Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

đánh giá hiệu quả của các hoạt động khuyến nông ở huyện quảng ninh, tỉnh quảng bình trong giai đoạn từ 2009 đến 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.43 KB, 59 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, hoạt động sản xuất chủ yếu của người dân nước ta là nông
nghiệp. Ngành nông nghiệp nước ta đã và đang giữ vị trí hết sức quan trọng
trong nền kinh tế chung của cả nước, là tiền đề để phát triển các ngành kinh tế
khác. Sản phẩm của ngành nông nghiệp dùng để cung cấp cho nhu cầu thiết yếu
của cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống ngày càng nâng cao đòi hỏi ngành nông
nghiệp ngày một phát triển để đáp ứng yêu cầu đó.
Qua nhiều năm canh tác, người nông dân đã đúc rút nhiều kinh nghiệm quí
báu của mình để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhưng phần lớn nó chỉ đáp
ứng được nhu cầu tự cung tự cấp trong gia đình. Ngày nay, khi nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường, sản xuất tự cung tự cấp không còn đảm bảo được
điều kiện sống cho người dân Người nông dân phải đứng trước nhiều thử thách
và lựa chọn cho hướng phát triển của gia đình mình. Họ luôn đứng trước thực
trạng thiếu hụt thông tin thị trường, giá cả để định hướng cho sản xuất. Mặt
khác, trình độ sản xuất của phần lớn người dân còn yếu, tiến bộ khoa học kỹ
thuật chưa được áp dụng nhiều ở mỗi hộ. Muốn sản xuất nông nghiệp hiệu quả,
người nông dân phải nắm bắt nhiều yếu tố liên quan đến vấn đề này. Những yếu
tố quan trọng đó gồm tiến bộ khoa học kĩ thuật, thông tin thị trường, nhu cầu của
người sử dụng sản phẩm.
Nhu cầu của người sản xuất để phát triển ngành nông nghiệp là rất lớn. Do
đó vấn đề nâng cao kiến thức về kỹ thuật nông nghiệp, kinh nghiệm quản lý,
thông tin thị trường, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật,… cho người dân để họ có đủ
khả năng phát triển sản xuất kinh doanh là một yêu cầu cần thiết trong vấn đề
phát triển nông nghiệp nông thôn hiện nay.
Trước đòi hỏi đó, ngày 02/03/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13/CP về
công tác khuyến nông, thông tư liên bộ số 02/LB/TT ngày 02/08/1993 hướng
dẫn thi hành nghị định 13/CP. Từ khi ra đời Nghị định này đã đem lại nhiều
thành công cho sự phát triển nông nghiệp nước ta. Trải qua nhiều năm, hoạt động
khuyến nông ngày một nâng cao vai trò, chất lượng trong sản xuất nông nghiệp.


Nó đã đem đến nhiều kết quả tạo bước ngoặc mới trong phát triển sản xuất nông
nghiệp. Công tác khuyến nông đã có những đóng góp quan trọng vào việc
khuyến khích nông dân áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, phát triển sản xuất
theo hướng mở rộng sản xuất. Ngoài việc cật lực lao động nông nghiệp họ còn
biết nắm bắt nhu cầu thị trường để sản xuất nhiều loại cây trồng vật nuôi đáp ứng
được đòi hỏi người tiêu dùng. Từ đó sản xuất nông nghiệp đã tạo ra nhiều hàng
hoá nông sản có chất lượng, tăng thu nhập và mức sống cho người dân.
1
Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn phải thừa nhận một thực tế là ở
nhiều nơi hiệu quả mà hoạt động khuyến nông đem lại còn chưa cao, chưa thỏa
mản được nhu cầu của những hộ dân chuyên sản xuất nông nghiệp. Vì thế, ngoài
sự cố gắng của người dân thì cần có sự quan tâm của nhà nước, nhiều cơ quan
khác và cần có sự quan tâm của cán bộ khuyến nông để sản xuất nông nghiệp đạt
hiệu quả hơn nhằm tăng thu nhập cho người dân, góp phần to lớn cho sự xóa đói
giảm nghèo. Cho thấy rằng hoạt động sản xuất nông nghiệp muốn đạt hiệu quả
cao không thể thiếu vai trò của công tác khuyến nông trong phát triển sản xuất,
nhằm hướng tới cuộc sống ngày càng có thu nhập cao hơn cho người dân.
Huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình là địa phương có phần lớn diện tích
đất là sản xuất nông nghiệp. Hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện
diễn ra thường xuyên và liên tục quanh năm. Nguồn thu nhập từ chăn nuôi, trồng
trọt, nuôi trồng thủy sản là điều kiện đảm bảo mức sống cho gia đình. Mỗi hộ
gia đình luôn tự tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm và kiến thức phù hợp với sản xuất
trong gia đình. Người dân sinh sống trên địa bàn huyện luôn mong muốn nhận
được sự hổ trợ, giúp đỡ để yên tâm sản xuất. Họ cần có sự quan tâm của nhà
nước để phát triển sản xuất, làm giàu cho gia đình và xã hội. Một trong những hỗ
trợ từ nhà nước là thông qua vai trò của cán bộ khuyến nông địa phương. Vì vậy,
công tác khuyến nông có mối quan hệ mật thiết với người nông dân, góp phần
tăng năng suất cây trồng, vật nuôi cho họ, giúp họ có thu nhập ngày càng cao, cải
thiện cuộc sống. Trong những năm qua công tác khuyến nông của huyện và xã
thực hiện cũng có nhiều thay đổi trong sản xuất nông nghiệp đáp ứng được một

phần nhu cầu của người dân. Bên cạnh sự đóng góp của mình vào phát triển sản
xuất thì hoạt động khuyến nông cũng chưa phát huy hết thế mạnh của địa
phương và chưa hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Xuất phát từ thực tế đó, để hiểu một cách đúng đắn về công tác khuyến nông
địa phương tôi đã tiến hành đề tài “Đánh giá hiệu quả của các hoạt động
khuyến nông ở huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn từ 2009
đến 2011.”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Để hiểu thực trạng điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện.
- Để hiểu thực trạng các hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện Quảng
Ninh, Quảng Bình trong giai đoạn 3 năm 2009 -2011.
- Tìm hiểu và đánh giá vai trò công tác khuyến nông trong phát triển kinh tế
địa phương. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác khuyến nông của huyện
Quảng Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động khuyến nông
của huyện trong thời gian tới, góp phần nâng cao năng suất cây rồng, vật nuôi,
cải thiện đời sống cho người dân.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lí luận về công tác khuyến nông
2.1.1. Khái niệm khuyến nông
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Khuyến nông, tùy thuộc vào từng điều
kiện cụ thể mà Khuyến nông có những cách hiểu khác nhau và người ta đã đưa
ra các khái niệm khác nhau.
Theo CIDSE (tổ chức hợp tác quốc tế vì phát triển và đoàn kết): Khuyến
nông là một từ tổng quát để chỉ tất cả các công việc có liên quan đến sự phát
triển nông thôn. Đó là một hệ thống giáo dục ngoài nhà trường, trong đó người
già và trẻ em đều được học bằng thực hành.[1]
Định nghĩa về Khuyến nông của Indonesia: Khuyến nông nông nghiệp là hệ

thống giáo dục không theo một quy định thống nhất nào mà cũng không theo
một hệ thống chung nào để huấn luyện nông dân nhằm mục đích giúp họ có
những kĩ năng và trình độ kĩ thuật tốt hơn, phát triển hơn quan điểm xác thực về
sự đổi mới để dành được thế chủ động trong sản xuất kinh doanh và cuộc sống
của họ.[1]
Theo FAO (tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới): Khuyến nông là
một quá trình dịch vụ thông tin truyền bá kiến thức và đào tạo tay nghề cho nông
dân, làm cho nông dân có đủ khả năng tự giải quyết lấy các vấn đề của gia đình,
của làng xã họ. Nói cách khác, khuyến nông là một biện pháp giúp đỡ nông dân
phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, xây dựng phát triển nông thôn và cải
thiện điều kiện vật chất tinh thần cho nông dân.[1]
Theo định nghĩa của Trung tâm khuyến nông khuyến lâm quốc gia thì:
Khuyến nông là một quá trình, một dịch vụ thông tin nhằm truyền bá những chủ
trương, chính sách về nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiệm tổ
chức và quản lý sản xuất, những thông tin về thị trường giá cả, rèn luyện tay
nghề cho nông dân, để họ có đủ khả năng tự giải quyết vấn đề của sản xuất, đời
sống, của bản thân họ và cộng đồng, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao dân trí,
cải thiện đời sống và phát triển nông nghiệp nông thôn.[2]
Như vậy khuyến nông là cách giáo dục không chính thức ngoài học đường
cho nông dân, là cách đào tạo người lớn tuổi. Khuyến nông là quá trình vận động
quảng bá, khuyến cáo cho nông dân theo các nguyên tắc riêng giúp họ phát triển
sản xuất. Đây là một quá trình tiếp thu dần dần và tự giác của nông dân. Nói
cách khác, khuyến nông là những tác động vào quá trình sản xuất kinh doanh của
người nông dân, giúp họ sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Nội dung của hoạt động
khuyến nông phải khoa học, kịp thời và thích ứng với điều kiện sản xuất của
người nông dân.[2]
3
2.1.2. Mục đích của khuyến nông
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của người sản xuất nhằm tăng thu
nhập, thoát đói nghèo làm giàu thông qua các hoạt động đào tạo cho nông dân về

kiến thức, kỹ năng và các hoạt động cung ứng về dịch vụ để hỗ trợ nông dân sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, thích ứng các điều kiện sinh thái, khí hậu và
thị trường.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển sản
xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đáp
ứng trong nước và xuất khẩu, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn, xây dựng nông thôn mới bảo đảm an ninh lương thực
quốc gia, ổn định kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường.
Huy động nguồn lực từ các tổ chức trong và ngoài nước tham gia khuyến
nông.
2.1.3. Chức năng và yêu cầu của khuyến nông
Chức năng của khuyến nông
Hoạt động khuyến nông nói chung có các chức năng sau:
(1) Đào tạo, hướng dẫn, tuyên truyền và tư vấn về KTTB cho nông dân.
(2) Cung cấp dịch vụ như: cây con giống, chữa bệnh vật nuôi, bảo vệ thực
vật, tiêu thụ nông sản cho nông dân.
(3) Kiểm tra, đánh giá các hoạt động khuyến nông, các chương trình PTNT.
(4) Khuyến nông còn là cầu nối giữa sản xuất và nghiên cứu.
Các yêu cầu của khuyến nông
(1) Cụ thể cho từng cây và con do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là
sinh vật.
(2) Phù hợp với đặc điểm KTXH của từng vùng do sản xuất nông nghiệp
diễn ra trong phạm vi không gian rộng.
(3) Kịp thời do nông nghiệp có tính thời vụ.
4
Nghiên
cứu
Nông dân
Khuyến nông
(4) Phù hợp với từng đối tượng khuyến cáo, do nông dân không đồng nhất

nguồn lực và nhân lực.
(5) Dễ thấy, dễ nghe, dễ hiểu và dễ làm theo.
(6) Đáp ứng được mong muốn của dân.
(7) Tăng khả năng để nông dân tự giúp đỡ được mình.
(8) Hiệu quả và tiết kiệm.[2]
2.1.4. Các nguyên tắc khuyến nông
Theo T.s Nguyễn Bão thuộc trung tâm khuyến nông – khuyến ngư quốc gia,
Hoạt động khuyến nông phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau:
(1) Nguyên tắc tự nguyện, không áp đặt, mệnh lệnh: Mỗi hộ nông dân là một
đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất của họ do họ quyết định. Vì vậy, nhiệm vụ của
khuyến nông là tìm hiểu cặn kẽ những yêu cầu, nguyện vọng của họ trong sản
xuất nông nghiệp, đưa ra những kĩ thuật tiến bộ mới sao cho phù hợp để họ tự
cân nhắc, lựa chọn. Vụ này họ chưa áp dụng vì họ chưa đủ điều kiện, chưa thật
tin tưởng nhưng vụ sau, thông qua một số hộ đã áp dụng có hiệu quả, lúc đó họ
sẽ tự áp dụng.
(2) Nguyên tắc không làm thay: Cán bộ khuyến nông (CBKN) giúp đỡ nông
dân thông qua trình diễn kết quả, trình diễn phương pháp để họ mắt thấy tai
nghe. CBKN cần thao tác chậm để nông dân theo dõi, vừa làm vừa giải thích sau
đó mời nông dân làm thử.
(3) Nguyên tắc không bao cấp: Khuyến nông chỉ hỗ trợ những khâu khó
khăn ban đầu về kỹ thuật, giống và vốn mà từng hộ nông dân không thể tự đầu tư
áp dụng do hạn chế về nguồn lực của mình. Không nên bao cấp toàn bộ, tránh
trường hợp nông dân ỉ lại không phát huy được năng lực và trách nhiệm vào
công việc.
(4) Nguyên tắc khuyến nông là nhịp cầu thông tin hai chiều: Giữa nông dân
với các tổ chức và cơ quan khác luôn có mối quan hệ, khuyến nông phải phản
ánh trung thực những ý kiến tiếp thu, phản hồi của nông dân về những vấn đề
chưa phù hợp cần sửa đổi khắc phục.
(5) Nguyên tắc khuyến nông không hoạt động đơn độc: Khuyến nông phải
phối hợp chặt chẽ với các tổ chức phát triển nông thôn khác. Ngoài việc phối

hợp chặt chẽ với các trường, viện nghiên cứu khoa học, trung tâm khoa học nông
nghiệp còn phải phối hợp chặt chẽ với các hội, đoàn thể quần chúng, các tổ chức
quốc tế, các doanh nghiệp… để đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, công tác
khuyến nông cần được xã hội hóa.
5
(6) Nguyên tắc công bằng: Khuyến nông phải quan tâm tạo điều kiện đến
mọi thành viên, mọi tầng lớp nông dân, đặc biệt là những người nghèo để họ
phát triển sản xuất, vươn lên cải thiện đời sống và hoà nhập với cộng đồng.
2.2. Cơ sở thực tiển về công tác khuyến nông:
2.2.1. Vài nét về tổ chức hoạt động khuyến nông trên thế giới
Trên thế giới khuyến nông ra đời từ rất sớm và ở hầu khắp các nước. Hoạt
động khuyến nông gắn liền với sự phát triển của nông nghiệp. Các nước có nền
nông nghiệp phát triển (như Anh, Pháp, Mỹ) một phần cũng là nhờ tác động tích
cực của hoạt động khuyến nông. Vì vậy các nước nông nghiệp đang phát triển
hiện nay (Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan) cũng đang cố gắng xây dựng và hoàn
thiện hệ thống khuyến nông của nước mình.
Tuy nhiên phải đến năm 1843 hoạt động khuyến nông mới có tính phổ rộng
và biểu hiện rõ rệt. Đó là hoạt động của Uỷ ban nông nghiệp của hội đồng thành
phố NewYork (Mỹ). Uỷ ban này đã đề nghị các giáo sư giảng dạy ở các trường
đại học nông nghiệp và các viện nghiên cứu thường xuyên phải xuống cơ sở sản
xuất ở các địa phương để hướng dẫn giúp người nông dân phát triển sản xuất
nông nghiệp.
Hoạt động khuyến nông ở Châu Âu và Bắc Mỹ đã sớm đi vào chính quy và
chuyên nghiệp. Năm 1907 ở Mỹ có 42 trường đại học đã hăng hái thực hiện công
tác khuyến nông, nhiều trường đã tổ chức bộ môn khuyến nông, có khoa khuyến
nông. Đến năm 1910 có khoảng 35 trường đã có bộ môn khuyến nông, sau đó
nhiều chương trình khuyến nông đã phát triển nhanh chóng và hiệu quả. Cùng
thời gian đó ở hầu khắp các nước Châu Âu (Anh, Pháp, Thụy Sĩ, Tây Ban
Nha…) đều có các trường đại học nông nghiệp, có khoa khuyến nông và thực
hiện công tác khuyến nông rất thành công. Ở các nước này dịch vụ khuyến nông

thường bắt đầu từ các hội nông dân, nhóm SXNN. Ở Châu Âu và Bắc Mỹ, nông
dân địa phương hoặc các nhóm SXNN tham gia rất tích cực vào các chương
trình khuyến nông, kể cả việc thuê mướn những nhân viên khuyến nông, những
kỹ sư nông nghiệp giúp họ phát triển sản xuất. Ngày nay mặc dù các nước này tỷ
trọng nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế còn rất nhỏ nhưng vẫn còn cơ quan
khuyến nông, vẫn còn CBKN.
Ở Châu Á, ngay sau khi có hội nghị đầu tiên về khuyến nông họp tại
Philippin (năm 1955), hoạt động khuyến nông đã có bước phát triển mạnh mẽ.
Tổ chức khuyến nông các nước lần lượt được thành lập như ở Inđônêxia (1955),
Ấn Độ (1960), Thái Lan (1967), Trung Quốc (1970).
* Khuyến nông ở Inđônêxia:
Hệ thống khuyến nông nhà nước được thành lập năm 1955 gồm 4 cấp: cấp
quốc gia có hội đồng khuyến nông quốc gia, cấp tỉnh có diễn đàn khuyến nông
cấp 1, huyện có diễn đàn khuyến nông cấp 2, cấp xã và liên xã có cơ quan
6
khuyến nông cơ sở. Tại đó có bộ phận dịch vụ khuyến nông và trung tâm thông
tin phục vụ cho nhu cầu của nông dân. Ngày nay Inđonêxia thường xuyên được
chọn là nơi tổ chức đào tạo CBKN cho các nước trong khu vực.[2]
* Khuyến nông ở Ấn Độ
Tổ chức khuyến nông được thành lập từ năm 1960 theo 5 cấp: cấp quốc gia,
cấp vùng, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Nhờ có hoạt động khuyến nông được tổ
chức tương đối tốt nên Ấn Độ đã làm cuộc “Cách mạng xanh” khá thành công,
về căn bản đã giải quyết được nạn đó, tự túc được lương thực. Sau đó nước này
đã thắng lợi trong cuộc “Cách mạng trắng” về sữa và đang tiếp tục tiến hành
cuộc “Cách mạng nâu” về thịt.[2]
* Khuyến nông ở Thái Lan
Tuy mãi đến năm 1967 mới có quyết định thành lập tổ chức khuyến nông
song được Chính phủ Thái Lan đặc biệt quan tâm. Số CBKN của Thái Lan vào
năm 1992 là khoảng 15.196 người. Mỗi năm Chính phủ Thái Lan chi khoảng
130 - 150 triệu USD cho hoạt động khuyến nông. Vì vậy nông nghiệp Thái Lan

phát triển một cách toàn diện cả về trồng trọt và chăn nuôi, có sản lượng gạo và
sắn xuất khẩu nhiều nhất thế giới, chất lượng sản phẩm nông nghiệp đạt tiêu
chuẩn cao cho xuất khẩu và tiêu dùng.[2]
* Khuyến nông ở Trung Quốc
Hoạt động khuyến nông ở Trung Quốc đã có từ lâu, năm 1933 trường đại
học Kim Lãng đã thành lập phân khu khuyến nông nhưng mãi đến năm 1970
nước này mới chính thức có tổ chức khuyến nông. Trong Nghị quyết của đảng
cộng sản Trung Quốc khoá VIII về “Tăng cường công tác nông nghiệp và nông
thôn” nêu rõ “phải nắm vững chiến lược KHCN và khuyến nông”, đưa ngay sinh
viên mới tốt nghiệp xuống cơ sở, chú trọng đào tạo các nông dân giỏi trở thành
khuyến nông viên. Cho tới nay Trung Quốc đã có Uỷ ban quốc gia - cục phổ cập
kỹ thuật nông nghiệp, cấp tỉnh có cục khuyến nông, dưới tỉnh có khuyến nông
phân khu, cấp cơ sở là khuyến nông thôn xã.[2]
Trên đây là hoạt động khuyến nông của một số quốc gia trên thế giới. Nó
cho thấy khuyến nông đang được các nước ngày càng chú trọng, quan tâm hơn
để phục vụ cho phát triển nông nghiệp - nông thôn và nâng cao đời sống người
nông dân. Bằng chứng là năm 1700 mới có 1 nước, năm 1800 có 8 nước, năm
1950 có 69 nước, năm 1992 có 199 nước có tổ chức khuyến nông. Đến năm
1993 Việt Nam cũng chính thức thành lập tổ chức khuyến nông.[2]
2.2.2. Hoạt động khuyến nông ở Việt Nam
2.2.2.1. Sự hình thành và phát triển khuyến nông ở Việt Nam
Nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống và phát triển cùng nền văn
minh lúa nước ở nước ta. Từ xưa đến nay nông nghiệp đã đóng vai trò quan
7
trọng và không thể thiếu trong cuộc sống của người dân Việt Nam. Hoạt động
sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi. Ngày nay cuộc sống
ngày càng cao đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển để đáp ứng được nhu cầu của
mọi người. Các giai đoạn hình thành và phát triển của khuyến nông Việt Nam đạt
được như sau:
Trong thời kỳ phong kiến, công tác khuyến nông đã đặc biệt được chú trọng.

Thời tiền Lê, hàng năm vua Lê Hoàng đã tự mình xuống ruộng cày đường cày
đầu tiên cho vụ sản xuất đầu xuân. Năm 1226, dưới thời Trần lập chức quan
“Khuyến nông sứ” là viên quan chuyên chăm lo khuyến khích phát triển nông
nghiệp. Năm 1789, vua Quang Trung ban bố chiếu khuyến nông sau khi đại phá
quân Thanh nhằm phục hồi lại ruộng bị bỏ hoang. Chiếu khuyến nông đã thu
được nhiều kết quả to lớn. Chỉ sau 3 năm hầu hết ruộng hoang đã được khôi
phục, sản xuất phát triển, bổ sung chế độ cấp công điền.
Năm 1960 ở miền Nam thành lập “Nha khuyến nông” trực thuộc bộ nông
nghiệp cải cách điền địa nông mục. Trong khi đó ở miền Bắc, Bộ nông nghịêp
thường xuyên đưa sinh viên xuống giúp các HTX làm công tác Đông xuân, chọn
giống lúa, trồng ngô - khoai, làm bèo dâu, tiêm phòng cho gia súc - gia cầm…
Nghị định 13/CP của Chính phủ ra ngày 02/03/1993 về công tác khuyến
nông, thông tư 02/LB/TT hướng dẫn việc tổ chức hệ thống khuyến nông và hoạt
động khuyến nông. Hệ thống khuyến nông của Việt Nam chính thức được thành
lập năm 1993, ở cấp Trung ương có cục khuyến nông, cấp tỉnh có TTKN tỉnh,
cấp huyện có Trạm khuyến nông huyện, cấp xã có mạng lưới khuyến nông cơ sở.
Ngay khi có nghị định 13/CP của chính phủ ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả
nước đều thành lập trung tâm khuyến nông trực thuộc sở nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
Năm 2004 tổng số cán bộ khuyến nông cấp tỉnh là 1.446 người, số huyện có
trạm khuyến nông là 520 trong tổng số 637 chiếm 81%, lực lượng cán bộ khuyến
nông cấp huyện bao gồm 1716 người, cấp xã có khuyến nông viên cơ sở với
7.434 người tại 10.502 xã sản xuất nông nghiệp chiếm 70,7%.
Kể từ khi có Nghị định 13 của Chính phủ về công tác khuyến nông, hoạt
động khuyến nông cả nước đã nhanh chóng hình thành hệ thống tổ chức khuyến
nông từ tỉnh xuống huyện xã, thôn, bản. Đội ngũ khuyến nông đã nhanh chóng
tăng về số lượng và chất lượng. Theo báo cáo tổng kết khuyến nông giai đoạn
1993 – 2005 và định hướng 2006 – 2010, công tác khuyến nông qua nhiều năm
hoạt động đã đạt được những thành tựu:
1) Kể từ khi có Nghị định 13 của Chính phủ về công tác khuyến nông, hoạt

động khuyến nông cả nước đã nhanh chóng hình thành hệ thống tổ chức khuyến
nông từ tỉnh xuống huyện xã, thôn, bản. Đội ngũ khuyến nông đã nhanh chóng
tăng về số lượng và chất lượng.
8
2) Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho nông dân về chủ trương đường
lối, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng, Nhà nước và Bộ NN
và PTNT. Về tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp ứng dụng vào sản xuất, về các điển
hình tiên tiến trong thực tế sản xuất, góp phần nâng cao dân trí, trình độ kỹ thuật
và quản lý sản xuất của nông dân, thúc đẩy quá trình hình thành tầng lớp nông
dân sản xuất và kinh doanh giỏi. Đây cũng chính là lực lượng tiếp sức cho cán
bộ khuyến nông. Thực hiện khuyến nông từ nông dân đến nông dân - một cách
làm mang lại hiệu quả cao.
3) Hoạt động khuyến nông đã bám sát các chương trình nông nghiệp trọng
điểm của trung ương và địa phương, đầu tư hỗ trợ có trọng tâm theo yêu cầu của
sản xuất và nguyện vọng của nông dân nhằm đạt được mục tiêu phục vụ cho các
chương trình kinh tế lớn của trung ương và địa phương.
4) Hoạt động khuyến nông đã chuyển giao có hiệu quả các kết quả nghiên
cứu khoa học nông nghiệp của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo đến bà con nông
dân, đồng thời tạo điều kiện để khoa học phát triển hơn. Khuyến nông thật sự là
cầu nối giữa nghiên cứu và sản xuất.
5) Trong lúc HTX nông nghiệp kiểu cũ không còn phát huy tác dụng, HTX
kiểu mới đang được hình thành, công tác khuyến nông ra đời đã đóng góp tích
cực trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
6) Bước đầu tạo được mối liên kết và xã hội hoá công tác khuyến nông. Đã
huy động và hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, cơ quan
nghiên cứu, trường đào tạo, doanh nghiệp trong và ngoài nước, các phương tiện
truyền thông đại chúng tham gia trực tiếp vào hoạt động khuyến nông. Phát huy
được sức mạnh tổng hợp của các đơn vị tham gia hoạt động khuyến nông, nhờ
đó từng bước hoàn thiện nội dung, phương pháp và chính sách khuyến nông.
Hoạt động khuyến nông ngày càng đa dạng, phong phú và hiệu quả.

Bên cạnh đó khuyến nông vẫn còn một số tồn tại như: Hệ thống tổ chức
khuyến nông còn nhiều bất cập, chưa có sự hướng dẫn nên phát triển tự do.
Khuyến nông ở cơ sở còn yếu cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là vùng sâu
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Hiện vẫn còn 30% số xã chưa có cán
bộ khuyến nông cơ sở, nhiều vùng nông dân chưa có cơ hội tiếp nhận thông tin
khuyến nông, tiếp xúc với cán bộ khuyến nông. Trong các nội dung hoạt động
khuyến nông về nông nghiệp-nông dân-nông thôn thì mới chỉ làm được trong
lĩnh vực nông nghiệp và cũng chỉ hoạt động mạnh chuyển giao tiến bộ kỹ thuật,
ít chú ý đến các yếu tố phi kỹ thuật (tổ chức sản xuất, thị trường, tiếp thị, vốn ),
nhằm bảo đảm cho các tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao phát huy hiệu quả và
bền vững.[3]
Bằng việc ban hành Nghị định 02/2010/NĐ-CP về công tác khuyến nông,
khuyến ngư thì hệ thống khuyến nông Việt Nam đã thêm một bước được hoàn
9
thiện cả về cơ cấu lẫn nội dung hành động. Hệ thống khuyến nông Nhà nước đã
nhanh chóng phối hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan, nhất là các tổ
chức quần chúng. Trong hoạt động, khuyến nông Việt Nam đang tiếp tục đón
nhận kinh nghiệm của khuyến nông các nước tiên tiến, làm cho hoạt động
khuyến nông trong nước ngày càng phong phú, bộ mặt nông thôn và sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp phát triển không ngừng, đã nâng cao, cải thiện đời sống
người dân lao động ở nhiều địa phương.
2.2.2.2. Hệ thống tổ chức khuyến nông Nhà nước ở Việt Nam
* Cấp Trung ương có trung tâm Khuyến Nông Quốc Gia
Trung tâm khuyến nông quốc gia là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ
NN&PTNT là cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về
công tác khuyến nông, về SXNN trên phạm vi cả nước. Trung tâm có tư cách
pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Trung tâm khuyến nông quốc gia có
nhiệm vụ:
(1) Xây dựng, chỉ đạo các chương trình khuyến nông về trồng trọt, chăn
nuôi, BVTV, thú y, bảo quản chế biến nông sản theo từng lĩnh vực chuyên môn,

từng vùng sinh thái trong phạm vi cả nước.
(2) Hướng dẫn các địa phương, các tổ chức khuyến nông xây dựng và thực
hiện các dự án khuyến nông.
(3) Tham gia thẩm định các chương trình, dự án khuyến nông theo quy định
của Bộ NN&PTNT.
(4) Quan hệ với các tổ chức KTXH trong và ngoài nước để thu hút vốn hoặc
tham gia trực tiếp vào các hoạt động khuyến nông.
(5) Xây dựng, theo dõi, đôn đốc và hướng dẫn thực hiện các quy trình kỹ
thuật trồng trọt - chăn nuôi.
(6) Quản lý chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, phân bón trên thị trường.
(7) Theo dõi, đánh giá và thực hiên các chương trình dự án khuyến nông để
tổng hợp tình hình báo cáo Chính phủ.
* Cấp tỉnh có trung tâm khuyến nông tỉnh
TTKN tỉnh trực thuộc Sở NN&PTNT, mỗi trung tâm thường có từ 3 - 5
phòng ban với số cán bộ biên chế từ 15 - 20 người. Nhiệm vụ của TTKN tỉnh
bao gồm:
(1) Xây dựng và hướng dẫn thực hiện các chương trình, dự án khuyến nông
trong tỉnh, từng tiểu vùng sinh thái, từng lĩnh vực SXNN tại địa phương.
(2) Phổ biến và chuyển giao KTTB về nông - lâm - ngư nghiệp và những
kinh nghiệm điển hình trong sản xuất cho nông dân.
10
(3) Bồi dưỡng kỹ thuật, rèn luyện tay nghề và quản lý kinh tế cho CBKN cơ
sở, cung cấp cho nông dân các thông tin thị trường, giá cả nông - lâm - thuỷ sản.
(4) Quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước để thu hút nguồn vốn hoặc
tham gia trực tiếp vào các hoạt động khuyến nông ở địa phương.
(5) Tham gia xây dựng và phổ biến cho nông dân thực hiện các quy trình kỹ
thuật sản xuất thâm canh cây trồng, vật nuôi, lâm sinh, thuỷ sản.
(6) Tổng kết đánh giá việc thực hiện các chương trình dự án khuyến nông
cấp tỉnh.
* Cấp huyện, thị xã có Trạm khuyến nông huyện, thị xã

Trạm khuyến nông huyện trực thuộc phòng nông nghiệp (hoặc phòng kinh
tế) huyện, mỗi trạm có từ 5 - 7 nhân viên làm việc theo phòng ban hoặc theo
ngành sản xuất được phân công. Trạm khuyến nông huyện có nhiệm vụ sau:
(1) Đưa những KTTB theo các chương trình dự án khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư vào sản xuất đại trà trện địa bàn huyện.
(2) Xây dựng các mô hình trình diễn phục vụ cho các chương trình dự án
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
(3) Hướng dẫn quy trình kỹ thuật cho nông - lâm - ngư dân theo mùa vụ
hoặc theo yêu cầu của sản xuất.
(4) Tổ chức tham quan học tập các điển hình tiên tiến ở trong và ngoài
huyện.
(5) Bồi dưỡng kỹ thuật và tập huấn nghiệp vụ cho khuyến nông viên cơ sở
và cho nông dân.
(6) Xây dựng CLBKN, nhóm nông dân sản xuất giỏi, nhóm hộ nông dân
cùng sở thích.
(7) Hợp tác với các tổ chức và cá nhân thực hiện hoạt động khuyến nông.
* Cấp xã thôn thành lập mạng lưới khuyến nông cơ sở
Khuyến nông cơ sở là một bộ phận của khuyến nông nhà nước, tổ chức và
hoạt động chịu sự quản lí của các cấp khuyến nông cao hơn. Khuyến nông cơ sở
là bộ phận gần gũi nhất đối với người dân trên địa bàn sinh sống và có những
hiểu biết rõ ràng về điều kiện của vùng. Vì vậy muốn hoạt động khuyến nông
diễn ra thuận lợi trên địa bàn nhất định cần có sự giúp đỡ, hổ trợ của bộ phận
này. CBKN ở cơ sở không thuộc biên chế nhà nước, làm việc theo chế độ hợp
đồng dài hạn hoặc ngắn hạn. CBKN cơ sở thực hiện nhiệm vụ theo hợp đồng cơ
bản gồm:
(1) Tự bồi dưỡng nâng cao trình độ và hiểu biết về chuyên môn, KTXH,
nghiệp vụ khuyến nông.
11
(2) Cố vấn kỹ thuật và thông tin thị trường cho nông dân.
(3) Thực thi các dự án khyến nông trên địa bàn phụ trách.

(4) Thực hiện, tổ chức và theo dõi các mô hình sản xuất tiên tiến.
(5) Điều tra thu thập thông tin làm cơ sở cho xây dựng và triển khai dự án
khuyến nông.
(6) Hàng tháng tổng hợp tình hình hoạt động khuyến nông viết và trình bày
báo cáo tại các kỳ họp giao ban thường niên.
Hệ thống tổ chức khuyến nông Nhà nước ở Việt Nam được tổ chức theo
kiểu hình tháp, thống nhất chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở. Hệ thống này có
nhiệm vụ vừa kết hợp vừa tạo điều kiện cho hệ thống khuyến nông ngoài Nhà
nước hoạt động vì một mục tiêu chung là khuyến khích mở rộng sản xuất ngành
nông nghiệp trên phạm vi cả nước.
Ngoài hệ thống khuyến nông Nhà nước thì hiện nay ở nước ta việc xã hội
hoá công tác khuyến nông đã tạo điều kiện cho các tổ chức, các doanh nghiệp
thực hiện các hoạt động khuyến nông của mình từ đó đem lợi ích cho chính cá
nhân và tổ chức đó và cho bà con nông dân. Bằng sự thay đổi này cũng tạo ra
nhiều hơn những cơ hội việc làm cho đội ngũ sinh viên mới ra trường, cán bộ kỹ
thuật được đào tạo bài bản, đặc biệt là hàng nghìn sinh viên các trường nông lâm
nghiệp tốt nghiệp mỗi năm phục vụ cho các địa bàn, nhất là vùng miền núi, vùng
sâu, vùng xa.
2.2.2.3. Kết quả hoạt động công tác khuyến nông ở Việt nam
Ở Việt Nam, công tác khuyến nông đã có đóng góp quan trọng trong việc
chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng và có
hiệu quả, hướng mạnh xuất khẩu, phát triển ngành nghề nông thôn mới, tăng thu
nhập, xoá đói giảm nghèo. Công tác khuyến nông chuyển giao KTTB trong thời
gian qua đã đạt được một số kết quả chủ yếu sau:
Đã thực hiện tốt sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, tạo được lòng tin và
hưởng ứng của nông dân, đã thực hiện được việc chuyển giao KTTB tới nông
dân theo các chương trình khuyến nông có hiệu quả, đặc biệt trên lĩnh vực giống
cây trồng, vật nuôi có ưu thế lai, các KTTB được áp dụng thành công trong nông
nghiệp.
Công tác khuyến nông góp phần duy trì được tốc độ tăng trưởng của nông

nghiệp từ 4 - 4,5%, phát triển nông sản hàng hoá, đời sống nông dân được cải
thiện đáng kể. Khâu đột phá trong chuyển giao KTTB là đưa nhiều giống cây
trồng, vật nuôi năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất, áp dụng kỹ thuật canh
tác tiên tiến như quy trình bón phân hợp lý, biện pháp quản lý tổng hợp dịch hại
(IPM), quy trình phòng và trị bệnh cho vật nuôi và áp dụng công nghệ sau thu
hoạch. Các kết quả đó thể hiện như sau:
12
Chương trình khuyến nông trồng trọt
Năm 2010 chương trình khuyến nông trồng trọt triển khai với kinh phí 40,05
tỷ đồng. Kết quả đạt được như sau:
Bảng 2.1: Chương trình khuyến nông trồng trọt
Kế hoạch Thực hiện
Quy mô
(ha)
Kinh phí
(Tr.đ)
Quy mô
(ha)
Kinh phí
(Tr.đ)
Số điểm
TD
Số hộ
tham gia
Sản xuất hạt
giống lúa lai
F1
1.172 6.570
1.14
0

6.354 90 8.000
SX lúa lai
thương phẩm
313 1.500 313 1.500 33 2.670
SX và nhân
giống lúa CL
1.058 3.380
1.08
8
3.530 105 9.185
3 giảm 3 tăng
trong SX lúa
CL
1.707 3.800
2.02
7
4.000 98 4.140
Chuyển đổi
cơ cấu và
luân canh,
tăng vụ cây
trồng
906 3.600 926 3.700 90 6.500
SX rau theo
Việt GAP,
hoa chất
lượng
886 5.780
1.01
0

6.580 220
10.00
0
Trồng thâm
canh cây ăn
quả theo
GAP
713 4.700 703 4.600 100 3.500
Cây công
nghiệp ngắn
ngày
886 4.450 886 4.450 111 6.580
Cây công
nghiệp dài
ngày
852 5.070 847 5.046 139 4.233
Trồng cỏ
chăn nuôi
74 1.200 74 1.200 21 430
13
Tổng cộng
8.567 40.050 9.014 40.96
0
1.00
7
55.23
8
Nguồn: Báo cáo tổng kết Khuyến Nông – Khuyến ngư Việt Nam năm 2009 –
2010
Nhìn chung các chương trình khuyến nông về trồng trọt đã triển khai vượt

kế hoạch cả về quy mô diện tích (9.014ha/8.567ha = 105%) cũng như kinh phí
(40.960 triệu/40.050 triệu = 102%). Các dự án trồng trọt triển khai theo đúng kế
hoạch, đạt các yêu cầu, mục tiêu về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Các điểm
trình diễn cho năng suất cao hơn từ 10- 30% so với ngoài mô hình. Chương trình
đã góp phần tăng thu nhập cho nông dân, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh
lương thực ở những vùng khó khăn. Nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung
được hình thành cung cấp nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu. Chất
lượng sản phẩm cũng được nâng lên, áp dụng các quy trình sản xuất sạch, sản
xuất theo tiêu chuẩn Việt GAP, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
Chương trình khuyến nông chăn nuôi
Năm 2010 chương trình khuyến nông chăn nuôi triển khai với kinh phí 30,8
tỷ đồng. Kết quả thực hiện như sau:
Bảng 2.2: Chương trình khuyến nông về chăn nuôi
Chương trình
Quy mô
(con, đàn)
Số
điểm
TD
Số hộ
tham gia
Số lượt
người được
tập huấn,
tham quan
Cải tạo giống bò theo
hướng chuyên thịt
4.449 54 2.424 5.518
Vỗ béo đàn bò 7.821 62
2.81

6
6.324
Chăn nuôi bò sữa 97 6 80 380
Chăn nuôi bò sinh sản 121 3 102 330
Cải tạo đàn trâu 713 14 512 1.144
Cải tạo đàn dê, cừu 6.966 36 416 2.230
CN lợn hướng nạc đảm
bảo VSMT
3.761 84 697 6.105
Chăn nuôi gia cầm an
toàn sinh học
472.10
5
194 1.942 11.346
Chăn nuôi ong chất lượng 600 5 100 250
14
cao
Tổng cộng
496.633
45
8
9.089 33.627
Nguồn: Báo cáo tổng kết Khuyến nông – Khuyến ngư Việt Nam năm 2009 -
2010
Chương trình Khuyến nông về chăn nuôi đã được triển khai đúng tiến độ,
chất lượng giống, vật tư, thiết bị đảm bảo theo yêu cầu của mô hình và được
cung cấp đầy đủ tới các hộ tham gia. Các đơn vị đã tổ chức tập huấn, tham quan
giúp nông dân nắm được các quy trình kỹ thuật chăn nuôi để áp dụng vào sản
xuất tại gia đình. Năng suất, chất lượng, tỷ lệ sống, tốc độ tăng trọng của đàn vật
nuôi ở các mô hình đều đảm bảo với định mức kinh tế kỹ thuật, tăng thu nhập

cho người dân.
Chương trình đã góp phần làm thay đổi tập quán chăn nuôi cũ của bà con
nông dân, từng bước phát triển hình thức chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp nông dân xóa đói giảm nghèo, cải
thiện đời sống. Các mô hình được người dân hưởng ứng và có khả năng nhân
rộng trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên vấn đề tồn tại ở đây là một số mô
hình đạt kết quả cao nhưng công tác phổ biến tuyên truyền để nhân rộng mô hình
còn hạn chế do các quy định còn chưa phù hợp, kinh phí hỗ trợ ít. Vì vậy công
tác khuyến nông cần đẩy mạnh để hoạt động chăn nuôi đạt hiệu quả cao hơn, góp
phần xóa đói giảm nghèo, tiến tới làm giầu cho người dân.
Chương trình khuyến ngư
Năm 2010 chương trình khuyến ngư triển khai với kinh phí 23,2 tỷ đồng,
chiếm 13% trong tổng số kinh phí dùng để phát triển sản xuất nông nghiệp.[4]
Một số kết quả đạt được như sau:
Bảng 2.3: Chương trình khuyến ngư
Chương trình
Kế hoạch Thực hiện
Quy

Kinh
phí (Tr.đ)
Quy

Kinh
phí (Tr.đ)
Phát triển nuôi thủy
sản nước ngọt
348ha
và 1140m
3

lồng
10.98
8
377ha
và 1140 m
3
lồng
11.152
Phát triển nuôi thủy
sản mặn lợ
42,35ha 3.013 42,75ha 2.965
Phát triển nuôi biển
đảo
1908
m
3
lồng và
1.655 1518
m
3
lồng và
1.554
15
1200 khay 1200 khay
Phát triển nuôi tôm

115,8ha 1.240 115,8ha 1240
Phát triển khai thác 58 tàu 6.303 57 tàu 6.178
Tổng cộng 23.20
0

23.08
9
Nguồn: Báo cáo tổng kết Khuyến nông – Khuyến ngư Việt Nam năm 2009 -
2010
Số liệu thể hiện được diện tích nuôi trồng thủy sản là rất lớn và nước ta đã
xây dựng, phát triển nhiều chương trình nuôi trồng thủy sản khác nhau. Chương
trình Khuyến ngư đã được triển khai ở nhiều vùng trên cả nước với quy mô lớn,
đặc biệt là ở các vùng phía nam nước ta. Đây là tiềm năng để phát triển nuôi
trồng thủy sản ở nước ta.
Khi đi vào thực hiện các chương trình nhìn chung việc phát triển nuôi trồng
thủy sản đã thực hiện được kế hoạch đưa ra và sự chênh lệch giữa kế hoạch và
thực tiển là không đáng kể. Hoạt động nuôi trồng thủy sản được triển khai trên
nhiều diện tích đất nuôi trồng khác nhau và thấy được sự đa dạng về các vật nuôi
trong nuôi trồng thủy sản ở nước ta. Vì vậy nguồn lợi thu được từ thủy sản là rất
lớn. Kinh phí hoạt động thấp hơn so với kế hoạch đặt ra từ 23.200 triệu đồng
giảm còn thành 23.089 triệu đồng. Kinh phí cho các hoạt động nuôi trồng thủy
sản không vượt quá kế hoạch, khi đi vào thực hiện vẫn đáp ứng được hoạt động
phát triển nuôi trồng thủy sản.
Qua bảng số liệu thấy được quy mô ngành nuôi trồng thủy sản nước ngọt,
nước mặn, nước lợ tăng lên, còn việc nuôi trồng ở biển đảo hay nuôi tôm sú đã
bị giảm xuống. Cho thấy hướng phát triển của ngành thủy sản nước ta là việc chú
trọng nuôi, chăm sóc từ khâu ban đầu cho đến khi thu hoạch. Đây là bước thay
đổi lớn trong nhận thức của người dân. Mặc dù ngành nuôi trồng thủy sản chưa
phải là ngành chủ đạo trong sự phát triển nông nghiệp của đất nước nhưng nếu
biết nuôi trồng và khai thác thủy sản hợp lí thì nguồn lợi mà nó đem lại là vô
cùng to lớn.
2.2.4. Hoạt động khuyến nông ở tỉnh Quảng Bình
Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Quảng Bình đã có nhiều
chuyển biến đáng kể, năng suất sản lượng cây trồng vật nuôi không ngừng tăng
lên. Những thành công đã đạt được trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp tăng lên

không thể thiếu được sự đóng góp của trung tâm khuyến nông – khuyến lâm tỉnh
Quảng Bình. Trung tâm khuyến nông – khuyến lâm tỉnh đã chỉ đạo, tổ chức,
tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
16
Trung tâm Khuyến nông Quảng Bình được thành lập ngày 16/04/1993, lúc
đầu gọi là Ban Khuyến Nông trực thuộc Sở Nông nghiệp. Nguồn cán bộ do một
số cán bộ của Sở Nông nghiệp kiêm nhiệm, Giám đốc sở làm trưởng ban. Bộ
phận khuyến lâm thuộc sở lâm nghiệp. Phòng nông nghiệp các huyện thị kiêm
công tác khuyến nông. Ngày 17/01/1994 UBND tỉnh có quyết định số 36/QĐ-
UB thành lập trung tâm khuyến nông thuộc sở nông nghiệp. Từ năm 1995 tổ
chức IFAD đã hỗ trợ tỉnh Quảng Bình thực hiện dự án bảo tồn và phát triển tài
nguyên nông nghiệp Quảng Bình. Nhờ đó hệ thống khuyến nông phát triển mạnh
mẽ hơn trước, giúp nông dân ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản
xuất. Hoạt động khuyến nông tỉnh Quảng Bình ngày càng có nhiều chuyển biến
rỏ rệt.
Sau 5 năm thành lập Trung tâm Khuyến nông, nhờ sự tài trợ và giúp đỡ của
dự án “Dự án bảo tồn tài nguyên nông nghiệp tỉnh Quảng Bình” tháng 11/1998
mạng lười khuyến nông cơ sở được thành lập.[6]
Ngày 13/08/2002 UBND tỉnh có Quyết định số 1843/QĐ-UB đổi tên trung
tâm khuyến nông thành trung tâm Khuyến Nông - Khuyến Lâm Quảng Bình.
Hiện nay tổng số cán bộ Khuyến Nông - Khuyến Lâm từ tỉnh đến huyện là 50
người, phân theo trình độ chuyên môn khác nhau.[6]
Hiện trên địa bàn tỉnh có hơn 80% người dân sống bằng nghề sản xuất nông
nghiệp. Với địa hình chia cắt, độ dốc lớn, hạn hán, lụt bảo thường xuyên, thuỷ
lợi khó khăn nhưng nhờ sự đồng lòng giúp sức của nhà nước, sở NN&PTNT,
trung tâm khuyến nông – khuyến lâm tỉnh, huyện và nhiều cơ quan khác đã giúp
người dân ở đây vượt qua nhiều khó khăn và ngày một phát triển.
Trong những năm qua trung tâm Khuyến Nông - Khuyến Lâm Quảng Bình
đã thực hiện 63 mô hình của Cục Khuyến Nông - Khuyến lâm Trung ương và
104 mô hình Khuyến nông - Khuyến lâm của tỉnh, 07 mô hình của cục phát triển

lâm nghiệp với tổng kinh phí trên 09 tỷ đồng. Những mô hình, chương trình
trọng điểm như lúa lai, ngô lai, lúa lai kết hợp tái sinh (lúa chét), chăn nuôi lợn
hướng nạc, cải tạo đàn bò vàng địa phương… và nhân rộng mô hình vì thế góp
phần tích cực tăng trưởng kinh tế và ổn định an ninh lương thực, thực hiện công
cuộc xoá đói, giảm nghèo của tỉnh Quảng Bình.[6]
Công tác thông tin, tuyên truyền quảng bá chuyển giao khoa học - kỹ thuật
tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ khuyến nông - khuyến lâm được triển
khai trên toàn huyện và nhận được sự hưởng ứng của mọi người. Các hoạt động
này diễn ra thường xuyên và phân bố ở nhiều vùng trong tỉnh. Công tác khuyến
nông được chú trọng nhiều hơn ở các vùng sâu, vùng xa trên toàn tỉnh. Ở những
vùng này thường có những ưu tiên để họ có thể sản xuất nông nghiệp đạt hiệu
quả cao. Khi được phỏng vấn hầu hết người dân đều có mong muốn được tham
gia nhiều vào các chương trình khuyến nông trên địa bàn tỉnh. Thông qua các
chương trình khuyến nông người dân được học hỏi về kỹ thuật sản xuất, nâng
17
cao trình độ quản lý và tiếp cận với kênh thông tin về thị trường, giúp định
hướng sản xuất có hiệu quả hơn. Qua đó cho thấy hoạt động khuyến nông đã góp
phần vào thành công cho sự phát triển nông nghiệp của tỉnh trong những năm
qua.
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu những hoạt động khuyến nông tại Trạm khuyến
nông huyện Quảng Ninh, cán bộ khuyến nông (CBKN) hiện đang làm việc tại
huyện và một số hộ nông dân được lựa chọn trên địa bàn huyện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nghiên cứu: Trạm khuyến nông huyện, các xã trong huyện, các hộ
dân và một số điển hình kinh tế có tác động của hoạt động khuyến nông tại địa
bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

+ Thời gian nghiên cứu: từ tháng 1/2010 – 5/2011, và số liệu được sử dụng
trong phạm vi 3 năm (2009-2011) và một số thông tin từ các năm trước phục vụ
cho việc so sánh, đánh giá về các hoạt động khuyến nông.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1.Tình hình cơ bản của huyện Quảng Ninh
3.3.1.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Quảng Ninh
- Vị trí địa lí, địa hình
- Điều kiện thời tiết khí hậu
- Tình hình sử dụng đất đai
3.3.1.2.Điều kiện kinh tế - xã hội.
- Tình hình dân số và lao động
- Tình hình cơ bản về thu nhập và mức sống:
- Tình hình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
3.3.2. Hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình
trong giai đoạn ba năm 2009 – 2011.
- Căn cứ thành lập của trạm:
18
- Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của khuyến nông trạm.
3.3.3. Đánh giá kết quả hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện Quảng Ninh
tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn ba năm 2009 – 2011.
- Công tác chỉ đạo sản xuất
- Công tác tuyên truyền, tập huấn và chuyển giao tiến bộ khoa học kĩ thuật
- Công tác xây dựng mô hình trình diễn:
- Hoạt động của khuyến nông viên cơ sở:
3.3.4. Đánh giá tác động của công tác khuyến nông trên địa bàn huyện Quảng
Ninh tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn ba năm 2009 – 2011.
- Tác động về mặt kinh tế
- Tác động về mặt xã hội:
- Tác động về môi trường:
3.3.5. Đánh giá của người dân về công tác khuyến nông.

3.3.6. Đánh giá những thành công và hạn chế trong công tác khuyến nông huyện
Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình từ năm 2009 – 2011.
3.3.7. Giải pháp nhằm nâng cao vài trò của công tác khuyến nông trong việc phát
triển sản xuất nông nghiệp
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
3.4.1.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Thu thập số liệu thứ cấp tại huyện thông qua các báo cáo tổng kết năm
2009, 2010, các số liệu thống kê lưu trữ về đất đai, dân số, cơ sở hạ tầng của
huyện, báo cáo khuyến nông của trạm trong năm 2009, 2010, 2011.
- Các nguồn thống kê của huyện và tỉnh, các thông tin từ dự án, của các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn.
3.4.1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
- Quan sát thực địa: Tiến hành quan sát một cách tổng thể địa hình, giao
thông tình hình phát triển kinh tế xã hội văn hóa trên địa bàn huyện Quảng Ninh.
- Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn cán bộ khuyến nông để tìm hiểu về các hoạt
động khuyến nông và mức độ thành công của các chương trình, dự án.
- Thảo luận nhóm: Để đánh giá mức độ hài lòng của người dân về các hoạt
động khuyến nông.
- Phỏng vấn hộ
19
Phỏng vấn 30 hộ theo phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc với các câu hỏi
(có trong bảng hỏi) để khai thác thông tin của người dân đầy đủ và chủ động
hơn. Các hộ được chọn ngẫu nhiên để lấy các thông tin là những hộ dân sản xuất
nông nghiệp lấy ý kiến của họ về hoạt động khuyến nông tại địa phương. Các
thông tin cần thu thập là nhận thức và đánh giá của CBKN, người dân địa
phương về các hoạt động khuyến nông.
Phương pháp xử lý số liệu: Xử lý qua phần mềm Excel đối với các số liệu
định lượng và xử lý các số liệu định tính.
PHẦN 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tình hình cơ bản của huyện Quảng Ninh
4.1.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Quảng Ninh
4.1.1.1. Vị trí địa lí, địa hình
Vị trí địa lí
Vị trí địa lí đóng vai trò rất quan trọng trong nhiều hoạt động sản xuất của
địa phương. Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp đến
các hoạt động này. Cụ thể là nó tác động đến quá trình sản xuất cũng như chuyển
giao tiến bộ khoa học kĩ thuật, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, sự
giao lưu với các vùng sản xuất để nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp cũng
như sự phát triển kinh tế nói chung.
Vị trí địa lí của huyện Quảng Ninh được xác định như sau:
Phía Bắc giáp thành phố Đồng Hới
Phía Nam giáp huyện Lệ Thủy
Phía Đông giáp biển đông
Phía Tây giáp dảy Trường Sơn và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Huyện Quảng Ninh có diện tích 1190,89 km
2
, dân số hơn 90.000 người, sinh
sống ở 14 xã và 1 thị trấn. Đây là nguồn lao động dồi dào để phát triển ngành
nghề ở địa phương.
Huyện Quảng Ninh có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đa dạng, 25 km bờ
biển, 35 km đường biên giáp nước Lào cùng nhiều diện tích đất rừng. Ngoài ra,
địa bàn huyện Quảng Ninh có đường quốc lộ 1A đi qua. Đây là điều kiện thuận
lợi để huyện Quảng Ninh tiếp cận với thị trường bên ngoài, trao đổi lưu thông
hàng hóa dể dàng, Quảng Ninh nhanh chóng tiếp cận với khoa học công nghệ
hiện đại. Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập và cải thiện điều kiện
sống cho người dân.
Địa hình
20

Giống như các huyện khác trong tỉnh, địa hình huyện Quảng Ninh có đặc
trưng là hẹp và dốc, nghiêng từ phía Tây sang phía Đông. Phía Tây là núi cao, kế
tiếp là vùng đồi thấp, phân bố theo kiểu bát úp, gần bờ biển có dải đồng bằng
nhỏ và hẹp. Sau cùng là những tràng cát ven biển có dạng lưỡi liềm hoặc dẻ
quạt. Địa hình như vậy đã chia huyện thành các vùng sinh thái cơ bản gồm Vùng
núi cao (xã Trường Sơn), vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven
biển (xã Hải Ninh). Nhiều vùng sinh thái khác nhau tạo điều kiện để phát triển
nhiều loại cây trồng vật nuôi khác nhau, tạo ra sự đa dạng về các hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Địa hình Quảng Ninh đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng rất
lớn đến phát triển sản xuất nông nghiệp của toàn huyện.
4.1.1.2. Điều kiện thời tiết khí hậu
Thời tiết khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Nghiên cứu tình hình thời tiết khí hậu sẽ tạo điều kiện cho việc bố trí hệ thống
cây trồng vật nuôi cho phù hợp, làm tăng hiệu quả sản xuất ngành nông nghiệp.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu tình hình thời tiết khí hậu còn góp phần phòng
chống thiên tai lũ lụt, hạn hán làm giảm nhẹ những tổn thất trong sản xuất.
Tỉnh Quảng Bình nói chung và huyện Quảng Ninh nói riêng đều nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và
phía Nam, khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm
2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11.[5]
Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24
o
C - 25
o
C. Ba
tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8.[5]
Về lượng mưa
Lượng mưa phân bố không đồng đều giữa các tháng trong năm nên vào mùa
nóng thì thiếu nước cho sản xuất trong khi đó vào mùa mưa, lượng mưa lớn đôi

khi kèm theo gió bão gây ra nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Về nhiệt độ
Nhiệt độ bình quân các tháng trong năm thể hiện như sau:
Bảng 4.1: Nhiệt độ bình quân các tháng trong năm 2010
Nhiệt độ
trung
bình/tháng
Một Hai Ba Tư Năm Sáu Bảy Tám Chín Mười M.một M.hai
Cao nhất
(°C)
22 23 25 29 32 34 34 33 31 28 26 23
Thấp nhất
(°C)
17 18 20 23 25 27 27 26 25 23 21 18
21
Nguồn: Trạm khí tượng Đồng Hới tỉnh Quảng Bình năm 2010.
Nhiệt độ bình quân hàng năm trên địa bàn huyện Quảng Ninh là dao động từ
17
o
C – 34
o
C. Qua bảng số liệu thấy được sự giao động nhiệt độ ở các tháng trong
năm là không lớn. Vào mùa mưa, nhiệt độ xuống thấp là khoảng 17
o
C, đây là
nhiệt độ không thuận lợi cho sản xuất, gây ảnh hưởng đến nhiều cây trồng trong
các vụ này. Tuy nhiên thời tiết này không kéo dài nên khả năng chống chọi của
cây trồng là có thể. Vào mùa khô, nhiệt độ cao nhất vào tháng 6, tháng 7 lên đến
34
o

C, nó không thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng, vật nuôi.
Về thủy văn
Hệ thống sông ngòi trên địa bàn huyện là tương đối nhiều trong đó có 2 con
sông lớn chảy qua địa bàn huyện là sông Long Đại và chi lưu của sông Nhật Lệ.
Đây là điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp lượng lớn nước phục vụ cho sản
xuất hằng ngày. Tận dụng ưu thế có sông chảy qua, trên địa bàn huyện đã xây
dựng hồ chứa và các trạm bơm nước là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản
xuất và sinh hoạt của người dân. Ngoài ra còn phục vụ cho nhu cầu đi lại, vận
chuyển hàng hóa của người dân. Tuy nhiên, do việc sử dụng nguồn nước chưa
hợp lí nên hệ thống thủy văn chưa được đầu tư thỏa đáng để đáp ứng được nhu
cầu sử dụng nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày và nước phục vụ trong sản
xuất cây trồng vật nuôi.
4.1.1.3. Tình hình sử dụng đất đai
Giống như các huyện khác trong tỉnh, tài nguyên đất ở huyện Quảng Ninh
được chia thành hai hệ đất chính là Đất phù sa ở vùng đồng bằng và hệ pheralit ở
vùng đồi và núi với 15 loại đất và các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất
phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Cơ cấu diện tích các loại đất đai của huyện được
thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4.2: Cơ cấu diện tích đất đai
Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010
Diện
tích(ha)

cấu(%)
Diện
tích(ha)

cấu(%)
Tổng diện
tích đất

119.169,19 100 119.169,19 100
1. Đất nông
nghiệp
- Đất sản
xuất nông
nghiệp
- Đất lâm
107.925,17
7.671,71
99.889,57
90,56
7,11
92,55
107.913,66
7.645,26
99.881,87
90,56
7,04
92,55
22
nghiệp
- Đất nuôi
trồng thủy sản
- Đất nông
nghiệp khác
353,19
10,70
0,32
0,02
375,83

10,70
0,31
0,10
2. Đất phi
nông nghiệp
- Đất ở
-Đất
chuyên dùng
- Đất tôn
giáo, tín
ngưỡng
- Đất nghĩa
địa
- Đất sông
suối, mặt nước
6.199,25
485,50
2.785,85
2,19
289,98
2.635,72
5,20
7,83
44,93
0,04
4,68
42,51
6.209,21
494,31
2.776,46

2,19
296,04
2.640,21
5,21
7,96
44,72
0,04
4,76
42,52
3. Đất chưa
sử dụng
- Đất bằng
chưa sử dụng
- Đất đồi
núi chưa sử
dụng
- Núi đá
không có cây
5.044,77
262,16
4.506,68
275,93
4,24
5,20
89,33
5.50
5.046,31
287,71
4.482,67
275,93

4,23
5,70
88,83
5,47
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Quảng Ninh năm 2010.
Qua bảng số liệu diện tích đất đai của huyện cho chúng ta những nhận xét:
Quảng Ninh là một huyện có diện tích đất lớn và đất đai được sử dụng với nhiều
mục đích khác nhau. Trong toàn bộ diện tích đất của huyện, đất ngoài việc sử
dụng đất để sinh hoạt thì đất còn sử dụng nhiều vào sản xuất nông nghiệp, đất
phi nông nghiệp và một lượng lớn đất chưa sử dụng. Qua từng năm diện tích cây
trồng vật nuôi đã có sự thay đổi. Diện tích sản xuất nông nghiệp năm 2009 là
107.925,17ha đến năm 2010 diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 107.913,66ha
tuy nhiên cơ cấu không thay đổi vẫn 90,56% trong tổng số đất sử dụng. Cơ cấu
23
cây trồng thay đổi thể hiện qua diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp đặc biệt đối với diện tích nuôi trồng thủy sản tăng lên đáng kể. Diện tích
đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng cũng có thay đổi nhưng không đáng kể.
Năm 2010, đất đai của huyện tập trung chủ yếu là đất nông nghiệp, chiếm
diện tích rất lớn so với diện tích đất toàn huyện. Diện tích đất nông nghiệp là
107.913,66ha chiếm 90,56% trong đó đất cây trồng hàng năm 7.297,14ha chiếm,
đất cây trồng lâu năm là 348,12ha. Đất lâm nghiệp chiếm diện tích đa số so với
các loại đất khác là 99.881,87ha chiếm 92,55%. Trong năm qua chính quyền
huyện đã xác định lâm nghiệp là lĩnh vực có tiềm năng lớn của huyện, do đó có
những ưu tiên về quyền bảo vệ và khai thác hợp lí nguồn tài nguyên lâm nghiệp.
Người dân ở đây thường trồng các loại rau màu, cây ngắn ngày phục vụ cho
cuộc sống hằng ngày của họ, tập trung vào việc lấy ngắn nuôi dài kết hợp với
việc trồng các cây trồng lâu năm nhưng số lượng cây lâu năm trên địa bàn huyện
là không lớn. Qua các năm đất sản xuất nông nghiệp được tăng lên đáng kể ta
thấy được xu hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng của người dân địa phương.
Bên cạnh đất được sử dụng cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, đất phi

nông nghiệp và các loại đất chưa sử dụng có diện tích đáng kể trên địa bàn
huyện. Đất phi nông nghiệp với diện tích là 6.209,21ha chiếm 5,21%, đất chưa
sử dụng có diện tích 5.046,31ha là chiếm 4,23%. Ở đây sử dụng đất với nhiều
mục đích khác nhau như đất ở, đất có mặt nước chuyên dùng, đất nghĩa địa, đất
tôn giáo tín ngưỡng, đất chuyên dùng nhưng hầu hết các loại đất sử dụng cho
các mục đích khác nhau chiếm diện tích nhỏ. Mặc dù tỷ lệ đất trong các lĩnh vực
này là thấp nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của
huyện Quảng Ninh.
Nhìn chung đất đai của toàn huyện là khá phong phú và đa dạng, diện tích
đất so với các huyện khác trong tỉnh là tương đối lớn và có sự thay đổi diện tích
đất sử dụng qua các năm phù hợp với hướng phát triển của địa phương. Nhưng
bên cạnh đó diện tích đất chưa sử dụng cũng chiếm một lượng lớn đây cũng là
một nguyên nhân hạn chế tốc độ phát triển của huyện. Vì vậy cần có những biện
pháp cụ thể để tận dụng diện tích bị bỏ hoang này, tăng thu nhập cho người dân
địa phương.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Tình hình dân số và lao động
Dân số và lao động là tài sản quyết định đến việc phát triển kinh tế của địa
phương. Nó có thể là tiềm lực cũng có thể là sự cản trở cho sự phát triển của
huyện Quảng Ninh nói riêng và của toàn tỉnh Quảng Bình nói chung. Tìm hiểu
dân số và lao động giúp nắm bắt được tình hình hiện tại, tiềm năng và xu thế
phát triển của vùng.
24
Tính đến cuối năm 2010 dân số của huyện là 90.000 người, mật độ dân số
trên địa bàn của huyện là 76 người/km
2
, tuy nhiên sự phân bố dân lại không đồng
đều, phần lớn dân cư tập trung đông đúc ở các xã vùng đồng bằng với mật độ lên
đến hàng nghìn người/km
2

như ở thị trấn Quán Hàu, trong khi đó ở các vùng đồi
núi đất đai rộng lớn thì mật độ lại rất thấp như xã Trường Xuân có mật độ dân cư
là 13 người/ km
2
, riêng đối với xã Trường Sơn mật độ dân cư chỉ 5 người/ km
2
.
Qua đó cho thấy mật độ dân cư ở vùng thấp nhất và vùng cao nhất có sự chênh
lệnh rất lớn. Nơi có diện tích đất lớn thì mật độ dân lại thấp còn nơi có diện tích
đất ít thì số người sống lại đông đúc hơn rất nhiều. Sự phân bố dân cư không
đồng đều đó dẫn đến những khó khăn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của huyện.
Về lao động: Theo số liệu của phòng thống kê huyện, sự phân bố lao động
trong các ngành nghề được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4.3: Phân bố lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế.
Lĩnh vực Số lao động (người) Cơ cấu (%)
Tổng số 70.509 100
1. Nông lâm nghiệp 48.697 69,06
2.Thủy sản 3.482 4,94
3.Công nghiệp và
xây dựng
7.247 10,28
4.Thương nghiệp và
dịch vụ
3.597 5,10
5.Các lĩnh vực khác 7.486 10,62
Nguồn: Phòng thống kê huyện Quảng Ninh năm 2010.
Qua bảng số liệu về phân công lao động trong các ngành kinh tế cho thấy
lực lượng lao động chính của huyện tập trung vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp,
lao động trong lĩnh vực này chiếm tới 69,06 %, cho thấy nông nghiệp đóng vai

trò cực kì quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Lao động trong lĩnh vực
công nghiệp và xây dựng chiếm 10,28 %, phản ảnh được tình hình phát triển
công nghiệp trên địa bàn huyện. Công nghiệp và xây dựng trên địa bàn huyện
cũng đóng vai trò quan trọng, góp phần xây dựng nền kinh tế huyện. Trong
tương lai, lao động trong lĩnh vực này sẽ có xu hướng tăng lên để đáp ứng được
xu thế phát triển chung của nền kinh tế cả nước. Thương nghiệp và dịch vụ
chiếm tỷ lệ 5,10 % số lao động, ngành nghề khác chiếm tỷ lệ 10,62 % và cũng
góp phần của mình vào việc đa dạng hóa ngành nghề ở vùng nông thôn.Nhìn
chung người dân ở các xã trong huyện hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông
nghiệp và vẫn chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngành nghề này.
25

×