TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------***----------
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI:
HỘI NGHỊ PARIS (1973) VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH,
LẬP LẠI HỊA BÌNH Ở VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC CHO NGOẠI
GIAO VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
Phần I. Bối cảnh lịch sử, diễn biến của hội nghị Paris..................................... 2
1.1. Bối cảnh lịch sử của hội nghị Paris..................................................... 2
1.1.1. Bối cảnh quốc tế......................................................................... 2
1.1.2. Bối cảnh trong nước...................................................................2
1.2. Diễn biến của hội nghị Paris................................................................ 3
1.2.1. Các bên tham gia đàm phán hội nghị Paris và lập trường của mỗi
bên.................................................................................................................3
1.2.2. Nội dung cơ bản của hội nghị Paris..........................................5
1.2.3. Quá trình đàm phán hội nghị Paris...........................................6
Phần II. Kết quả, ý nghĩa của hội nghị Paris.................................................... 9
2.1. Kết quả của hội nghị Paris...................................................................9
2.2. Ý nghĩa của hội nghị Paris...................................................................9
Phần III. Vận dụng bài học kinh nghiệm của Hội nghị Paris với ngoại giao
Việt Nam hiện nay..............................................................................................11
3.1. Các chiến thuật, chiến lược sử dụng trong cuộc đàm phán tại hội
nghị Paris....................................................................................................11
3.2. Bài học cho ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn hiện nay............12
KẾT LUẬN.........................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................16
LỜI MỞ ĐẦU
Đàm phán Hiệp định Paris là cuộc đàm phán lâu dài nhất, quyết liệt nhất
và cũng là cuộc đàm phán giành thắng lợi vẻ vang nhất trong lịch sử ngoại giao
Việt Nam. Cuộc chiến ngoại giao này là cuộc đối đầu giữa hai nền ngoại giao,
một bên là nền ngoại giao lão luyện của một siêu cường hàng đầu thế giới; một
bên là nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Hai lực lượng
tưởng như không cân sức, vậy mà các nhà ngoại giao Việt Nam, bằng những
chiến thuật, chiến lược linh hoạt, khôn khéo, nhưng vẫn rất kiên cường, quyết
liệt, đã giành thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao trước đế quốc Mỹ.
Ngày nay, tình hình quốc tế và trong nước đã có nhiều thay đổi, song
những bài học về đường lối đối ngoại và nghệ thuật đàm phán Hội nghị Paris vẫn
còn giữ nguyên giá trị thực tiễn, là bài học kinh nghiệm cho những nhà ngoại
giao khi bước vào bàn đàm phán. Trong xu thế vừa hợp tác, vừa đấu tranh của
thế giới hiện nay, rất cần thiết tiếp tục vận dụng những bài học ngoại giao này
một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều kiện, hồn
cảnh mới, với lợi ích và đặc thù của nước mình để phát triển đất nước, tham gia
hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài tiểu luận “Hội
nghị Paris (1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lời hịa bình ở Việt Nam và bài
học cho ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Nhóm chúng em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới giảng viên hướng dẫn, ThS
Nguyễn Thị Tố Uyên đã giúp đỡ chúng em nhiệt tình trong q trình hồn thành bài
tiểu luận. Bài tiểu luận này là thành quả của quá trình học tập và nỗ lực của tất cả
chúng em. Do những hạn chế về thời gian, tài liệu cũng như trình độ và khả năng
nên trong q trình thực hiện chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm
chúng em rất mong nhận được sự thơng cảm, góp ý chân thành của cơ và các bạn để
tiểu luận được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
1
NỘI DUNG
Phần I. Bối cảnh lịch sử, diễn biến của hội nghị Paris
1.1. Bối cảnh lịch sử của hội nghị Paris
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Tình hình thế giới trước ngày diễn ra cuộc hội đàm chính thức giữa ta và
Mỹ hết sức phức tạp. Đó là thời kỳ sự đối đầu giữa 2 hệ thống xã hội trên thế
giới, đại diện là Liên Xô và Mỹ diễn ra rất sâu sắc và toàn diện. Thời điểm này,
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển lớn mạnh, tích cực giúp
đỡ phong trào cách mạng thế giới, trong đó, có cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như nội bộ các nước xã hội chủ
nghĩa lại xuất hiện những bất đồng. Kẻ thù của nhân dân Việt Nam - đế quốc Mỹ
có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh nhất khối tư bản chủ nghĩa nhưng những
mâu thuẫn trong hệ thống các nước đế quốc ngày càng sâu sắc cũng không cho
phép Mỹ tùy ý mở rộng chiến tranh với bất cứ quy mơ nào.
Bên cạnh đó, nhân dân u chuộng hịa bình trên thế giới nói chung và ở
các nước đế quốc nói riêng lo ngại chiến tranh thế giới có thể nổ ra và đã ủng hộ
mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược
thông qua dư luận. Đồng thời, họ mong muốn Việt Nam ngồi vào bàn thương
lượng để giải quyết chiến tranh Việt Nam bằng phương pháp hòa bình.
1.1.2. Bối cảnh trong nước
Cuối năm 1964, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ được triển
khai đến mức cao nhất đã hoàn toàn bị phá sản. Để cứu vãn cơ đồ chủ nghĩa thực
dân mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gịn, đầu năm 1965, chính
quyền của Tổng thống L. Giơnxơn quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh
cục bộ” ở miền Nam, đưa quân chiến đấu Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ vào
trực tiếp tham chiến. Đồng thời, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng
không quân và hải quân đánh phá miền Bắc làm suy yếu và ngăn chặn sự chi viện
2
của miền Bắc cho cách mạng miền Nam. Ba năm 1965, 1966, 1967 là thời gian
Mỹ điên cuồng leo thang chiến tranh.
Trước tình hình chiến tranh lan rộng cả nước, Hội nghị lần thứ 11 (3/1956)
và Hội nghị lần thứ 12 (12/1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phát
động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi cả nước và hạ quyết
tâm kiên quyết đánh bại chiến tranh xâm lược, tiến tới thực hiện hịa bình thống
nhất nước nhà. Ngoài ra, ta cũng đề ra những điều cơ bản làm cơ sở cho đàm
phán, đó là lập trường 5 điểm (22/3/1965) của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam và tuyên bố 4 điểm (8/4/1965) của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
cộng hịa. Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1965
đến năm 1968 cũng nhấn mạnh đến vị trí quan trọng của đấu tranh ngoại giao
trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; đồng thời chủ trương mở đường cho địch
vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta.
Đến cuối năm 1967, “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ được đẩy đến đỉnh cao
nhưng vẫn không thể thực hiện được các mục tiêu chính trị và quân sự đã đề ra.
Mặt khác, thất bại ở Việt Nam làm cho tình hình nước Mỹ ngày càng bất ổn,
phong trào đấu tranh phản đối chiến tranh, đòi quân Mỹ rút về nước lan rộng
trong các tầng lớp nhân dân. Lúc này, trận đánh có tính bước ngoặt, cuộc tiến
cơng và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã được phát động trên toàn miền Nam,
quân và dân đồng loạt tiến công và tiêu diệt lượng lớn quân địch cũng như các
cơ quan đầu não của địch. Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 cùng thắng
lợi của nhân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại đã đánh thẳng vào ý chí
xâm lược của Mỹ. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” phá sản, Mỹ buộc phải chấp
nhận đàm phán với Việt Nam tại Hội nghị Pari (Pháp) từ ngày 13/5/1968.
1.2. Diễn biến của hội nghị Paris
1.2.1. Các bên tham gia đàm phán hội nghị Paris và lập trường của mỗi bên
Từ tháng 5 – tháng 10/1968, hiệp định Paris có sự tham gia của hai bên là
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ. Tuy nhiên, từ tháng 11/ 1968 – 27/1/1973,
3
hiệp định Paris đã có sự góp mặt của bốn bên: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (từ 12/6/1969 là Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam); Mỹ và Việt Nam Cộng hòa.
Trong suốt gần 5 năm cuộc đàm phán được diễn ra tại thủ đô Paris của Pháp,
trải qua 2 giai đoạn, từ đàm pháp 2 bên (5 - 10/1968) đến đàm phán 4 bên (11/1968
- 27/1/1973), ta cuối cùng cũng buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, và chấm
dứt cuộc đấu tranh chính trị trường kỳ này. Ngày 27/1/1973 với sự tham dự của
đại diện 4 bên bao gồm:
- Ông Nguyễn Duy Trinh (đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
- Bà Nguyễn Thị Bình (đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa
miền nam Việt Nam)
- Ơng Nguyễn Văn Lắm (đại diện chính quyền Sài Gịn)
- Ơng W.Rogers (đại diện Mỹ)
Các bên chính thức bước lên bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Paris về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam; và 4 nghị định thư liên quan.
Tuy có 4 bên cùng tham gia vào cuộc đàm phán nhưng chỉ có 2 bên đưa ra lập
trường của mình, cũng đồng thời đại diện cho các bên cịn lại.
Trong quá trình diễn ra cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ, đã có sự
thay đổi nhất định về lập trường của cả hai bên, phù hợp hơn với tình hình chiến
sự lúc bấy giờ, cụ thể như sau:
* Giai đoạn 1968 – 1972
• Lập trường của Mỹ: Cần có sự tham gia của phái đồn Chính phủ Sài
Gịn; Bắc Việt Nam không vi phạm khu phi quân sự, không bắn pháo hay tên lửa
vào các thành phố lớn ở miền Nam như Sài Gịn, Huế, Đà Nẵng.
• Lập trường của Việt Nam: Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và
để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) tham
gia hội đàm.
* Giai đoạn 1972 - 1973
4
• Lập trường của Mỹ: Quân đội Hoa Kỳ cùng các đồng minh nước ngoài rút
khỏi Việt Nam phải đồng thời với việc Quân đội Nhân dân Việt Nam rút khỏi
Nam Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng Hịa của Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu có quyền tồn tại trong giải pháp hồ bình. Khơng có Tổng tuyển cử thống
nhất Việt Nam.
• Lập trường của Việt Nam: Các lực lượng quân đội Hoa Kỳ phải rút khỏi
Việt Nam. Thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 3 lực lượng chính trị:
Chính quyền Sài Gịn, Chính phủ Cách mạng Cộng hịa miền Nam Việt Nam và
lực lượng trung lập để tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất với miền Bắc.
Phía Việt Nam cho rằng việc Mỹ đòi hỏi Quân đội Nhân dân Việt Nam và
Quân đội Hoa Kỳ cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam là một sự đánh đồng không
thể chấp nhận được. Điều này dẫn đến sự thiếu đồng nhất trong lập trường của cả
hai bên, làm cho việc đi đến một thỏa thuận cuối cùng vẫn chưa thực hiện được.
Trải qua nhiều lần bất thành trên mặt trận quân sự và chính trị nhằm bắt ép
Việt Nam phải chấp nhận những điều khoản vô lý của Mỹ. Ngày 27/1/1973,
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam và bốn
Nghị định thư liên quan được ký chính thức. Việt Nam vẫn giữ nguyên lập
trường của mình, buộc Mỹ phải chấp nhận các điều khoản của ta vô điều kiện:
Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút quân trong 2 tháng; giữ nguyên trạng về chính trị;
Hội đồng hòa giải hòa hợp dân tộc 3 thành phần, hồn tồn khơng đề cập vấn đề
qn đội miền Bắc. Ngày 28/1/1973, ngừng bắn trên toàn miền Nam Việt Nam.
Hiệp định Paris chính thức được thi hành.
1.2.2. Nội dung cơ bản của hội nghị Paris
Bản Hiệp định Paris về Việt Nam gồm 9 chương, 23 điều, trong đó gồm 4
điều khoản chính như sau:
- Các điều khoản chính trị ghi các cam kết của Mỹ: Mỹ và các nước khác
phải tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân
5
miền nam Việt Nam; Mỹ khơng tiếp tục dính líu quân sự, không can thiệp công
việc nội bộ của miền nam Việt Nam.
- Các điều khoản về quân sự: ngừng bắn, Mỹ rút hết quân trong 60 ngày;
chấm dứt bắn phá miền bắc Việt Nam; nhận tháo gỡ mìn do Mỹ đã rải ở miền bắc
Việt Nam. ( Mỹ ko được tiếp tục tham gia các hoạt động quân sự tại Việt Nam )
- Các điều khoản về nội bộ miền nam: nguyên tắc hòa hợp dân tộc, bảo
đảm tự do dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử tự do, thành lập Hội đồng quốc gia hòa
giải, hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần để tổ chức tổng tuyển cử.
- Các điều khoản về thống nhất Việt Nam, về Lào và Campuchia, về cơ
cấu thi hành Hiệp định Ủy ban liên hợp và Ủy ban quốc tế; về Hội nghị quốc tế
xác nhận Hiệp định và điều khoản về việc Mỹ đóng góp hàn gắn vết thương
chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Như vậy có thể thấy với các nội dung cơ bản trên, Hiệp định Paris đã đóng
cửa hồn tồn cơ hội quay trở lại và can thiệp quân sự của chính phủ Mỹ, đồng
thời khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự do Việt Nam, khẳng định tên tuổi
Việt Nam trên bản đồ thế giới như một nước thống nhất hồn tồn.
1.2.3. Q trình đàm phán hội nghị Paris
Ngày 13/5/1968, cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng
hịa và Chính phủ Mỹ đã chính thức bắt đầu tại Paris (Pháp). Cuộc đàm phán kéo
dài 4 năm 8 tháng 14 ngày, là cuộc thương lượng ngoại giao gắn liền với chiến
trường, vô cùng cam go, dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Cuộc đàm
phán kết thúc bằng Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở
Việt Nam được ký kết ngày 27/1/1973, kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại
giao dài nhất, khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX.
Quá trình đàm phán để đi đến ký kết Hiệp định Paris có thể chia thành 2
giai đoạn:
* Giai đoạn 1 (5/1968 – 10/1968)
6
Ởgiai đoạn 1, cuộc đàm phán diễn ra giữa 2 bên Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Hoa Kỳ trong bối cảnh Hoa Kỳ buộc phải ngừng ném bom từ Ninh Bình
trở ra phía Bắc và ngồi đàm phán với Việt Nam tại Paris sau thất bại Tết Mậu
Thân năm 1968. Cuộc đàm phán chính thức bắt đầu ngày 15/3/1968 tại Trung
tâm Hội nghị quốc tế ở đường Kléber, Paris, đánh dấu một giai đoạn mới của
cuộc chiến tranh Việt Nam: vừa đọ sức trên mặt trận ngoại giao, mở ra cục diện
“vừa đánh vừa đàm”.
Nhiệm vụ của đối ngoại giai đoạn này là dùng đàm phán để tiến công cô
lập địch; vạch trần âm mưu của địch kéo dài chiến tranh, tính chất phi nghĩa của
cuộc chiến tranh do Mỹ phát động; tranh thủ dư luận phục vụ cho cuộc đấu tranh
quân sự, chính trị trên chiến trường; yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom không điều
kiện miền Bắc Việt Nam.
Kết thúc giai đoạn này, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã buộc
Mỹ phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện ném bom miền Bắc và các hành
động khác, chấp nhận ngồi nói chuyện trực tiếp với đại diện Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam tại hội nghị 4 bên.
* Giai đoạn 2 (11/1968 – 27/1/1973)
Giai đoạn thứ 2 của cuộc đàm phán là các cuộc thương thảo giữa 4 bên: Đoàn
đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hịa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa. Đặc trưng của đàm phán giai đoạn
này là việc diễn ra đồng thời 2 diễn đàn: đàm phán công khai 4 bên và các cuộc gặp
riêng giữa cố vấn Lê Đức Thọ và Cố vấn an ninh quốc gia Kissinger.
Ngày 8/10/1972, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đưa ra dự thảo Hiệp định về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam và dự thảo Thỏa thuận về
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, trong đó tập trung giải quyết
những vấn đề chính trị và quân sự liên quan đến Mỹ như yêu cầu Mỹ tôn trọng
các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, ngừng bắn, Mỹ rút quân…
7
Đến ngày 20/10/1972, hai bên đã đạt được thỏa thuận, dự định ký Hiệp
định vào ngày 31/10/1972. Với thỏa thuận này, Việt Nam đã đạt được các mục
tiêu đề ra là Mỹ chấm dứt chiến tranh và rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.
Nhưng đến ngày 22/10/1972, phía Hoa Kỳ lật lọng, không giữ lời hứa,
viện những lý do khơng chính đáng để liên tiếp thay đổi những điều thuộc nội
dung Hiệp định và thời gian đã thỏa thuận. Đến giữa tháng 12/1972, do khơng
đạt được những địi hỏi của mình, Hoa Kỳ ngừng cuộc đàm phán và mở cuộc
tiến công 12 ngày đêm bằng máy bay B52 vào Hà Nội và miền Bắc.
Tuy nhiên, chiến thắng oanh liệt “Điện Biên Phủ trên không” đã buộc Mỹ
phải trở lại bàn đàm phán. Ngày 23/1/1973, cố vấn Lê Đức Thọ cùng cố vấn an
ninh quốc gia Kissinger đã ký tắt văn bản Hiệp định. Ngày 27/1/1973, 4 ngoại
trưởng 4 bên dự Hội nghị Paris đã chính thức ký Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam.
Hiệp định Paris thắng lợi vang dội của nền ngoại giao trước những nhà
đàm phán lão làng của một quốc gia hàng đầu thế giới. Trong suốt quá trình đàm
phán, đồn Đàm phán đã tìm tịi, xây dựng lập luận sắc bén, có sức tấn cơng,
thuyết phục về những vấn đề quan trọng như quân miền Bắc ở lại miền Nam và
quân Hoa Kỳ, chư hầu phải rút khỏi Việt Nam, tranh thủ thời cơ, tận dụng những
chiến thắng về mặt quân sự để từng bước tạo sức ép trên bàn đàm phán, buộc Mỹ
phải cuốn xéo, trả lại độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam.
8
Phần II. Kết quả, ý nghĩa của hội nghị Paris
2.1. Kết quả của hội nghị Paris
Thắng lợi to lớn tại Hiệp Định Paris đã giúp nhân dân Việt Nam chúng ta
đã đạt được hai kết quả cơ bản nhất. Một là, Mĩ và Đồng Minh của Mĩ phải rút
quân khỏi miền Nam trong vòng 2 tháng; giữ nguyên trạng về chính trị; Hội
đồng hịa giải hịa hợp dân tộc 3 thành phần; hồn tồn khơng đề cập vấn đề
qn đội miền Bắc. Hai là, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam được tôn
trọng. Ngày 28-1-1973, Mỹ ngừng bắn trên tồn miền Nam Việt Nam. Hiệp định
Paris chính thức được thi hành.
Ngồi ra, đất nước chúng ta rơi vào tình thế khá đặc biệt đó là “ Mỹ cút,
Nguỵ chưa nhào". Phía Mỹ vẫn giữ lại cố vấn và tiếp tục viện trợ cho chính
quyền Sài Gịn. Chính quyền Sài Gòn âm mưu phá hoại hiệp định Paris, thực
hiện chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, “ bình định - lấn chiếm" vùng giải phóng
của ta nhưng thực chất là để tiếp tục chiến lược Việt Nam hố chiến tranh.
Về phía quân ta, so sánh lực lượng thay đổi có lợi nhưng phải chủ động
đối phó với âm mưu, hành động mới của kẻ thù. Miền Bắc trở lại hồ bình, tiến
hành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; iếp
tục thực hiện chi viện cho tiền tuyến miền Nam, Lào và Campuchia. Đồng thời
đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu to lớn, cấp bách của cuộc tổng tiến công chiến
lược và phục vụ cho công cuộc tiếp quản, xây dựng chế độ mới ở Miền Nam sau
giải phóng.
2.2. Ý nghĩa của hội nghị Paris
Hiệp định Paris được ký kết cách đây tròn nửa thế kỷ (1973 – 2023) đã kết
thúc thắng lợi cuộc đàm phán dài nhất, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao Việt
Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ XX; là cuộc đối thoại giữa
hai lực lượng đối đầu trên chiến trường không cân sức nhau về nhiều mặt; là tâm
điểm cuộc đối chọi giữa hai nền ngoại giao - nền ngoại giao nhà nghề của một siêu
cường (Mỹ) với nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ
9
nhưng được kế thừa một truyền thống đấu tranh hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước (Việt Nam). Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới
để quân và dân ta tiến lên “đánh cho Ngụy nhào” với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử, giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra
kỷ ngun hịa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.
Chiến thắng vĩ đại này là kết tinh thành quả đấu tranh suốt 18 năm kiên
cường, bất khuất và hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trên mặt trận chính
trị, quân sự, đặc biệt là trí tuệ của nên ngoại giao Cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với hiệp định
Paris, Mỹ buộc phải thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, cam
kết “tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” – nội dung
quan trọng mà hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 đã ghi rõ nhưng Mỹ cố tình né tránh.
Đồng thời nó đã mở ra một bước ngoặt mới, hiệp địn Paris 1973 là cơ sở pháp lý
cho nhân dân miền Nam tiếp tục đấu tranh, miền Bắc khôi phục kinh tế, đẩy
mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện ngày càng lớn cho miền Nam.
Thắng lợi này đã nâng dân tộc ta lên ngang tầm một dân tộc đi tiên phong
trên thế giới trong việc chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, góp phần
thuận lợi cho nhân dân Lào và Campuchia giải phóng hồn tồn đất nước. Phong
trào chống chiến tranh xâm lược phi nghĩa và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng,
trở thành biểu tượng của thời đại và tiêu biểu cho lương tri loài người.
10
Phần III. Vận dụng bài học kinh nghiệm của Hội nghị Paris với ngoại giao
Việt Nam hiện nay
3.1. Các chiến thuật, chiến lược sử dụng trong cuộc đàm phán tại hội nghị
Paris
Đàm phán Hiệp định Paris diễn ra trong suốt thời gian dài và trong quá
trình đàm phán, các bên đã nhiều lần thay đổi chiến lược đàm phán của mình.
Trong giai đoạn đầu, các bên đều sử dụng chiến lược đàm phán cạnh tranh để
bảo vệ lợi ích của mình. Trong chiến lược này, các bên liên tục gây sức ép, tận
dụng mọi thời cơ để dồn ép đối phương. Điều này được thể hiện rõ qua câu
chuyện chiếc bàn đàm phán.
Bên phía Việt Nam đề nghị một bàn vng hoặc bàn hình thoi, bốn đồn
ngồi bốn cạnh để thể hiện sự bình đẳng, độc lập trong vai trị, vị trí của mỗi bên
và phản ánh tương quan lực lượng trên chiến trường. Trong khi đó, phía Mỹ đưa
ra nhiều "sáng kiến" bàn chữ nhật: phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ngồi một
bên, Việt Nam Dân chủ Cộng hồ và Mặt trận Dân tộc Giải phóng ngồi một bên;
hoặc hai bàn hình cung đối diện nhau, khơng tách rời nhau... Cuối cùng, kiểu bàn
được chọn là một bàn trịn, có hai bàn chữ nhật đặt ở hai điểm đối diện dành cho
thư ký để hai bên muốn coi là cuộc họp bốn phía hay hai phía đều được.
Việc tranh cãi quanh hình dáng chiếc bàn thể hiện chiến thuật của hai
phía: Phía Mỹ muốn một giải pháp theo đó chính quyền Việt Nam Cộng hịa sẽ
kiểm sốt được hoàn toàn miền Nam Việt Nam, như vậy khi hiệp định được thực
hiện, Bắc Việt sẽ phải bỏ rơi những người đồng chí miền Nam của họ. Nhìn rõ
được ý đồ đó của Mỹ, phía Việt Nam quyết khơng nhượng bộ, u cầu Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam phải có một đồn riêng
tại hội nghị và có thể tự phát ngơn, khơng để chính quyền Việt Nam Cộng hịa
đại diện cho tiếng nói của nhân dân miền Nam Việt Nam. Với việc áp dụng
chiến lược đàm phán cạnh tranh này, các bên đều chỉ ra sức bảo vệ quyền lợi của
bên mình, khiến cuộc đàm phán trở nên gay gắt mà không đem lại hiệu quả.
11
Sau đó, chiến lược đàm phán nguyên tắc được áp dụng đã mang lại lợi ích
cho cả hai bên giúp cuộc đàm phán diễn ra hiệu quả và nhanh chóng hơn khi mà
lúc này hai bên đều mong muốn cuộc đàm phán nhanh chóng kết thúc.
Hội nghị Paris cịn là thể hiện cho đỉnh cao nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm”
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1965, đế quốc Mỹ đã tiến hành nhiều
cuộc vận động ngoại giao với danh nghĩa giải quyết vấn đề Việt Nam nhưng thực
chất là địi Việt Nam thương lượng khơng điều kiện. Tuy nhiên, Việt Nam luôn kịp
thời phát huy thắng lợi, tố cáo tội ác của Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ của các nước u
chuộng hịa bình trên thế giới. Đỉnh cao trong việc vận dụng thành công nghệ thuật
“đánh - đàm” của ngoại giao Việt Nam là tháng 3-1972, khi Mỹ đơn phương
“ngừng không thời hạn” Hội nghị Paris, ném bom trở lại miền Bắc với quy mô lớn
nhằm buộc Việt Nam phải nhân nhượng. Tuy nhiên, Trung ương Đảng vẫn chủ
trương duy trì Hội nghị Paris, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế và kết hợp
với chiến trường để đấu tranh với Mỹ về mặt ngoại giao. Cuối cùng, Mỹ thất bại
trong vị thế lép vế hoàn toàn so với Việt Nam dân chủ cộng hòa trên bàn đàm phán.
Một chiến thuật khác được phía Việt Nam Dân chủ Cộng hịa sử dụng tương
đối hiệu quả là chiến thuật “vừa nhu, vừa cương”. Trưởng đoàn Xuân Thủy là người
mềm mỏng, khéo léo, đối đáp nhẹ nhàng mà sâu sắc nhưng rất thẳng thừng và quyết
liệt trong đàm phán. Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ lại là người “cương, nhu” rõ ràng,
tới mức Kissinger phải kêu ca rằng mình bị ơng coi như học trị khi nói chuyện vì
thái độ cứng rắn, dạy bảo. Trên bàn đàm phán, hai nhà ngoại giao Xuân Thủy và Lê
Đức Thọ đã làm việc rất ăn ý, áp dụng chiến thuật “vừa nhu vừa cương”. Trong đó,
phần nhiều cố vấn Lê Đức Thọ sắm vai “cương”.
3.2. Bài học cho ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Dù bối cảnh khu vực và thế giới hiện nay có nhiều thay đổi với diễn biến
khó lường song những bài học quý báu từ cuộc đàm phán lịch sử Paris cách đây
nửa thế kỷ vẫn còn nguyên giá trị.
12
Thứ nhất, bài học về tinh thần độc lập, tự chủ, ln đặt lợi ích của quốc
gia, dân tộc lên hàng đầu; kiên quyết bảo vệ và khuếch trương thắng lợi chính trị,
quân sự trên bàn đàm phán. Đảng ta ngay từ đầu đã xác định, nguyên tắc bất dịch
trong đấu tranh với Mỹ tại Hội nghị Paris là kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây cũng là mục tiêu đấu tranh ngoại
giao của Việt Nam phục vụ mục đích “đánh cho Mỹ cút”, tiến đến “đánh cho
Ngụy nhào”, giải phóng hồn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi
của ta trên cả hai chiến trường Nam - Bắc, tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, hạ chiến
tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán. Đặc biệt, chiến thắng “Điện Biên Phủ
trên không” cuối năm 1972 là địn quyết định làm thay đổi hồn tồn cục diện
cuộc chiến, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris trong thế bất lợi.
Thứ hai, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược và nghệ thuật đấu tranh; lựa
chọn đúng thời cơ để bắt đầu đàm phán, biết giành thắng lợi từng bước, đi đến
ký kết Hiệp định Paris trên thế thắng. Trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh cần
linh hoạt đề ra sách lược, phương pháp, hình thức đấu tranh vì mục tiêu cụ thể,
từng bước, giành lợi ích cuối cùng về nội dung, điều khoản khác nhau.
Vận dụng bài học này, với mục tiêu khẳng định quan điểm của Việt Nam
trong các đàm phán quốc tế, cần thể hiện vị thế của nước ta ở nhiều lĩnh vực, đặc
biệt trong chính trị, kinh tế, văn hóa và cả qn sự. Trong các đàm phán thương
mại song phương, khi các đối tác đưa ra các đòi hỏi phi lý về nhân quyền, các
vấn đề nội bộ, hay vấn đề dân chủ... bên cạnh việc kiên trì giải thích, thuyết
phục, chúng ta luôn dùng các lý lẽ cụ thể để chứng minh các thành tựu bảo vệ
nhân quyền ở nước ta, về uy tín của đất nước trên trường quốc tế, về tính hội
nhập và đặc điểm thị trường của nền kinh tế…
Thứ ba, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ trong hoạt động ngoại giao;
kiên trì đồn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn bè, các
lực lượng hịa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
13
Trong suốt cuộc đàm phán, ta phát huy được độc lập, tự chủ là do có đường
lối chung đúng đắn, chủ động về đường lối quân sự và đường lối ngoại giao, khơng
để tác nhân bên ngồi tác động; nắm được chiến lược và các thủ đoạn trong đàm
phán của Mỹ. Về cơ bản, ta hiểu được tình hình chung quốc tế; rút kinh nghiệm lịch
sử và có bước phát triển trong ngoại giao; do đó, ta hạn chế thấp nhất tác động tiêu
cực từ các đồng minh chiến lược, tranh thủ tối đa sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước
láng giềng, các lực lượng dân chủ, hịa bình và tiến bộ trên thế giới.
Đến nay, Việt Nam có quan hệ song phương với 190 trong 193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước và
quan hệ đối tác tồn diện với 13 nước; có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia,
vùng lãnh thổ; đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) , trong đó có các
FTA thế hệ mới. Việt Nam cũng là thành viên chính thức của hơn 70 tổ chức và
diễn đàn đa phương lớn như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM... Chúng ta
cần tiếp tục quán triệt quan điểm của Đảng về xác định đối tác, đối tượng vào
thực tiễn; trong mỗi thời điểm cụ thể chúng ta cần căn cứ vào đường lối, chiến
lược, chủ trương, chính sách hiện hành và phải có sự đánh giá đúng đắn, phù
hợp; dựa trên cơ sở thực tế, khoa học để luôn phân biệt rõ ràng đâu là đối tác,
đâu là đối tượng. Thực hiện vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tinh thần tăng cường
hợp tác, phát huy tính tích cực của quan hệ đối tác; hạn chế, khắc phục tác động
trái chiều của quan hệ đối tượng; triệt để khai thác những yếu tố có lợi từ bên
ngồi phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Đất nước. Tránh quan điểm, nhận
thức mơ hồ, ảo tưởng và thiếu cảnh giác cách mạng; cảnh giác sự nhầm lẫn,
tuyệt đối hoá đối tác hoặc đối tượng; tránh để đối tác biến thành đối tượng; tránh
cho rằng đối tác là để hợp tác, đối tượng là để đấu tranh đơn thuần.
14
KẾT LUẬN
Hiệp định Paris (1973) là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất
của nhân dân hai miền đất nước, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Tinh thần, ý chí đấu tranh quật
cường, sự hy sinh vơ cùng to lớn của quân dân ta trên mặt trận chính trị, quân sự
và ngoại giao dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thể hiện sáng ngời bản lĩnh, cốt cách và trí tuệ Việt Nam được kết tinh
từ hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Đất nước Việt Nam là một,
dân tộc Việt Nam là một nên ở đâu trên lãnh thổ chúng ta có quân xâm lược thì
người Việt Nam có quyền đến đấy để bảo vệ Tổ quốc của mình. Điều này đã
được các nhà ngoại giao Việt Nam vận dụng rất khôn khéo trên bàn đàm phán
nên chúng ta tranh thủ được dư luận rất lớn và tranh thủ được phong trào chống
chiến tranh ở Mỹ. Cuối cùng, Mỹ đã thất bại toàn diện tại Việt Nam.
Đây được coi là chiến thắng vĩ đại khơng chỉ của nhân dân Việt Nam mà
cịn đi vào cuộc đấu tranh chung của thế giới nhân dân thế giới vì hịa bình, độc
lập, tự do, tiến bộ và công lý. Các bài học của Hội nghị Paris là hành trang quý
giá để Việt Nam vững bước tiến vào giai đoạn hội nhập quốc tế, đưa quan hệ
hữu nghị và hợp tác với tất cả các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững,
củng cố, nâng cao thế và lực của đất nước. Trong thời chiến, quân đội đi tiên
phong, nhưng trong thời bình, ngoại giao phải đi tiên phong. Phải xây dựng
chiến lược ngoại giao với tầm nhìn xa. Phải có đội ngũ cán bộ ngoại giao đủ
mạnh, có bộ máy đối ngoại chuyên nghiệp phối hợp với các lĩnh vực khác để đưa
đất nước phát triển phồn vinh, vị thế Việt Nam ngày càng được nâng cao.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). NXB Chính trị quốc gia
sự thật.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương, TTXVN. (2023). 50 năm Hiệp định Paris (19732023): Bối cảnh lịch sử của việc đàm phán đi đến ký kết Hiệp định Paris. Truy
cập ngày 16/3/2023 tại: />116208.vna
3. Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Ngoại giao. (2023). Hội nghị Paris đã diễn
ra trong bối cảnh như thế nào?. Báo điện tử Nhân dân. Truy cập ngày 16/3/2023
tại: />4. Trần Hữu Huy. (2023). Hiệp định Paris: Bài học về độc lập tự chủ và đoàn
kết quốc tế. Truy cập ngày 17/3/2023 tại: />5. Nguyễn Hữu Mạnh. (2023). Câu chuyện quanh chiếc bàn tròn. Báo điện tử
Lao động. Truy cập ngày 15/3/2023 tại:
/>6. Nguyễn Ngọc Hương. (2023). Những dấu ấn nổi bật của Hội nghị Pari. Tạp
chí điện tử Lý luận chính trị. Truy cập ngày 15/3/2023 tại:
/>
7. Mỹ Hạnh - Anh Thư. (2013). Những cuộc đấu trí ở Pa-ri . “Cặp bài trùng”
Lê Đức Thọ - Xuân Thủy (Kỳ cuối). Bảo tàng lịch sử quốc gia. Truy cập ngày
15/3/2023 tại: />8. Ban Tuyên giáo Trung ương, TTXVN. (2018). Nội dung cơ bản của Hiệp định
Paris và các nghị định thư kèm theo. Truy cập ngày 14/3/2023 tại:
/>9. PGS, TS. Nguyễn Ngọc Hà (Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản). (2023).
Vận dụng bài học kinh nghiệm của Hội nghị Pa-ri vào công tác đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ mới. Tạp chí Cộng sản. Truy cập ngày
17/3/2023 tại: />10. Vân Tâm. (2021). Những bài học lớn từ Hiệp định Paris năm 1973. Trang tin
điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 17/3/2023 tại:
/>11. Linh Oanh. (2023). Hiệp định Paris – đỉnh cao thắng lợi của ngoại giao Việt
Nam. Báo điện tử Quân Đội Nhân Dân. Truy cập ngày 16/3/2023 tại:
/>12. Chí Trung – Hồng Hà – Bơng Mai. (2023). Hiệp định Paris 1973 – Bước
ngoặt trong cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc. Báo điện tử Nhân Dân.
Truy cập ngày 16/3/2023 tại:
/>