng khoán cổ
phiếu nhưng đầu tư vào
ngân hàng nếu vượt quá
10% thì phải được phê
duyệt.


Singapore


Không hạn chế


Phillipines

Những người không cư trú
tự do mua chứng khoán cổ
phiếu.


Ngu

n: Asia Bond monitor 2005; và Báo cáo thư

ng niên IMF, 2005


Các luồng Danh mục đầu tư cổ phiếu trong nước tăng gần gấp ba so với 2001-
2004 đến 113,6 tỉ. Ngày nay, dòng mậu dịch trong khu vực chiếm hơn 15 phần trăm của
tổng dòng vốn bên ngoài đổ vào, tăng từ dưới 10 phần trăm vào năm 2001 (Table 6). Tuy
nhiên, các luồng vốn có nguồn gốc từ một vài quốc gia (chủ yếu là các trung tâm tài
chính của Hồng Kông, Singapore và Nhật Bản). Hơn nữa, dòng mậu dịch nhận đượcvẫn
còn nhỏ so với các luồng từ châu Á và các khu vực khác thế giới. Ví dụ, Nhật Bản, một
trong những nguồn lớn nhất của danh mục đầu tư trong khu vực, đầu tư khoảng 7 phần
trăm cho châu Á. Ngoài ra, qua các danh sách trong khu vực và lớn vẫn còn khiêm tốn
(Box 1).


12




Box 1: Danh sách và vốn chủ sở hữu nội nhập thị trường ở châu Á
Niêm yết chéo có thể được coi như một kênh cho các công ty cá nhân hội nhập với
thị trường cổ phiếu toàn cầu. Nhà đầu tư có cổ phần nước ngoài có thể dễ dàng giao dịch
trong nước. Tổ chức phát hành có thể được hưởng lợi từ một cơ sở cổ đông mở rộng và
phí bảo hiểm rủi ro thấp hơn, tiếp cận thị trường nguồn vốn phát triển hơn và chi phí thấp
hơn vốn, khả năng thanh toán tăng; tiết lộ thông tin tốt hơn và vùng phủ sóng của các nhà
phân tích và quản trị doanh nghiệp tốt hơn.

Các công ty trong một số quốc gia lớn nhất châu Á sở hữu những danh mục chéo
quan trọng. Ví dụ, các công ty từ lục địa Trung Quốc trong vấn đề thị trường SAR Hồng
Kông. Các công ty từ Ấn Độ thường niêm yết trên sàn giao dịch London và châu Âu
khác. Nền kinh tế với các nhà xuất khẩu lớn và các công ty đa quốc gia (Hàn Quốc và
Đài Loan POC) niêm yết chéo một cách tích cực trên thị trường chứng khoán Mỹ và châu
Âu.
13


Hầu hết các niêm yết chéo của các công ty châu Á xảy ra thông qua trao đổi phát
triển tại Hoa Kỳ và Châu Âu.
Thực tế này chỉ đơn giản là có thể phản ánh sự thống trị của thị trường chứng
khoán được thành lập, mà gần đây được tăng cường do sáp nhập và liên minh. Nó có thể
phần nào phản ánh những hạn chế của việc niêm yết chéo ở một số nước châu Á, ví dụ,
công ty nước ngoài (ngoại trừ những người từ Trung Quốc đại lục) phải được kết hợp tại
địa phương để được niêm yết tại Hồng Kông
Phát triển tổ chức đầu tư cơ sở trong nước
Các nhà đầu tư tổ chức trong nước đã nổi lên như một lực lượng tương đối mới
trong thị trường chứng khoán châu Á. Giữa năm 2000 và 2004, trong thị trường nội địa,
quỹ hưu trí và tài sản công ty bảo hiểm tăng gấp đôi lên hơn 36 phần trăm GDP từ sự mới

nổi ở châu Á . Ở một số nước, một phần lớn tài sản công ty này không được đầu tư vào
chứng khoán. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn có tiềm năng lớn để phát triển, vì nó vẫn còn
tương đối nhỏ để phát triển ở các quốc gia. (Tài sản tổ chức đầu tư Mỹ "bao gồm 160
phần trăm của GDP; Viện nghiên cứu McKinsey Global, 2006a và 2006b).
Trong khi các nhà tổ chức đầu tư đóng vai trò lớn trong một số thị trường, thì
trong một số trường hợp rào cản cơ cấu có thể cản trở sự tham gia của họ. Ở Trung Quốc,
Indonesia, Philippines, Ấn Độ và Thái Lan, tài sản tổ chức đầu tư chiếm trung bình dưới
15 phần trăm của GDP (Năm 2004, con số này không bao gồm tài sản đầu tư tại Hồng
Kông bởi các quỹ đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tài liệu cho các khoản đầu tư của quỹ đầu
tư tại Hồng Kông vào năm 2000 là không có sẵn), ít hơn một phần ba so với ở các thị
trường phát triển hơn. Sự phát triển của tổ chức đầu tư dường như đã bị hạn chế bởi một
số yếu tố (Ghosh, 2006) như sau:
1. Hạn chế về loại đầu tư có thể được thực hiện bởi các công ty bảo hiểm và trợ
cấp (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và Philippines yêu cầu tổ chức tài sản
được đầu tư vào chứng khoán của chính phủ hoặc tiền gửi ngân hàng).
2. Cạnh tranh từ các kế hoạch tiết kiệm được chính phủ đảm bảo (ví dụ, kế hoạch
tiết kiệm nhỏ của Ấn Độ).
3. Sự giảm bớt chi tiêu bởi các kế hoạch trợ cấp lợi ích công cộng xác định (Hàn
Quốc, Philippines, và Thái Lan).
4. Những rào cản pháp lý (ví dụ, luật lệ lỗi thời cản trở phát triển quỹ tương tế ở
Philippines); và
14

5. Sự thống trị của nhà đầu tư nhỏ (ví dụ, ở Indonesia, Malaysia, Philippines và
Thái Lan, yêu cầu về vốn thấp đã để lại ngành công nghiệp bảo hiểm bị phân
mảnh).
Theo đó, tại các thị trường các nhà đầu tư bán lẻ lại chiếm phần lớn lượng ngoại tệ
giao dịch (khoảng hai phần ba ở Trung Quốc, khoảng 85 phần trăm ở Ấn Độ, Viện
McKinsey Global, 2006a, b).
Tuy nhiên, các xu hướng dưới cách này chưa thúc đẩy tăng trưởng của tổ chức đầu

tư ở châu Á. Ví dụ, một số nước đã bắt đầu xây dựng hệ thống trợ cấp mới. Trong tháng
12 năm 2005, Hàn Quốc cho phép công ty tư nhân thành lập xác định rõ lợi ích hoặc các
hệ thống đóng góp, trong khi vào Tháng 7 năm 2005 tỉnh Đài Loan của Trung Quốc giới
thiệu một Quỹ trợ cấp lao động mới đã tích lũy được 7 tỷ nhân dân tệ.

Tương lai, Thái
Lan và Ấn Độ cũng có kế hoạch thiết lập hệ thống trợ cấp mới.
Kiểm soát phân bổ tài sản của các tổ chức công cộng cũng đang được dần dần nới
lỏng, trong một nỗ lực để thúc đẩy sự sụt giảm giá cả trở lại. Năm 2005, Trung Quốc đã
cho phép Quỹ An Sinh Xã Hội quốc gia bắt đầu đầu tư vào chứng khoán, trong khi Ấn
Độ cho phép quỹ ủy thác tư nhân dự liệu đầu tư lên đến 5 phần trăm tài sản của họ. Từ
năm 2004, Quỹ Tiết Kiệm quốc gia của Hàn Quốc đã tăng lên và nắm giữ các cổ phiếu
địa phương với mục đích đạt 10,7 phần trăm tài sản năm 2009. Sự phân phối cho thị
trường chứng khoán lớn hơn trong một số quốc gia, 45 phần trăm tại Hồng Kông (Vittas,
2005) và 29 phần trăm ở Philippines.
Loại bỏ kiểm soát về hoạt động quỹ đầu tư cũng đã hỗ trợ phát triển thị trường.
Tại Ấn Độ, cạnh tranh tư nhân đã được đưa ra vào thị trường trong năm 1987, nhập cảnh
nước ngoài lần đầu tiên được phép vào năm 1993. Ở Nhật Bản, Bưu điện Nhật Bản và
ngân hàng tư nhân gần đây đã được phép bán ủy thác đầu tư cho công chúng, và Hàn
Quốc đã công bố tầm nhìn dài hạn là trở thành một trung tâm tài chính khu vực có
chuyên môn đặc biệt trong quản lý tài sản.
Cải tiến trong cơ sở hạ tầng thị trường và quản trị
15

Nỗ lực trong thập kỷ qua đã
dẫn đến việc trong khu vực có một số
thị trường kỹ thuật hiệu quả nhất trên
thế giới (Bảng 7) và cũng đã được cải
thiện quản trị doanh nghiệp.
Về mặt kỹ thuật, hầu hết các

nước trong khu vực đã phát triển hệ
thống thanh toán bù trừ điện tử. Bước
này cũng đã được tiến hành để tăng
cường tính minh bạch của công ty và
thông qua kế toán toàn cầu và công bố
các tiêu chuẩn –việc này là quan trọng
bởi vì con số quản trị doanh nghiệp
nổi bật trong quyết định đầu tư. Quan
trọng hơn, các quy tắc và các quy
định về quản trị doanh nghiệp trên
khu vực là tương đối mạnh. Điều đó
nói rằng, khi có sự thay đổi nhỏ trên khắp các nền kinh tế châu Á (ví dụ) quyền hợp pháp
của cổ đông, có sự khác biệt trong các yêu cầu về công bố thông tin và tính minh bạch và
trách nhiệm của hội đồng quản trị (Cheung và Jang, 2005). Ví dụ, tỉnh Đài Loan của
Trung Quốc không yêu cầu công bố cổ đông nắm giữ 5 phần trăm cổ phần của một công
ty, nhưng Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan yêu cầu công bố
thông tin của 10 cổ đông hàng đầu và ngoài ra bất kỳ cổ phần nào nhiều hơn 5 phần
trăm.
Hồng Kông, Indonesia, Malaysia, và Singapore không yêu cầu công bố thông tin
quản lý cổ phần. Ở Châu Á, chỉ có Trung Quốc, Malaysia, và Philippines yêu cầu tiếp tục
đào tạo giám đốc hội đồng quản trị.
Khảo sát về nhận thức của nhà đầu tư cho rằng vẫn còn sự khác biệt đáng kể trong
việc thực hiện luật quản trị doanh nghiệp (Cheung and Jang 2005).Việc thực hiện này
được xem là yếu nhất ở Trung Quốc và Philippines và mạnh nhất ở Singapore và Hồng
Kông. Ngoài ra, trong khi tiêu chuẩn kế toán ở hầu hết các nước đã được cải thiện, có
một số bằng chứng cho thấy có những cải tiến về tính minh bạch đã bị kìm lại ( IMF,
2006 WEO, Box 2.2; and De Nicolo, Laeven, and Ueda, 2006).
16





17

CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỚI
NỔI CHÂU Á
2.1 Sự Biến Động Về Giá
Trong 5 năm qua, thị
trường châu Á mới nổi đã
vượt trội so với các thị trường
trưởng thành nhưng bị tụt hậu
so với thị trường mới nổi
khác. Nhìn chung, giá cổ
phiếu vẫn thấp hơn so với thời
điểm đỉnh điểm trước khủng
hoảng châu Á, trong khi chỉ
số cổ phiếu ở châu Mỹ Latinh,
châu Âu đang nổi lên, và
Trung Đông vượt quá mức
cao nhất năm 1990 của họ (có thể tăng lên nhờ giá hàng hóa tăng cao hoặc kỳ vọng sẽ gia
nhập EU trong tương lai).
Giá chứng khoán châu Á đã phản ánh một sự chuẩn bị cho một tiền đề nền tảng
của nền tảng kinh tế tốt trong khu vực. Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong một số quốc
gia, trong bối cảnh của một toàn cầu mở rộng mạnh mẽ, mặc dù có sự tăng đột biến định
kỳ trong giá dầu. Hơn nữa, lợi nhuận của công ty đã được vững chắc.
Giá chứng khoán châu Á tăng trong khi đó lãi suất Mỹ đang thấp. Lãi suất của Mỹ
ảnh hưởng đến chứng khoán châu Á thông qua sự lựa chọn danh mục đầu tư của các nhà
đầu tư toàn cầu; cung cấp 1 công cụ đo lường tỷ lệ hồi vốn an toàn cho nhà đầu tư toàn
cầu và được sử dụng để chiết khấu dòng tiền trong tương lai của thị trường chứng khoán.
Ngoài ra, lãi suất của Mỹ cao hơn đôi khi trùng với động thái của các nhà đầu tư toàn cầu

đối với tư thế phòng thủ nhiều hơn, chuyển đổi những tài sản rủi ro cao như các chứng
khoán châu Á mới nổi thành những chứng khóan rủi ro thấp hơn. Như một kênh thứ ba,
những thay đổi trong chính sách tiền tệ của Mỹ có thể báo hiệu một bước ngoặt trong nền
kinh tế Mỹ, với những tác động tiềm năng tăng trưởng trong đối tác thương mại. Thật
vậy, bước ngoặt trong giá cổ phiếu châu Á dường như để tương ứng với những thay đổi
trong lãi suất ngắn hạn của Mỹ, mặc dù khá lỏng lẻo.
Trong bối cảnh sự bùng nổ thị trường chứng khoán, biến động thị trường cổ phiếu
châu Á mới nổi vẫn là một vài điểm phần trăm so với mức đạt được trong nửa đầu của
năm 1990 (mặc dù nó là dưới mức cuối những năm 1990). Xem xét dữ liệu một số quốc
18

gia cụ thể, tuy nhiên, mức tăng có vẻ là chủ yếu giới hạn ở Indonesia và Đài Loan tỉnh
của Trung Quốc, và thấp hơn Hàn Quốc, thực sự, biến động dưới mức trước khủng hoảng
trong một số thị trường khác.

Biến động ở một số nước cao hơn so với đầu những năm 1990 có thể phản ánh
việc mở cửa các thị trường châu Á cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng bằng chứng này thì
còn ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Về nguyên tắc, sự gia tăng đầu tư trong sự mở cửa có
nghĩa là thị trường châu Á được tiếp xúc nhiều hơn với sự bất ổn toàn cầu và những thay
đổi trong tâm lý nhà đầu tư, và do đó có thể dễ biến động theo diễn biến tòan cầu hơn.
Tuy nhiên, khi mở rộng sang thị trường, nơi mà có nhiều biến động hơn, có thể thị trường
hiện tại cũng biến động theo. Nhưng nghiên cứu thực nghiệm đã không tìm thấy bằng
chứng rõ ràng rằng tự do hóa làm tăng biến động. Bekaert và Harvey (2000) tìm thấy một
sự gia tăng nhỏ nhưng thường không đáng kể trong biến động thị trường chứng khoán sau
khi tự do hóa thị trường cổ phiếu. Sử dụng dữ liệu trước năm 1996, Holmes và Wong
(2001) phát hiện ra rằng tự do hóa giảm biến động, hoặc không tăng lên, tại Singapore,
Hàn Quốc và Đài Loan-Trung Quốc. Hargis (2002), De Santis và Imrohoroglu (1997), và
Claessens (1995) báo cáo tương tự cho các thị trường mới nổi ở châu Mỹ Latinh và châu
Á.
Nhìn chung, không có xu hướng biến động một cách hệ thống liên quan đến việc

mở cửa thị trường là đúng. Điều đó nói rằng, những thay đổi trong biến động trong thị
trường châu Á, cũng như sự tương phản với sự phát triển của các thị trường mới nổi khác,
vẫn đang nghiên cứu.
2.2 Những Hoạt Động Kinh Tế
Nguồn dữ liệu có sẵn cho thấy rằng số lượng hộ gia định nắm giữ trực tiếp cổ
phiếu vẫn còn nhỏ so với tiêu chuẩn quốc tế, nhưng đang trên đà gia tăng với nỗ lực thúc
đẩy tiết kiệm tổ chức tư nhân. Tổng giá trị thuần của các hộ gia đình nằm trong khoảng
10% GDP ở những nước thu nhập thấp đến trên 300% GDP tại những nước có thu nhập
19

cao. Như là một nguyên tắc, chỉ một phần nhỏ trong tài sản trực tiếp nắm giữ cổ phiếu,
bởi vì các hộ gia đình nhìn chung ưa thích nắm giữ các công cụ tài chính an toàn như gởi
tiết kiệm ngân hàng và trái phiếu chính phủ. Tại Ấn Độ, gần như ¾ tài chính hộ gia đình
được nắm giữ dưới dạng tiền mặt, tiền gởi tiết kiệm và trái phiếu chính phủ (nguồn dữ
liệu có sẵn bỏ sót việc nắm giữ các tài sản phi tài chính như vàng); tại Nhật khoảng 60%
và tại Hàn Quốc khoảng 1/3. Ngược lại, tỉ lệ nắm giữ cổ phiếu trực tiếp của các hộ gia
đình chiếm ít hơn 10% tài chính của họ. Cách giữ gián tiếp thông qua các tổ chức đầu tư
được chú ý, từ đó gia tăng tỉ lệ năm giữ cổ phiếu của các hộ gia đình tăng 1/5 lên mức
chiếm hơn ½ tổng tài chính hộ gia đình, là một chỉ tiêu lớn liên quan đến GDP tại một số
quốc gia.
Với một mức độ vừa phải, gia tăng nắm giữ cổ phiếu làm cho tài chính hộ gia đình
nhạy cảm hơn với cái biến động của thị trường. Nắm giữ cổ phiếu trực tiếp có tính không
ổn định hơn hai lần so với nắm giữ các khoản tiền gởi, phản ảnh thay đổi trong giá trị thị
trường. Điều này có nghĩa là nắm giữ gián tiếp thông qua các tổ chức đầu tư ổn định hơn
so với nắm giữa cổ phiếu trực tiếp, có thể phản ảnh hạn chế đầu tư đối với các tổ chức
đầu tư như là quỹ hưu trí.
Tác động trực tiếp của các tổ chức tài chính liên quan đến thị trường cổ phiếu khá
giới hạn tại Châu Á. Ngoại trừ tỉnh Đài Loan - Trung Quốc, nơi các tổ chức tài chính
trong nước là nơi phát hành các cổ phiếu, nắm giữ cổ phiếu trực tiếp bởi các tổ chức tài
chính chiếm tỉ lệ rất nhỏ, nhìn chung là dưới 1% GDP và dưới 1% tổng tài sản thuần. Vì

vậy các tổ chức tài chính quá dễ dàng bị tổn thương bởi mất mát trực tiếp từ giảm giá trị
trái phiếu mà họ đang nắm giữ.

20

Về danh mục đầu tư, các tổ chức tài chính đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu, ngoại trừ
thị trường Singapore các tổ chức tài chính có danh mục đầu tư đa dạng hơn đó là: cổ
phiếu, bảo hiểm và các danh mục đầu tư bên ngoài khác. Đối với hộ gia đình tỉ trọng nắm
giữ chứng khoán so với tổng tài sản thấp hơn 50% ngoại trừ thị trường Hàn Quốc là
chiếm 55%. Các hộ gia đình đầu tư hơn 50% tổng đầu tư vào chứng khoán vào bảo hiểm
và quỹ hưu trí, ngoại trừ thị trường Hàn Quốc đầu tư 66% vào cổ phiếu)
Tóm lại, bản thân việc điều chỉnh thị trường cổ phiếu không tạo ra ảnh hưởng vi
mô đến nền kinh tế Châu Á. Ngoài ra định giá tại một vài thị trường không quá cao. Hơn
nữa, nguồn dữ liệu có sẵn chỉ ra rằng rủi ro đầu tư trực tiếp của các hộ gia đình và các tổ
chức tài chính nhìn chung là khiêm tốn. Trong khi thị trường cổ phiếu đang trên đà tăng
trưởng, hệ thống tài chính Châu Á vẫn phần lớn đầu tư vào ngân hàng. Điều đó có nghĩa,
điều chỉnh thị trường cổ phiếu tạo ra ảnh hưởng lớn nếu nó xuất phát từ kinh tế vĩ mô
rộng lớn hay từ sự ép tài chính – như, sự phát triển chậm của toàn cầu, hay tài chính suy
yếu rộng khắp – và ngược lại nó sẽ làm tăng ảnh hưởng của những sức ép này lên các
nước Châu Á. Dữ liệu về rủi rỏ thường rời rạc nên kết luận rút ra chỉ mang tính tạm thời.
21

Ngoài ra, rủi ro gián tiếp thông qua các tổ chức đầu tư là không thể bỏ qua và rủi ro này
tăng lên ở một vài quốc gia, qua thời gian có thể làm tăng rủi ro của các hộ gia đình liên
quan đến giá trị vòng đời của tài sản.

2.3 Mối Tương Quan Với Thị Trường Vùng và Thế Giới
Thị trường chứng khoán châu Á đã trở nên đồng bộ với thị trường toàn cầu kể từ
khi mối quan hệ của Châu Á với các thị trường phát triển trở nên chặt chẽ với thị trường
mới nổi. Mối tương quan cũng tăng lên đáng kể cho các nước châu Á riêng lẻ, trong một

số trường hợp khá đáng kể:



22


"Beta" của thị trường
châu Á so với thị trường thế
giới cũng tăng lên theo thời
gian. Trong đó, mô hình định
giá tài sản vốn ( CAPM) là tiêu
chuẩn duy nhất, "beta", độ dốc
của đường hồi quy, là mức độ
phản ứng của thị trường nội địa
với sự tác động của thị trường
tòan cầu. Đặc biệt, nó thể hiện
rủi ro và do đó nó thể hiện sự
tác động trở lại –trong mối liên
hệ với tổng thể thị trường (thế
giới). Đáng chú ý, chỉ số beta của S & P / IFC tòan cầu đã tăng cao hơn so với chỉ số đầu
tư. Điều này phù hợp với ý tưởng rằng sự gia tăng hội nhập có thể tăng sự tác động trở
lại. Đặc biệt, cổ phiếu quốc tế có thể giao dịch trong chỉ số tăng toàn cầu, cổ phiếu làm
cho danh mục đầu tư toàn cầu sẽ tăng lên, và do đó rủi ro trong sự phát triển thị trường
toàn cầu sẽ tăng.
Xu hướng ngày càng tăng về mối tương quan và hệ số beta trong thị trường toàn
cầu trong tự do hóa, nhưng, như các phát hiện về biến động thì có xu hướng phức tạp. Ví
dụ, Bekaert, Hodrick, và Zhang (2005) không tìm thấy bằng chứng cho xu hướng tăng
trong mối tương quan về tác động trở lại, nhưng cũng lưu ý rằng nhiều nghiên cứu tìm
thấy kết quả khác nhau, một phần vì mối tương quan không ổn định theo thời gian (như

trong Longin và Olnik năm 1995 ). Ngoài ra, Bekaert và Harvey (1995) cho thấy rằng
ngay cả khi sự hội nhập ngày càng tăng cũng làm tăng mối tương quan lợi nhuận giữa các
quốc gia, sự thay đổi thời gian về mức độ hội nhập thị trường có thể làm phức tạp mối
quan hệ của giá tài sản, tự do hóa và hội nhập, làm cho khó xác định về sự tương quan
giữa khu vực và tòan cầu có liên quan do tự do hóa hay không.
23

Liệu thị trường châu Á có phải quá “nóng”?
Việc kiểm tra các phương pháp định giá và thực hiện các điều chỉnh rủi ro có thể
làm sáng tỏ về việc liệu thị trường châu Á có phảitrở nên quá nóng. Các phương pháp
như hệ số giữa giá và thu nhập (P/E) (ở đây, dựa trên thu nhập trước đây) và cổ tức có
cho biết mỗi liên quan với dòng lưu chuyển tiền hay không. Phương pháp điều chỉnh rủi
ro có đo đựơc hoạt động thị trường gần đây là có bình thường hay không (ví dụ như, nó
có cao so với các thị trường liên quan).

Hầu hết thị trường châu Á cho giá trị vừa phải. Ngay cả trong trường hợp PEs
vượt quá mức trung bình đầu thập kỷ này, PEs nói chung là thấp hơn so với thời điểm
đỉnh cao trước khủng hỏang. Tỷ lệ cổ tức (cổ tức /giá 1cổ phiếu, được định giá cao hơn
so với trung bình) thì điều đó là bình thường, vì xảy ra ở nhiều nước lớn. Điều đó nói
rằng, một số thị trường (Ấn Độ, Sri Lanka) có định giá có hơi cao hơn trung bình trong
thời gian gần đây.
Tốc độ tăng trưởng cổ tức thực dự kiến cho thấy rằng việc xác định giá hiện tại
thường phù hợp với dự báo tăng trưởng GDP trung hạn. Một cái nhìn sâu hơn về sự định
giá nhằm so sánh sự gia tăng lợi nhuận được chia thực tế ước tính được trích ra từ những
cổ tức được chia với sự tăng trưởng GDP như một điểm chuẩn đơn thuần. Nhận thấy
24

rằng, cổ tức nên phát triển về cơ bản phù hợp với GDP, Nếu thu nhập của doanh nghiệp
trong 1 thời gian dài được ổn định như một phần của GDP và cổ tức ổn định như một
phần thu nhập. Sử dụng mô hình Gordon có nghĩa là tăng trưởng với cổ tức thực tế và so

sánh nó với dự báo GDP thực từ WEO (Table 13) theo các giả định khác nhau, chỉ một
vài trường hợp (giả định phí bảo hiểm rủi ro cao) xác định giá cổ phiếu thị trường với cổ
tức tăng trưởng đuợc loại ra khỏi mô hình WEO trung hạn. Ngay cả trong những trường
hợp này, nó không dự báo tăng trưởng WEO quá chính xác.
Tỷ suất chiết khấu được hiệu chỉnh rủi ro trong đầu tư cổ phần EM cũng không
cho rằng thị trường đang quá nóng. Dựa trên tỷ lệ Sharpe, là một thước đo xem lợi nhuận
thu được bao nhiêu trên một đơn vị rủi ro khi đầu tư vào một tài sản hay đầu tư theo một
chiến lược kinh doanh (biến động, được đo bằng độ lệch chuẩn), tỷ suất chiết khấu được
hiệu chỉnh rủi ro châu Á đã được về cơ bản phù hợp với những thị trường mới nổi trong
khu vực khác, cũng như lợi tức cao của trái phiếu Hoa Kỳ. Điều này phù hợp với phân
tích lợi nhuận siêu ngạch (trên một tỷ lệ phi rủi ro chuẩn), đã được áp dụng rộng rãi ở thị
trường mới nổi ngoài châu Á. Là một dự báo trước quan trọng, điều này không cung cấp
bằng chứng, thị trường châu Á không quá nóng, nó có thể không đưa ra rằng nhiều thị
trường nằm ngoài nguyên tắc cơ bản. Nhưng với các biện pháp định giá nói trên, nó cung
cấp một số bằng chứng cho thấy hiện thực gần đây đã không ra khỏi phù hợp với nguyên
tắc cơ bản.

Tóm lại, thị trường chứng khoán thường không có dấu hiệu tăng trưởng quá nóng.
Điều đó nói lên rằng, một số thăm dò của mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động
kinh tế có thể cung cấp một số quan điểm hướng tới tương lai trên sự phát triển của thị
25

trường chứng khoán, và giúp cho người tham gia vào thị trường này có thể hiểu rõ đựơc
các chính sách thị trường nà. Phần tiếp theo tìm hiểu vấn đề này.
2.4 Những Chính Sách Cần Thiết
Sự tăng trưởng và phát triển của thị trường cổ phiếu hoạt động hiệu quả tạo nên lợi
ích lâu dài cho nền kinh tế Châu Á. Nó tạo ra công cụ tiết kiệm hữu ích cho những nhà
đầu tư nhỏ lẻ và các tổ chức đầu tư, giúp đa dạng hóa những khoản tài chính đang nắm
giữ của họ. Hơn thế nữa, tăng sự đa dạng hóa của quỹ tài chính có thể làm cho hệ thống
tài chính Châu Á vững chắc hơn trước những có shock. Davis (2001) phát hiện ra rằng

khi thị trường chứng khoán năng động bổ sung cho hệ thống ngân hàng, tài chính sẽ vững
hơn khi nên kinh tế đi xuống cũng như khi thị trường ngân hàng và thị trường chứng
khoán khủng hoảng. Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng thị trường chứng khoán phát
triển tốt có thể hỗ trợ cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.
Mục đích của việc nắm lấy lợi ích nhiều nhất từ sự phát triển của thị trường cổ
phiếu trong quá trình quản lý rủi ro là chính sách đề xuất cho kinh tế vi mô và vĩ mô. Về
mặt vi mô, thị trường cổ phiếu phát triển tạo ra lợi ích cho thị trường hiệu quả trong giao
dịch, thanh toán, thanh toán bù trừ, tạo sự minh bạch và cho quản trị doanh nghiệp. Cho
dù hệ thống hạ tầng kỹ thuật có phát triển tốt đi chăng nữa, qua thời gian lượng giao dịch
nắm giữa nhiều lên sẽ làm gia tăng thách thức trong tương lai. (Ghosh, 2006).
Tính thanh khoản thấp tại một số thị trường phản ánh vấn đề về sự không minh
bạch và quản lý doanh nghiệp. Các vấn đề này tạo ra thông tin bất cân xứng và rủi ro lựa
chọn đối nghịch (khi giao dịch chống lại những nhà đầu tư tốt), và làm gia tăng khoảng
chênh lệch giá mua bán, giới hạn giao dịch. Trong khi tính minh bạch pháp lý và quản lý
doanh nghiệp được cải tiến qua thời gian, nhận thức của nhà đầu tư có thấy còn những lỗ
hỏng trong việc áp dụng khuổn khổ hiện tại.
Khi thị trường cổ phiếu phát triển sẽ nảy sinh nhu cầu về nguyên tắc thận trọng và
giám sát để đảm bảo cho tính ổn định của tài chính vi mô, vĩ mô. Các quy tắc hợp lý và tổ
chức giám sát năng động là chức năng cần thiết của thị trường cổ phiếu. Khả năng nhận
thức và quản lý tốt rủi ro về cổ phiếu giữa các tổ chức tài chính cũng có cùng mức độ
quan trọng, từ đó sự không ổn định của thị trường cổ phiếu không tạo ra những lan tỏa tài
chính rộng lớn (tham khảo Báo cáo về tình hình không ổn định tài chính của nước Hàn
Quốc, tháng 10 2005). Ví dụ như, trong hệ thống tài chính có các ngân hàng hoạt động
sôi nổi tại thị trường cổ phiếu, rất cần thiết phải giới hạn rủi ro mà một hiệu chỉnh thị
trường cổ phiếu có thể khiến hệ thống ngân hàng trở nên yếu ớt, là nguyên nhân các ngân
hàng phải kiềm chế cho vay và làm gia tăng khả năng dẫn đến khủng hoảng tín dụng.

×