Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.58 KB, 120 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là con đường phát triển tất
yếu của mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thực tiễn phát triển
ở nước ta trong những năm qua cho thấy CNH, HĐH là nhân tố quyết định
làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chuyển nền kinh tế sản xuất nông
nghiệp truyền thống sang phương thức sản xuất mới hiện đại. Trong quá trình
CNH, HĐH, tiến trình xã hội có sự thay đổi cơ bản, các khu công nghiệp và
khu đô thị mới được xây dựng, hệ thống kết cấu hạ tầng được nâng cấp và
hiện đại, nhờ đó bộ mặt kinh tế xã hội được thay đổi nhanh chóng theo hướng
hiện đại và văn minh. Đồng thời, đi liền quá trình này là sự thu hẹp khu vực
nông thôn, xã hội nông thôn chuyển dịch theo hướng xã hội công nghiệp.
Để đẩy mạnh CNH, HĐH, cần phải thực hiện việc thu hồi đất bao gồm
cả đất ở và đất nông nghiệp cho xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các cơng trình cơng cộng phục vụ lợi ích cho
tồn xã hội, dẫn đến đất cho sản xuất kinh doanh của người làm nông nghiệp
bị thu hẹp, người nông dân phải thay đổi nghề nghiệp hoặc bị mất việc làm do
đất nông nghiệp bị thu hồi.
Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách
giúp thực hiện việc thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nơng nghiệp
sang làm công nghiệp và dịch vụ; giải quyết việc làm cho các hộ nông dân
mất đất. Các địa phương cũng đã nỗ lực vận dụng quan đểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước để giải quyết vấn đề bồi thường, tái định cư, bảo đảm việc
làm, thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi.
Tuy nhiên, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp, khơng chuyển đổi
được nghề nghiệp, khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt tại nơi ở mới đối với


2



người có đất bị thu hồi vẫn cịn diễn ra ở nhiều địa phương. Tình trạng này
càng khó khăn hơn đối với bộ phận nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp. Việc
thu hồi đất của nông dân để phát triển công nghiệp và đô thị ở một số địa
phương chưa thật sự gắn liền với giải quyết việc làm, chưa tạo điều kiện để
định hướng họ vào các hoạt động sản xuất công nghiệp, dịch vụ. Điều này đã
đẩy một bộ phận nơng dân mất đất lâm vào tình trạng rất khó khăn trong đời
sống, làm nảy sinh nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội bức xúc. Mặt khác, việc
thực hiện đền bù, tái định cư, đào tạo, giải quyết việc làm cho người dân bị
thu hồi đất cịn chưa hợp lý, dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài, gây mất ổn
định xã hội. Bên cạnh đó, bản thân người dân có đất bị thu hồi cịn thụ động
trơng chờ vào Nhà nước, nên đời sống của họ vốn đã khó khăn, nay càng trở
nên khó khăn hơn. Trong khi đó, tình trạng sử dụng đất thu hồi kém hiệu quả
còn khá phổ biến, đã gây ra sự bất cơng trong xã hội làm cho tình hình an
ninh xã hội thêm phức tạp.
Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Bắc. Những năm qua, tốc độ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
tỉnh Hải Dương diễn ra rất nhanh, cùng với nó là việc thu hồi đất để phục vụ
cho quá trình CNH, HĐH của tỉnh. Việc thu hồi đất cho CNH, HĐH đã khiến
cho một bộ phận người lao động của địa phương bị thu hồi đất có nguy cơ
thất nghiệp và thiếu việc làm.
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết việc làm cho những người lao động bị
thu hồi đất nông nghiệp như thế nào để vừa đảm bảo phát triển công nghiệp,
và đô thị với tốc độ cao, vừa giải quyết tốt những vấn đề xã hội nảy sinh từ
quá trình này? Đây thực sự là một bài tốn khó đang đặt ra đối với các cấp
chính quyền địa phương trong cả nước nói chung, tỉnh Hải Dương nói riêng.
Để góp phần vào lời giải này, tôi chọn đề tài: “Giải quyết việc làm cho


3


ngƣời lao động bị thu hồi đất trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hố ở tỉnh Hải Duơng” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, chủ trương thu hồi đất nơng nghiệp cho đơ thị
hố, phát triển các khu cơng nghiệp, phục vụ lợi ích quốc gia là một chủ
trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, chủ trương
này đã được Luật hoá trong Luật Đất đai (năm 2003) và nhiều văn bản pháp
qui của Nhà nước về việc thu hồi, bồi thường và sử dụng đất thu hồi như :
- Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24-4-1998 của Chính phủ về việc
đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phịng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
- Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29-3-1999 của Chính phủ về thủ
tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng
đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.
- Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác
định giá đất và khung giá các loại đất phù hợp với thị trường làm cơ sở cho
việc tính giá trị đền bù.
- Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách dạy nghề ngắn hạn cho lao động nơng thơn, trong đó
đối tượng ưu tiên là lao động bị thu hồi đất nông nghiệp.
- Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nơng nghiệp.
v.v...
Những văn bản nêu trên của Chính phủ chính là nhằm hướng dẫn việc
thực hiện chủ trương thu hồi đất, trong đó có đất nơng nghiệp phục vụ quá
trình CNH, HĐH đất nước một cách đúng đắn, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia,



4

vừa đảm bảo lợi ích của người dân, trong đó có nơng dân là đối tượng bị thu
hồi đất.
Tuy nhiên, khi bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, việc thu hồi
đất nông nghiệp diễn ra với qui mô và tốc độ lớn hơn đã làm nảy sinh nhiều
vấn đề xã hội bức xúc, trước hết là đối với nông dân. Vấn đề này đã thu hút
được sự quan tâm khơng chỉ của các nhà hoạch định chính sách ở các cấp, mà
còn trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Dưới đây là một
số cơng trình tiêu biểu:
- “Nghiên cứu chính sách xã hội nơng thơn Việt Nam”, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Các tác giả của cơng trình này đã tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính sách xã hội nơng thơn
ở nước ta trong điều kiện đổi mới đất nước, trong đó những vấn đề xã hội
nông thôn như: dân số nông thôn và việc làm của nông dân; vấn đề di dân;
vấn đề phân hố giàu - nghèo và cơng bằng xã hội ở nông thôn; tệ nạn xã hội
và bảo trợ xã hội ở nông thôn cũng đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, cơng trình
này khơng tập trung nghiên cứu đối tượng đặc thù là nông dân bị mất đất sản
xuất. Hơn nữa, từ đó cho đến nay, cùng với tiến trình đơ thị hố và phát triển
các khu cơng nghiệp diễn ra với tốc độ ngày càng cao làm nảy sinh vấn đề
bức xúc trong giải quyết việc làm. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để tìm ra
những giải pháp cho vấn đề này vẫn đang ở phía trước.
- Cuốn: “Ảnh hưởng của đơ thị hố đến nơng thơn ngoại thành Hà Nội
- Thực trạng và giải pháp”- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
của tập thể các tác giả trường Đại học Kinh tế quốc dân.
- Cuốn: “Việc làm của nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố” do TS. Bùi Thị Ngọc Lan làm chủ biên
- Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2007 đã tập trung nghiên cứu vấn đề lao
động việc làm của nông dân vùng đồng bằng sông Hồng. Trong cuốn sách



5

này, những đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hoá, lối sống
đặc trưng... của vùng đồng bằng sông Hồng đã được phác họa rõ nét. Do vậy,
ở đề tài tiếp theo này chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề xã hội
nảy sinh đặt ra đối với một bộ phận nông dân đặc thù của vùng đồng bằng
sơng Hồng - đó là những nông dân bị thu hồi đất.
- Gần đây, cuốn: “Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu
hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã
hội, các cơng trình cơng cộng phục vụ lợi ích quốc gia” do GS,TSKH, Lê Du
Phong chủ biên - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007 đã có những
điều tra khá công phu về đời sống, việc làm của người dân bị thu hồi đất. Đây
là cơng trình nghiên cứu có giá trị và rất gần với đề tài mà học viên nghiên
cứu. Do vậy, đây là tài liệu quý mà tác giả luận văn sẽ tham khảo và kế thừa
trong quá trình thực hiện đề tài. Song, phạm vi nghiên cứu của các tác giả
thuộc đề tài này khá rộng (ở một số tỉnh chọn mẫu trải dài trên phạm vi cả
nước), mặt khác đối tượng nghiên cứu là người dân bị thu hồi đất nói chung.
Do vậy, đề tài mà học viên nghiên cứu không trùng lặp với cơng trình này.
Đồng thời, từ các khía cạnh khác nhau, nhiều tác giả cũng đã tập trung
nghiên cứu vấn đề đất sản xuất của nông dân trong điều kiện mới và đề xuất
những giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh do đô thị hố,
cơng nghiệp hố, hiện đại hố mang lại như:
“Giải quyết một số vấn đề xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta” của TS. Lưu Đạt Thuyết - Tạp chí
Lý luận chính trị, số 11/2004;
“Vấn đề đất đai và vấn đề đất sản xuất của nông dân” của tác giả Vũ
Ngọc Kỳ – Tạp chí Cộng sản, số 5 (3/2005):



6

“Đơ thị hố, cơng nghiệp hố, hiện đại hố với việc bảo đảm điều kiện
sống và làm việc của người lao động” của TS. Nguyễn Hữu Dũng - Tạp chí
Lý luận chính trị, số 11/2005.
Hơn nữa, vấn đề nơng dân mất đất sản xuất, thất nghiệp hay việc làm
không ổn định... do bị thu hồi đất cũng là đề tài được nhiều phương tiện thông
tin đại chúng đề cập đến trong những năm gần đây.
Kết quả nghiên cứu của các cơng trình trên là nguồn tư liệu tham khảo
q báu đối với tác giả luận văn.
Như vậy, cho đến nay chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu
một cách cụ thể và có hệ thống về vấn đề việc làm của người có đất bị thu hồi
trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Hải Dương. Do vậy, đề tài luận văn mà học
viên lựa chọn để nghiên cứu khơng trùng lắp với các cơng trình và bài viết đã
được cơng bố.
3. Mục tiêu của đề tài:
Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động
bị thu hồi đất trong quá trỡnh CNH, HĐH ở tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở đó,
đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho
người lao động bị thu hồi đất trong quá trỡnh CNH, HĐH ở tỉnh trong thời
gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá tình hình về việc làm, giải quyết
việc làm cho người lao động có đất bị thu hồi trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, phức tạp và
mới, nên đề tài nghiên cứu chỉ tập trung vào vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động bị thu hồi đất ở các khu và cụm cơng nghiệp trong tỉnh. Trong q
trình nghiên cứu, tác giả tiến hành lựa chọn một số điểm mang tính đại diện



7

trên địa bàn tỉnh Hải Dương chứ không tổng hợp một cách đầy đủ vần đề này
trên phạm vi toàn tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài hướng vào nghiên cứu tình hình việc làm, giải quyết việc làm
cho người lao động có đất bị thu hồi trên một số khu công nghiệp tập trung
của tỉnh Hải Dương, và sự đô thị hóa của thành phố Hải Dương từ năm 2001
đến nay - đây là thời kỳ CNH, HĐH diễn ra khá nhanh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối và chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động có đất
bị thu hồi phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp hệ thống hóa lý luận thực tiễn,
phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, so sánh, phân tích tổng hợp tình hình
thực tiễn diễn ra trong quá trình giải quyết việc làm cho người lao động có đất
bị thu hồi ở tỉnh Hải Dương.
6. Những đóng góp khoa học của đề tài
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận - thực tiễn về việc làm và giải
quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trong q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
Phân tích và đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao
động bị thu hồi đất ở tỉnh Hải Dương từ năm 2001 đến nay.


8


Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn về vấn đề
giải quyết việc làm, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động bị thu hồi đất
ở tỉnh Hải Dương có thu nhập tốt hơn trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương.

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT TRONG
Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ SỰ CẦN THIẾT GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT TRONG Q
TRÌNH CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1.1. Việc làm và sự cần thiết giải quyết việc làm cho ngƣời lao
động
1.1.1.1. Việc làm
Việc làm là một dạng hoạt động kinh tế - xó hội. Hoạt động đó không
đơn thuần là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất, mà nó cũn bao gồm
cả những yếu tố xó hội. Muốn sự kết hợp đó diễn ra và không ngừng phát
triển, phải tạo ra được sự phù hợp cả về số lượng, chất lượng sức lao động với
tư liệu sản xuất, trong một môi trường kinh tế - xó hội thuận lợi, đảm bảo cho
hoạt động đó diễn ra.


9

Theo cỏch hiểu này, việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp

giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, cộng
nghệ...) để sử dụng sức lao động đó.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí
ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và chi phí về
sức lao động (V). Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù
hợp với trình độ cơng nghệ của sản xuất hiện có. Khi trình độ kỹ thuật, cơng
nghệ thay đổi, thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo. Khi nền kinh tế được phát
triển theo hướng hiện đại, thì quan hệ gữa lao động và tư liệu sản xuất được
chuyển dịch theo hướng công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử
dụng nhiều sức lao động sang công nghệ chất lượng cao và lao động có trình
độ chun mơn kỹ thuật cao. Chẳng hạn trong điều kiện kỹ thuật thủ công,
một đơn vị chi phí ban đầu về tư liệu sản xuất có thể kết hợp với nhiều đơn vị
sức lao động, còn trong điều kiện tự động hóa, sản xuất theo dây truyền hiện
đại thì chi phí về vốn thiết bị cơng nghệ rất cao nhưng chỉ đòi hỏi sức lao
động tỷ lệ rất thấp. Do đó, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án
phù hợp để giải quyết việc làm cho người lao động. Trong điều kiện của tiến
bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ
vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỷ lệ giữa C và V thường xuyên
biến đổi theo các dạng khác nhau.
- Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi
người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ xét
trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động khi có việc làm thì việc làm
đó là việc làm đầy đủ; còn trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này
cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động
ta có khái niệm việc làm hợp lý.


10

- Sự khơng phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến

thiếu nguồn nhân lực hoặc thừa nguồn nhân lực, tức là thiếu việc làm và thất
nghiệp.
Điều 13 chương II “Việc làm” của Bộ luật Lao động Việt Nam có nêu:
“ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm”. Theo đó, một hoạt động được coi là việc làm,
cần thoả mãn hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn
mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
Hai là, hoạt động đó khơng bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp
lý của việc làm. Hoạt động có ích khơng giới hạn về phạm vi, ngành nghề và
hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong
quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Người lao động hợp pháp ngày nay
được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm trong mọi thành
phần kinh tế.
Hai tiêu thức trên có mối quan hệ chặt chẽ nhau là điều kiện cần và đủ
của một hoạt động được thừa nhận là có việc làm.
Ta có thể tham khảo khái niệm việc làm do Tổ chức Lao động quốc tế
của Liên hợp quốc (ILO) đưa ra như sau: “Việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật”.
Từ các quan niệm trên, có thể hiểu việc làm là phạm trù để chỉ trạng
thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản
xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó. Dựa vào khái niệm này, ta có
thể giải thích các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm.
Ngược với có việc làm là tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp.
Thiếu việc làm (còn gọi là bán thất nghiệp), là tình trạng trong xã hội có


11


những người làm việc ít hơn mức mà mình mong muốn. Nó được biểu hiện
dưới hai dạng: hoặc là người lao động khơng có đủ việc làm theo thời gian
quy định trong tuần, trong tháng, hoặc làm những công việc có thu nhập q
thấp khơng đảm bảo cuộc sống cần thiết, nên muốn làm thêm việc để có thu
nhập.
Thất nghiệp là tình trạng của những người có khả năng lao động bị mất
việc làm hoặc muốn đi làm nhưng không tìm được việc làm. Đây là hiện
tượng bị tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Thất nghiệp và thiếu việc làm là những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc
đối với nhiều nước hiện nay, nhất là đối với các nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam.
1.1.1.2. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động có
đất bị thu hồi trong quá trình CNH, HĐH
- Thu hồi đất nơng nghiệp chuyển sang đất công nghiệp và đô thị là
một tất yếu
Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi q trình sản
xuất. Nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất của xã hội nhưng tuỳ thuộc vào
từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất đai khơng chỉ tham gia với tư cách là yếu tố
thơng thường mà là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu, là đối tượng chủ
yếu không thể thiếu, không thể thay thế được.
Đất bị giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất là vơ hạn. Mỗi
vùng, miền có giới hạn diện tích đất khác nhau và tỷ lệ đất cho quá trình cơng
nghiệp hố ở mỗi vùng lại càng khác biệt nhau vì nó cịn tuỳ thuộc vào điều
kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kỹ thuật, lợi thế của từng vùng. Do
vậy, tại các địa phương kinh tế phát triển mạnh đất đai ngày càng trở thành
nguồn lực quý hiếm, có giá trị rất lớn đối với mọi nền kinh tế.


12


Đất đai bị bị giới hạn bởi diện tích, trong khi đó q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hố phát triển như hiện nay thì đất đai ngày càng trở lên quý
hiếm và có giá trị cao trong nền kinh tế.
Trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân, việc thu hồi đất,
chuyển một bộ phận đất nông nghiệp sang đất làm công nghiệp, dịch vụ, xây
dựng kết cấu hạ tầng và đơ thị hóa là một tất yếu.
Cơng nghiệp hố hiện đại hóa là một tất yếu khách quan, luôn gắn liền
với xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới,
xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, và cũng có nghĩa là việc thu hồi
đất ngày càng tăng. Trong q trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất để triển khai các dự án lớn của nền
kinh tế mang tính quy luật. Đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng ở nước
ta góp phần phát triển mạnh nền kinh tế quốc dân.
Nhờ có thu hồi đất, cả nước đã xây dựng được hơn 131 khu công
nghiệp, thu hút được hàng trăm dự án đầu tư lớn. Vốn đăng ký đầu tư trực
tiếp nước ngoài đến năm 2006 đạt 78.248,2 triệu USD ( vốn thực hiện
37.271,7 triệu USD); đầu tư ở khu vực dân doanh, giá trị thực tế năm 2006
đạt 150.500 tỉ đồng. Nước ta đã nâng cấp và xây dựng mới được hệ thống kết
cấu hạ tầng ngày càng hiện đại hơn. Một số thành phố lớn được nâng cấp mở
rộng nhanh, nhiều thị xã được mở rộng nâng cấp lên thành phố, hình thành
một hệ thống các đô thị trung tâm và đô thị vệ tinh, từng bước thực hiện tốt
mục tiêu chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Kinh tế phát
triển đã tạo điều kiện thu hút, giải quyết việc làm ổn định cho hàng triệu lao
động với mức thu nhập khá, số lao động làm việc trong các khu công
nghiệp không ngừng tăng.
Việc thu hồi đất đã tạo sự phát triển các khu công nghiệp trong thời
gian qua đã tạo ra những bước đột phá trong phát triển cơng nghiệp nói



13

riêng và trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Cơng nghiệp hố, hiện
đại hố góp phần rất quan trọng vào việc đổi mới kỹ thuật và công nghệ
sản xuất kinh doanh của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc
dân, cũng như đào tạo cho đất nước một đội ngũ lao động có trình độ lao
động cao, có tác phong làm việc hiện đại. Cơng nghiệp hố, hiện đại hóa có
tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa
phương, đa dạng hố nghành nghề, nâng cao trình độ cơng nghệ và khả
năng cạnh tranh sản phẩm, góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chung của cả nước.
Việc thu hồi đất để xây dựng các khu cơng nghiệp đã góp phần quan
trọng vào việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính
sách xã hội. Trong thời kỳ 2001-2006 các khu cơng nghiệp, khu chế xuất
đã thu hút thêm đựơc khoảng 865.000 lao động trực tiếp, ước tính lượng
lao động gián tiếp khoảng 1,5 triệu người.
Tuy nhiên, việc thu hồi đất cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hóa tập trung phần lớn vào đất canh tác nông nghiệp và vùng đông dân cư,
tập trung vào một số xã ven đô thị. Tính chung, đất nơng nghiệp bị thu hồi
chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất nơng nghiệp khoảng 2-4%
(theo Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn) nhưng tình trạng khó khăn
về việc làm của người lao động bị thu hồi đất cũng phát sinh từ đây, người
lao động thiếu tư liệu sản xuất (đất canh tác) do đó khơng có việc làm, diện
tích đất nơng nghiệp và đất thổ cư ở nhiều vùng nơng thơn có xu hướng
giảm sút đáng kể, các hoạt động sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp lại và mất
đi do chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nơng nghiệp sang cơng nghiệp
thay vào đó là các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp. Sự thu hồi đất là
một yếu tố quan trọng tác động đến cơ cấu nghề nghiệp của người nông
dân tại địa phương, thu hồi đất đã đẩy hàng vạn người lao động lâm vào



14

cảnh khơng có việc làm. Như vậy, vấn đề giải quyết việc làm của những
người có đất bị thu hồi vẫn là vấn đề nóng bỏng tác động sâu sắc đến sự sự
phát triển bền vững của nền kinh tế.
- Nhu cầu giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi
Việc thu hồi đất cho CNH, HĐH có tác động rất lớn đến vấn đề việc
làm đối với người dân bị thu hồi đất. Chỉ tính riêng trong thời gian 5 năm
2003-2008 việc thu hồi đất đã tác động đến đời sống của hơn 627 ngàn hộ
gia đình với khoảng 2,5 triệu lao động. Mặc dù quá trình thu hồi đất, Nhà
nước và các địa phương đã ban hành nhiều chính sách cụ thể đối với người
dân như: bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề,
hỗ trợ tái định cư ... Tuy nhiên, trên thực tế có tới 67% số lao động nơng
nghiệp vẫn giữ nguyên nghề cũ sau khi bị thu hồi đất, 13% chuyển sang
nghề mới và có tới 25-30% số lao động khơng có việc làm hoặc có việc
làm khơng ổn định. Thực trạng này cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả
53% số hộ hộ nông dân bị thu hồi đất có mức thu nhập giảm, chỉ có 13% số
hộ có thu nhập tăng hơn trước. Trung bình mỗi hộ bị thu hồi đất có 1,5 lao
động rơi vào tình trạng khơng có việc làm và mỗi ha đất nnơng nghiệp bị
thu hồi có tới 13 lao động mất việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong
số những người có việc làm thì số người có cơng việc gắn với q trình
cơng nghiệp hóa tăng rất ít (khoảng 27%), trong khi làm thuê và nghề tự do
tăng 3,64%, buôn bán nhỏ tăng 2,72%. Hơn nữa tình trạng việc làm cũng
khơng mấy khả quan, trong số những người có việc làm có nơi có đến gần
50% là khơng có việc làm thường xuyên nhất là các tỉnh đồng bằng sông
Hồng như: Hải Dương 54,4%, Hà Nội 46,8%, Bắc Ninh 45,1%, Hà Tây
40,7% ... Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp, và bán thất nghiệp của
người lao động bị thu hồi đất một phần là do sự phát triển của các ngành
công nghiệp và thương mại dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu việc làm cho



15

người lao động. Bên cạnh đó bản thân người lao động vốn xuất phát từ
nơng dân có nhiều hạn chế về năng lực và tình độ văn hóa cũng như trình
độ chun mơn nghề nghiệp, chưa hình thành được tác phong lao động
công nghiệp, nên không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Đây cũng chính là nguyên nhân người lao động không được tuyển dụng
vào làm việc tại các doanh nghiệp mặc dù đất của họ bị thu hồi để hình
thành nên các doanh nghiệp đó, khơng ít người lao động sau một thời gian
được nhận vào làm việc tại các Nhà máy, doanh nghiệp do không đáp ứng
được các yêu cầu công việc nên buộc phải thơi việc và lại rơi vào tình
trạng thất nghiệp. Mặt khác, việc chuyển đổi nghề nghiệp của người lao
động bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn, đa phần họ khơng được đào tạo về
chun mơn, trình độ học vấn, tay nghề thấp. Theo kết quả điều tra của
Trường Đại học kinh tế quốc dân cho thấy tại 8 tỉnh về những người bị thu
hồi đất thì số người khơng có trình độ chun mơn là 73,7%, số người có
trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp là 17,01%, số người được học nghề
là 3,96%, trình độ khác là 5,28%. Cũng theo kết quả điều tra cho thấy có
tới 73% những người lao động có đất bị thu hồi chưa được đào tạo dưới bất
kỳ hình thức nào, nghề nghiệp của người lao động bị thu hồi đất chủ yếu là
những nghề làm nông nghiệp, buôn bán nhỏ, lao động xây dựng, tự do.
Việc thu hồi đất cho quá trình cơng nghiệp hố tất yếu sẽ có sự chuyển
dịch cơ cấu lao động, đây là xu hướng tất yếu, phù hợp với sự phát triển
trong q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, tuy nhiên số người thất
nghiệp tăng lên là con số đáng lo ngại. Trong số những người có việc làm
thì số người có việc làm gắn với cơng nghiệp hóa rất ít. Do đó, có thể thấy
việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra không phù hợp với xu thế phát
triển chung, tỷ lệ quay trở lại về làm nơng nghiệp vẫn cịn khá lớn, tỷ lệ

các nghề khơng cơ bản, ít đào tạo vẫn cịn cao. Nói cách khác, nguồn lực


16

đất đai đã chuyển theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, song nguồn
lực lao động chưa theo kịp xu hướng đó. Hơn nữa, từ phía quản lý nhà
nước, ở nhiều địa phương kế hoạch thu hồi đất dường như khơng gắn gì
với kế hoạch đào tạo nghề cho người lao động bị mất đất. Nhà nước mới
chỉ có chính sách hỗ trợ tiền cho chuyển đổi nghề nghiệp, trong khi đó học
nghề gì, học ở đâu, học bao lâu, học rồi có tìm được việc làm hay khơng là
việc người dân tự lo. Trên thực tế có nhiều người lao động bị thu hồi đất đã
tự bỏ kinh phí ra để đi học nghề song số được tuyển dụng rất hạn chế so
với số tự đi học nghề.
1.1.2. Giải quyết việc làm
1.1.2.1. Một số lý thuyết về giải quyết việc làm
Việc làm phản ánh trạng thái của nền kinh tế. Nó khơng chỉ là vấn đề
quan tâm của người lao động và người sử dụng lao động, mà còn là vấn đề
kinh tế - xã hội cần có sự quan tâm của Nhà nước. Lịch sử các học thuyết
kinh tế từ trước tới nay đã có một số nhận thức và giải pháp cho vấn đề việc
làm. Dưới đây là một số lý thuyết chủ yếu.
- Trường phái Tân cổ điển: Trường phái này đưa ra mơ hình tập trung
vào mối quan hệ giữa tích luỹ vốn, phát triển công nghiệp và tạo việc làm.
Theo mụ hỡnh này, muốn tăng trưởng kinh tế phải có tích luỹ, để từ đó có
vốn đầu tư mở rộng tái sản xuất, tạo mở nhiều việc làm. Đối với các nước
đang phát triển do thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ tích luỹ thấp,
dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, các nước
này cần phải dựa vào lợi thế so sánh của mỡnh là tài nguyờn thiờn nhiờn và
nguồn nhõn lực dồi dào để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài (hiểu theo nghĩa
rộng, vốn đầu tư bao gồm cả vốn bằng ngoại tệ, thiết bị, phương tiện kỹ thuật,

công nghệ, tri thức quản lý kinh tế hiện đại), từ đó sẽ tạo mở được nhiều việc
làm. Theo mô hỡnh này, tốc độ và quy mô của vốn đầu tư tăng sẽ thúc đẩy


17

trực tiếp tốc độ và quy mô của việc thu hút nguồn nhân lực vào hoạt động
kinh tế (tạo việc làm).
Tăng trưởng kinh tế là kết quả tổng hợp của tích luỹ vốn (mức tiết
kiệm) và năng suất lao động (tỷ lệ vốn /sản lượng). Do đó, với một tỷ lệ tổng
vốn/sản lượng nhất định, tốc độ tăng sản lượng quốc dân và việc làm có thể
tối đa hố bằng cách tối đa hóa mức tiết kiệm và đầu tư. Với mức năng suất
nhất định, tăng cường tích luỹ vốn, mở rộng đầu tư tăng sản lượng công
nghiệp nhanh sẽ tạo ra được nhiều việc làm hơn. Theo mơ hình này thì muốn
tăng trưởng kinh tế thì phải tích lũy, để từ đó có vốn đầu tư mở rộng tái sản
xuất tạo nhiều việc làm.
Tuy vậy, bằng kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều nước chậm phát triển có
tốc độ tăng sản lượng công nghiệp tương đối cao, nhưng tốc độ tăng việc làm
lại tụt hậu khá xa, trong một số trường hợp thậm chí việc làm khơng tăng.
Ngun nhân cơ bản là năng suất lao động tăng tức tiết kiệm hao phí lao động
để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm đã làm cho tổng sản lượng sản xuất ra
tăng lên nhưng không cần bổ sung thêm lao động, kết quả là việc làm mới
không được tạo ra.
- Mô hình lý thuyết tạo việc làm bằng di chuyển lao động giữa hai khu
vực. Đây là mơ hình phát triển của Lewis. Trong mơ hình này, Lewis đề nghị
phải tạo việc làm bằng cách di chuyển lao động giữa hai khu vực cơng nghiệp
và nơng nghiệp. Ơng đưa ra lý thuyết này (năm 1954) nhằm giải thích sự dịch
chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp ở một số nước vừa mới
cơng nghiệp hóa. Tác giả cho rằng một nền kinh tế kém phát triển bao gồm
hai khu vực: một là khu vực nông nghiệp tự cung tự cấp truyền thống, lao

động dư thừa, có năng suất rất thấp, hai là khu vực cơng nghiệp thành thị hiện
đại có năng suất cao mà lao động khu vực nông nghiệp có xu hướng chuyển
dần sang. Vì vậy, việc di chuyển này sẽ có tác dụng chuyển bớt được lao


18

động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, chỉ để lại số lao động đủ để tạo ra sản
lượng cố định, tư đó nâng cao sản lượng lao động bình qn đầu người; đồng
thời việc di chuyển này còn tạo việc làm cho số lao động dư thừa trong nông
nghiệp, tăng thu nhập, tăng lợi nhuận cơng nghiệp, từ đó giúp tăng trưởng
kinh tế.
- Lý thuyết của Harry Toshima
Theo Harry Toshima, lý thuyết của Athur Lewis khụng cú ý nghĩa thực
tế với tỡnh trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp ở các nước châu Á gió
mùa… Bởi vỡ, nền nụng nghiệp lỳa nước vẫn thiếu lao động lúc mùa vụ và
chỉ dư thừa lao động lúc mùa nhàn rỗi. Vỡ vậy, ông cho rằng cần giữ lại lao
động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng nhàn rỗi bằng
cách đa dạng hóa cây trồng vật ni, thâm canh, tăng vụ… Đồng thời, cần
phát triển các ngành công nghiệp cần nhiều lao động để sử dụng số lao động
nhàn rỗi trong nơng nghiệp. Bằng cách đó, lực lượng lao động sẽ được sử
dụng hết.
- Lý thuyết tạo việc làm bằng di chuyển lao động của Torado.
Lý thuyết của Torado nghiờn cứu sự di chuyển lao động trên cơ sở thực
hiện điều tiết thu nhập, tiền lương giữa các khu vực kinh tế. Theo Torado, lao
động nơng thơn có thu nhập thấp. Họ quyết định di chuyển ra khu vực thành
thị để có thu nhập cao hơn. Quá trỡnh này mang tớnh tự phỏt, phụ thuộc vào
sự lựa chọn, quyết định của các cá nhân. Vỡ thế, làm cho cung - cầu về lao
động ở từng vùng không ổn định, gây khó khăn cho Chính phủ trong quản lý
lao động và nhõn khẩu.

Cỏc lý thuyết về giải quyết việc làm nờu trờn đều tập trung luận giải
các biện pháp nhằm tạo mở việc làm. Mặc dù các lý thuyết đó chưa làm rừ vai
trũ của Chớnh phủ trong việc kết hợp cỏc chớnh sỏch kinh tế với cỏc chớnh
sỏch xó hội để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với chuyển dịch cơ


19

cấu kinh tế, tạo nhiều việc làm, song nó có tác dụng gợi mở cho chúng ta
những cách thức, biện pháp để tạo nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp
khi bị thu hồi đất cho phát triển công nghiệp và đô thị.
1.1.2.2. Nội dung giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm chính là tạo ra các cơ hội để người lao động có việc
làm và tăng thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình và xã hội.
Giải quyết việc làm chính là quỏ trỡnh: (1) Tạo ra số lượng và chất
lượng tư liệu sản xuất, mà số lượng và chất lượng của tư liệu sản xuất phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, vốn đầu tư, tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng
trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó;
(2) Tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng sức lao động phụ
thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự
di chuyển của lao động; chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển của
giáo dục - đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khỏe cộng đồng; và
(3) Tạo ra những điều kiện kinh tế - xó hội khỏc như các chính sách của Nhà
nước, các giải pháp để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, các giải pháp để
duy trỡ việc làm ổn định và đạt hiệu quả cao…
Cú thể mụ hỡnh húa quy mụ tạo việc làm theo phương trỡnh sau:
Y = f (C,V,X…)
Trong đó: Y là số lượng việc làm được tạo ra
C là vốn đầu tư
V là sức lao động

X là thị trường tiêu thụ sản phẩm…
Trong đó, quan trọng nhất là các yếu tố vốn đầu tư và sức lao động. Hai
yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa
C và V phụ thuộc vào tỡnh trạng cụng nghệ.


20

Tuy nhiờn, sự tồn tại hai yếu tố C và V dưới dạng là những khả năng.
Để chuyển hóa khả năng đó thành hiện thực đũi hỏi những điều kiện nhất
định. Đó là những điều kiện kinh tế - xó hội, thụng qua hệ thống cỏc chớnh
sỏch của Nhà nước như chính sách thu hút người lao động, qua việc ký kết
hợp đồng tập thể và thoả ước lao động tập thể, quy định điều kiện và an toàn
lao động… Thực tế trong những năm qua chúng ta chưa điều tiết sự phân bổ
các nguồn lực trong xó hội.
Giải quyết việc làm cần phải được xem xét cả từ ba phía: người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước. Vỡ vậy, giải quyết việc làm theo nghĩa
rộng là tổng thể những biện phỏp, chớnh sỏch kinh tế - xó hội của Nhà nước,
cộng đồng và bản thân người lao động tác động đến mọi mặt của đời sống xó hội
tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động có việc
làm. Giải quyết việc làm theo nghĩa hẹp là các biện pháp chủ yếu hướng vào đối
tượng thất nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ việc làm cho người lao động,
duy trỡ tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp.
Tại sao phải giải quyết việc làm?
Do nhiều lý do khác nhau, nên số lượng việc làm bị hạn chế. Trong xã
hội, thường có số lượng nhất định người khơng có việc làm. Điều này gây ảnh
hưởng tiêu cực không chỉ đến bản thân người lao động khơng có việc làm, mà
cịn tác động rất lớn đến xã hội. Những người khơng có việc làm khơng
những khơng có đóng góp của cải cho xã hội, mà ngược lại, xã hội phải trợ
cấp vật chất cho họ. Tình trạng khơng có việc làm cịn tạo ra sự căng thẳng về

mặt xã hội, đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm nảy sinh các tệ
nạn xã hội. Chính vì vậy, giải quyết việc làm là một nhiệm vụ quan trọng
không chỉ của các cơ quan quản lý kinh tế, quản lý xã hội, mà còn của từng
thành viên trong xã hội. Do vậy, giải quyết việc làm địi hỏi phải có sự phối



×