Dùng vi sinh vật khắc phục sự cố tràn dầu tại
VN
Lấy mẫu vi sinh vật ven biển từ Bình Thuận đến
Bến Tre là khu vực thường xuyên nhiễm dầu, Trung
tâm Nghiên cứu phát triển an toàn môi trường dầu
khí thử nghiệm thành công giải pháp phục hồi môi
trường bằng vi sinh vật.
"Phương pháp phục hồi sinh học bằng vi sinh vật
có thể phá hủy hoàn toàn chất gây ô nhiễm, biến
đổi chúng thành cacbonđioxit, nước và sinh khối tế
bào mới, hoặc ít nhất biến đổi thành những sản
phẩm không có hại, có ích cho hệ sinh thái", lãnh
đạo Trung tâm Nghiên cứu phát triển an toàn môi
trường dầu khí (CPSE) thuộc Viện dầu khí Việt
Nam (VPI) cho biết.
Về cơ bản, xử lý dầu tràn bằng tự phân hủy sinh
học sẽ phải dựa vào tính chất riêng của nơi bị ô
nhiễm như: thành phần vi khuẩn, loại chất gây ô
nhiễm, địa lý và những điều kiện hóa học nơi bị ô
nhiễm.
Kết quả thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho
thấy, khả năng hoàn toàn có thể ứng dụng giải
pháp phục hồi sinh học bằng vi sinh vật để xử lý ô
nhiễm dầu tràn tại khu vực ven biển từ Bình Thuận
đến Bến Tre. Đây là khu vực thường xuyên bị ảnh
hưởng bởi các sự cố tràn dầu.
Với kết quả khả quan bước đầu, CPSE cho biết
thời gian tới sẽ tiếp tục nghiên cứu để tạo ra chế
phẩm sinh học có nguồn gốc là các chủng vi sinh
vật bản địa, nhằm ứng dụng xử lý ô nhiễm dầu tràn
khu vực ven biển Đông Nam Bộ, nơi có nguy cơ ô
nhiễm do dầu tràn từ các họat động thăm dò khai
thác và vận chuyển dầu khí.
Năm 2002, Việt Nam đã thử dùng phương pháp
dùng vi sinh vật xử lý ô nhiễm dầu tràn tại bờ biển
Vũng Tàu. Biện pháp này không thành công do sử
dụng chế phẩm sinh học nhập từ nước ngoài.
Nguồn gốc giống vi sinh vật là ngoại lai nên khi rải
dọc bờ biển ô nhiễm dầu, các chủng vi sinh vật
không phát huy khả năng phân hủy. Sau một thời
gian ngắn, bãi biển có màu đen và hôi thối, gây ô
nhiễm thứ cấp, ngoài ra còn xuất hiện nhiều loài vi
sinh vật gây bệnh nguy hiểm cho sức khỏe con
người.
Với việc tràn dầu trên vịnh Mexico, ngoài khoản bồi
thường 14 tỷ USD, Tập đoàn dầu khí BP phải chi
15-23 tỷ USD làm sạch môi trường. "Bài học" từ BP
cho thấy Việt Nam cần hành động ngay để đối phó
khi thảm họa xảy ra.
Theo Viện Dầu khí Việt Nam, thống kê cho thấy từ
năm 1970 đến năm 2009 trên thế giới xảy ra gần
10.000 sự cố tràn dầu, ước tính đã có 5,65 triệu tấn
dầu đã thất thoát ra môi trường. Tuy nhiên, chỉ đến
khi giàn khoan dầu Deepwater Horizon sập ngoài
khơi nước Mỹ gây ra thảm họa tràn dầu trên vịnh
Mexico mới khiến cả thế giới "giật mình".
Chỉ trong vòng 3 tháng từ khi xảy ra sự cố (tháng 4)
có khoảng 695 triệu lít dầu đã phun ra từ giếng bên
dưới giàn khoan. Dự tính chi phí cho việc làm sạch
môi trường ở Vịnh Mexico có thể lên tới 15-23 tỷ
USD.
Trước sự cố tràn dầu nghiêm trọng xảy ra trên thế
giới, theo các chuyên gia trong ngành dầu khí, Việt
Nam cần gấp rút triển khai chuẩn bị cho công tác
xử lý một khi xảy ra sự cố. Ngoài thu gom và xử lý
thì làm sạch môi trường là vấn đề được quan tâm
hàng đầu, trong đó sử dụng vi sinh vật đang được
nhiều nhà khoa học quan tâm, bởi đây là một biện
pháp an toàn với môi trường.
Các biện pháp ứng phó sự cố tràn dầu mà Việt
Nam đang triển khai
Năm 2005, Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo các bộ,
ngành gấp rút hoàn thiện phương án xây dựng 3
trung tâm ứng phó sự cố tràn dầu. Ba trung tâm này
từ khi được thành lập đã có nhiều hoạt động chuẩn
bị, thường xuyên tổ chức các khóa huấn luyện ứng
phó sự cố tràn dầu với những tình huống giả định
gần giống với thực tế.
Ngày 15/6 năm nay, Trung tâm ứng phó sự cố tràn
dầu miền Nam (thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia
Việt Nam) đã cho hạ thuỷ tàu NASOS1. Tàu dài
44m, rộng 11m, cao mạn 4,6m với trọng tải gần 590
tấn và vận tốc 12 hải lí một giờ đáp ứng yêu cầu
ứng cứu, thu gom, vận chuyển dầu tràn trên biển,
vận chuyển nhân lực, vật tư, thực hiện công tác cứu
hộ, cứu nạn trên biển.