Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

cây xanh quanh nhà theo phong thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.91 KB, 31 trang )

Bạn có biết
CÂY XANH QUANH NHÀ THEO PHONG THUỶ
PGs Lê Kiều
Kiến trúc gắn liền với cây xanh. Cây xanh tạo ra màu sắc cho kiến trúc, tạo ra
không khí trong lành cho con người sử dụng nhà. Kiến trúc ngày nay có nhiều người
nghiên cứu chuyên về cây trồng làm tôn vinh vẻ đẹp cho công trình. Mảng lá đậm, lá
thưa, cây cao hay cây thấp tuỳ theo mỹ quan toàn cảnh, tuỳ theo điểm nhìn mong
muốn mà nhà kiến trúc lựa chọn theo chủ đề cây tôn vẻ đẹp cho nhà.
Hoặc như chuyện dân gian về nhà bên ấy trồng trầu, bên này trồng cau. Anh
bên này đi xa mẹ xin bên ấy nắm lá trầu nhuộm áo cho anh, rồi anh xa vắng, hoa cau
bên này rụng trắng sân nhà em. Câu cau, dàn trầu gắn tình đôi lứa. Cây xanh đấy,
thơ mộng đấy, gần gũi và thân thiết đấy.
Bây giờ cũng có nhiều người luận về ý nghĩa cây trồng theo cách lý giải riêng
của mình. Chẳng hạn, mặt trước vườn sát sân nhà trồng ba cây cau, gia chủ giải
thích là trái đất bị con người làm tổn thương nhiều quá nên ba cây cau này là ba mũi
kim châm cứu chữa bệnh cho hành tinh của ta.
Thày phong thuỷ lại không nghĩ riêng về cảnh quan hay tình tứ như thế. Thày
phong thuỷ thường lý giải việc trồng cây theo hoạ phúc của gia chủ.
Dã sử bên Tàu truyền lại, có chủ nhà tên Bão Viên nhà nghèo mà những
người trong nhà thường ốm đau quặt quẹo. Nhân có lúc gặp thày phong thuỷ, Bão
Viên đem chuyện nhà mình ra than thở, thày phán hãy xem lại cây cối quanh nhà thì
thấy góc đông bắc vườn sát nhà có cây dâu lớn. Theo phong thuỷ thì trước nhà
không trồng dâu, sau nhà không trồng hoè. Cây dâu tiếng Hán là "tang" trùng âm
với tang là lễ đám ma. Trồng dâu trước nhà khác chi mong nhà có hung sát, chủ trì
chuyện chết chóc, khóc than, chỉ nghèo và ốm thôi còn là may đấy. Dâu trồng trước
nhà được gọi là tang môn thần.Theo điển cổ thì bãi dâu còn là nơi hò hẹn của trai gái
bất chính. May mà con cái nhà Bão Viên còn bé, nếu không chắc thày phong thuỷ
lại luận đoán cho các cháu những chuyện chẳng hay ho gì. Thật tội cho cây dâu. Cây
dâu rất có ích. Lá dâu nuôi tằm lấy tơ dệt lụa. Cây dâu là cây thuốc nam rất quý.
Riêng cây dâu có thể có tới 6 vị thuốc nam như lá dâu, vỏ rễ cây dâu, quả dâu, tầm
gửi cây dâu, tổ bọ ngựa trên cây dâu, sâu dâu. Những vị thuốc nam này rất hay dùng


đến trong các bệnh thông thường như lợi tiểu, ho lâu ngày, bổ thận, sáng mắt
Thày phong thuỷ bào chữa cho mình là vấn đề trồng cây dâu ở đâu so với ngôi nhà
chứ không nói cây dâu có hại.
Trước nhà nên trồng hoè với ý nghĩa cây hoè mang lại điều lành. Cũng chẳng
có lý do gì chính đáng mà chỉ vì Vương Đán viết trong Tống sử rằng ông Vương Dụ
tự mình trồng ba cây hoè ở sân và nói: " Đời sau ta, con cháu có người làm nên tư
mã, tư không và tư đồ thì ba cây hoè này chính là tam công vậy". Luận về lợi ích
của cây hoè thì cây này cũng là cây thuốc quý. Hoa hoè dùng làm thuốc cầm máu
trong bệnh ho ra máu, đổ máu cam và hạ huyết áp.
Phong thuỷ có cả loạt quan điểm hoàn chỉnh về cây cảnh. Phong thuỷ cũng
cho rằng cây cối được coi như xiêm áo của con người. Không có cây che thì không
bảo vệ được nhà cửa. Cây che gió, cây chống lại khí lạnh, cây tạo ra môi trường
thích hợp cho cuộc sống con người. Cây cỏ tươi tốt thì sinh khí vượng thịnh, hộ ấm
địa mạch, phú quý hoàn cục. Trồng cây phải theo qui tắc chặt chẽ. Phía đông trồng
đào, trồng dương ( dương là thứ cây giống như liễu nhưng mùa đông lá rụng). Phía
nam trồng mai, trồng táo. Phía tây trồng thị, trồng du ( du là cây nhỏ, bẻ cành, ngửi
mùi khó chịu). Phía bắc trồng mận, trồng lý ( lý là một cây họ mận, nom gần giống
như mận). Theo đúng qui tắc này thì rất tốt lành ( đại cát , đại lợi ). Ngược lại mà
đông mận, tây đào, nam lý, bắc táo thì phạm vào tà dâm, trong nhà loạn ẩu. Thực
khó mà thấy ở qui tắc này cơ sở khoa học nào minh chứng. Nhưng nếu suy cho cùng
phải chăng là do nhựa cây, phấn hoa có chất gì đó xung khắc với cuộc sống thường
nhật của con người ? Phong thuỷ yêu cầu khi trồng cây cảnh hay cây tạo bóng, tạo
xanh quanh nhà hết sức cẩn trọng. Cần dùng la bàn để ngắm, để đo đạc cho chỉnh
chu, ngay ngắn và chính xác vị trí. Phương Nhâm, Tý, Quí , Sửu hợp với cây dâu,
cây trắc. Phương Mão, Dần, Giáp, Ất hợp với tùng, bách. Phương Thân,Canh, Dậu,
Tân nên trồng thạch lựu. Phương Tỵ, Thìn, Tốn hợp với rừng lớn. Phương Tuất,
Càn, Hợi hợp với rừng tán lá thấp. Thật là mơ hồ và võ đoán. Gọi là phương vị phải
xem đâu là tâm điểm để xác định. Nếu ta lấy ngôi nhà xác định thì mới biết được
phương vị theo các hướng can, chi. Mà vẫn thổ nhưỡng ấy, vi khí hậu ấy, chỉ vì
hoán vị trí của cây mà lành, dữ khác xa là điều chưa thể tin ngay được.

Thày phong thuỷ còn có những khẩu quyết như: "cây cối vây quanh, thanh
nhàn hưởng phúc". Quanh nhà trồng cây xanh tốt thì tạo được vi khí hậu mát mẻ vào
mùa hạ, ấm áp vào mùa đông. Người sống trong nhà sẽ được sức khoẻ, tinh thần
thoải mái. Điều này là kinh nghiệm dân gian lâu dời. Môi trường sinh hoạt của con
người luôn luôn gắn với cây cỏ, với màu xanh dịu mát. Những nếu những cây hoa
nhiều quả lắm mà sát ngay chỗ ra vào, dễ gây những cảnh gợi tình thì "Đào, mận
trước cửa, trai gái rượu chè". Đây cũng là cách tư duy phong kiến. Tuy thế, qua sân
trước nhà rồi tiếp đến vườn thì hai bên cửa vào vườn trồng đôi đào mận thì lại được
phép. Ngay trong sân nhà mà có " Một cây chặn ngay trước cửa, mẹ goá con côi".
Cửa vào phòng mà có cây to chắn lối, theo người xưa, kẻ trộm dễ có chỗ nấp rồi vào
nhà làm bậy. Để cây như vậy không tốt cho an ninh của gia đình. " Môn đối thuỳ
dương ( cửa kề cây dương) , bất đắc kỳ tử ( chết treo xà nhà). Thuỳ dương là cây ẻo
lả, cành rũ như tóc rũ nên nhìn cành dương qua cửa sổ gây tâm lý bất ổn. Rễ cây đào
mọc chĩa vào nhà , con cháu được phù hộ ngầm. Có hai cây sóng đôi trước cửa thì
xúc vật hay ốm mà người thì khoẻ. Trúc mộc xoắn xuýt, đủ ăn, nhiều lộc. Cây to
góc tường, lắm chuyện kinh hoàng Những khẩu quyết loại như thày phong thuỷ
nêu trên đây có phần do hình dáng cây cối, có phần xét theo quan điểm an ninh cho
chủ nhà mà đặt ra điều lành, dữ. Chúng tôi cũng nghiên cứu xem những loài cây
thày phong thuỷ gắn với điều lành dữ có ảnh hưởng gì về mặt thực vật học không thì
rất ít liên quan. Thực ra tính chất thực vật hết sức đáng lưu tâm. Thí dụ như cây trúc
đào người xưa còn gọi là đào lê. Lá cây giống lá trúc mà hoa lại giống hoa đào nên
gọi là trúc đào. Lá và hoa trúc đào rất độc. Tại đảo Corse nước Pháp đã có trường
hợp binh lính bẻ cành trúc đào xiên thịt nướng chả ăn bị ngộ độc chết. Cây trúc đào
mọc gần giếng, rễ trúc đào chui vào giếng làm nước giếng bị độc. Người xưa dùng
bột vỏ cây trúc đào và bột gỗ trúc đào để làm bả chuột. Không trồng trúc đào ở vườn
gần nhà.
Còn nhiều khẩu quyết nữa, phần lớn chỉ là những điều thiếu cơ sở khoa học
để tin như cây một trụi trơ, mẹ chồng con dâu bất hoà; trong sân có cây to cổ quái
khí thông mà danh bại. Trước nhà có hai cây bằng nhau không quá cao, không quá
thấp, như hai anh em đứng bên nhau, thày phong thuỷ khen thế cây tạo cho gia chủ

thang mây đỗ đạt. Rễ cây sần sùi, chủ nhà đui điếc. Trúc mộc xoắn xuýt, đủ ăn,
nhiều lộc. Trong sân bên trái có cây, bên phải không có cây thì lành ít, dữ nhiều.
Bên phải nhà có cây hoa đỏ rực rỡ làm tan cửa nát nhà. Điều này chẳng qua vì luận
lý rằng bên phải nhằm đàn bà con gái trong nhà. Trong nhà có đàn bà con gái lộng
lẫy, trong một xã hội an ninh không tốt thì chỉ mang hoạ cho nhà. Thật khiếp đảm.
Thày doạ thế, không tin mà làm khác đi thì cũng e ngại!
Một đôi điều thày phong thuỷ phán, nghiền ngẫm thì chấp nhận được. Thày
khuyên phương càn ( tây bắc của ngôi nhà) nên có cây to. Hướng tây bắc mặt trời
xiên nóng. Có cây tạo bóng, chắn nóng là điều hay. Càn mà có mộc tinh chắn giữ thì
lợi thấy rõ ràng. Trong sân không được có cây to. Điều này thày lại đúng. Ngày xưa,
nhà không cao, chỉ dăm ba mét. Cây thường cao hơn nhà ba bốn lần nên là nơi tụ sét
khi mưa giông. Ngoài ra , rễ cây to đội đất ở sân thậm chí đâm xuyên vào nhà, thật
không hay ho gì. Rồi gió to, cây đổ, gãy cành sẽ đe doạ chủ nhà. Thày phong thuỷ
thích quanh nhà trồng tre, trúc. Điều này cũng chấp nhận được. Tre bảo vệ cho nhà
chống trộm cắp. Tre cung cấp thực phẩm là măng khi đói lòng. Tre lại giúp nguyên
liệu đan lát, cây que khi động dụng.
Như thế, thày phong thuỷ có những cách suy nghĩ của mình chung quanh cây
cối quanh nhà. Phần lớn những khẩu quyết của thày ít cơ sở để tin. Ta biết cho vui,
còn nghe theo thày là điều khó thực hiện. Bạn đọc có cách lý giải nào hay hơn, xin
mời chỉ giáo. /.
Bạn có biết
PHONG THUỶ BỐ TRÍ CỬA CHO NGÔI NHÀ
Gs Mộc Thiên
Khi nghiên cứu để thiết kế và xây dựng một ngôi nhà ở thì nhà và cửa gắn bó
với nhau mật thiết. Cửa làm nhiệm vụ nối thông các không gian trong và ngoài ngôi
nhà. Cửa sổ chỉ mở để lấy ánh sáng, lấy không khí nhưng cửa đi còn giúp cho giao
thông . Cửa đồng thời có nhiệm vụ trang trí cho ngôi nhà.
Phong thuỷ quan niệm rằng ngôi nhà phải là nơi tích nạp hai loại khí: địa khí
là khí từ đất từ trời đến ngôi nhà và môn khí là khí từ cửa vào nhà. Muốn chủ ngôi
nhà làm nên ăn ra, giàu sang phát đạt, con cái đề huề, mọi việc như ý thì địa khí và

môn khí phải cùng vượng. Phong thuỷ coi cửa là yết hầu của ngôi nhà mà phần trên
của cửa tiếp nhận môn khí và phần dưới của tiếp nhận địa khí. Cửa phải đón được
khí lành, ngăn cản được khí dữ, khí ác.
Cửa không chỉ quan trọng cho chính ngôi nhà được xem xét mà còn có vị trí
gắn bó với cửa của những nhà lân cận.
Hai nhà đối diện nhau nên làm có cao độ ngưỡng cửa dưới bằng nhau và độ
cao cửa bằng nhau. Điều này do quan niệm sống hoà hợp xóm giềng với nhau của
cộng đồng theo triết lý cổ Trung hoa. Cửa của hai nhà đối diện nhau mà cái to, cái
nhỏ sẽ dễ nảy sinh tỵ nạnh, xóm giềng bất hoà vì phong thuỷ cho rằng nhà nào có
cửa to hơn sẽ được giàu sang hơn nhà có cửa nhỏ. Mà khi xóm giềng đã bất hoà, thì
an ninh xã hội giảm kém, ảnh hưởng trực tiếp đến sự làm ăn, sinh sống.
Kích thước của cửa phải tỷ lệ với ngôi nhà. Nhà to mà làm cửa nhỏ, thày
phong thuỷ cho rằng làm ăn sẽ không phát đạt. Ngược lại nhà nhỏ mà làm cửa to thì
của cải trong nhà lại hao tán.
Đường dẫn từ cổng ngõ vào nhà mà hẹp thắt thì ấn tượng như bị bó rọ, tù
túng, gia chủ sẽ khó làm ăn phát vượng. Ngõ xộc vào cổng mà qua đó chiếu thẳng
vào cửa chính ngôi nhà là điều rất kiêng kỵ với phong thuỷ. Thày sẽ phán bảo là
người trong nhà dễ đau yếu. Điều này lý giải được theo cách nhìn ngày nay là gió
thổi sẽ hút dọc theo đường, thốc vào nhà. Bụi trộn lẫn nhiều loại vi khuẩn có hại sẽ
quẩn với gió làm cho không khí trong nhà luôn nhiễm bẩn. Đó là lý do khiến người
sống trong nhà hay đau yếu. Về an ninh, thì cửa ngõ bố trí như thế, người đi đường
có điều kiện xoi mói quan sát trong nhà, rình mò, " chiếu tướng" căn nhà.
Hướng Tây Bắc nhà không nên trổ cửa. Lời khuyên này cần được kiến trúc
sư xét rất cụ thể theo địa hình, vị trí đặt nhà. Nói chung, hướng Tây Bắc nhiều điều
bất lợi. Phía Tây Bắc của Trung quốc là vùng đất hoàng thổ ( loes) rất rộng. Phần
lớn thời gian trong một năm của vùng này là khô hạn và gió cuốn bụi đất hoàng thổ
bay mù trời, việc bít tường hay dùng cây to chắn về hướng Tây Bắc là hợp lý. Phía
Tây mặt trời chiếu gay gắt từ trưa về chiều. Với các nước phía Nam Trung quốc nên
hạn chế mở cửa về hướng Tây, nhất là Tây Bắc. Nhà của người Trung quốc và nhà
cổ nước ta hay bố trí các phòng phía Tây dành cho kho chứa hoặc phòng của đàn bà.

Lý do chính, những phòng này bị nóng trong ngôi nhà. Nhà hướng Nam mà gia chủ
phong lưu , cả hai phía Đông và Tây đều bố trí hiên diễu. Phòng phía Đông bố trí
cho đàn ông ở. Các phòng phía Tây, bố trí cho đàn bà. Câu chuyện cổ, rắc rối về tình
yêu ghi chép ở hiên phía Tây nhà ( Tây sương ký ) là xuất phát từ các phòng bố trí
cho đàn bà, phụ nữ ở theo cách người Tàu cũ.
Nếu nhà bên cạnh đã xây có mái nhọn hay cạnh, góc nhà hướng về phía nhà
ta thì không nên trổ cửa để những hình thù kỳ dị ấy chiếu trực diện vào cửa nhà ta.
Theo giải thích của thày phong thuỷ, những hình thù nhọn của mái nhà bên như gai
đâm vào mình. Những góc, cạnh không lấy gì làm mỹ quan , mở cửa ra như lưỡi dao
chặt vào mắt, hoặc như cái ngọn giáo lớn chĩa vào tia nhìn của mình, chỉ gây khó
chịu. Từ những hình thù nhọn, sắc làm cho mình dễ bị đau ốm, nhức đầu, chóng
mặt. Mở cửa ra , gặp ngay những hình thù nhọn, sắc chém vào mắt, sinh nỗi ám ảnh
là cuộc sống riêng tư luôn luôn bị dòm ngó, chẳng dễ chịu chút nào mà ngôi nhà tồn
tại nhiều nhiều năm.
Mới mở cửa vào nhà , bức tường nhìn thấy trước hết thường được các nhà trang trí
theo phong thuỷ bên Tàu bố trí một bức tranh lớn hình con hổ với ý tưởng con hổ sẽ
xua đuổi tà ma. Có nhà lại treo tranh Quan Vân Trường là người vũ dũng siêu phàm,
sống trung thực, tín nghĩa. Cái oai võ của Quan Công giúp trừ tà ma và kẻ xấu. Lòng
trung thực, tính tín nghĩa nhắc nhở với khách tấm lòng gia chủ, tiện cho không khí
đàm thoại công việc. Đôi khi có nhà còn dùng bức tượng của Quan Công thay cho
bức tranh này.
Không để cửa chính vào nhà ở mặt bên, mặt cạnh. Đây là ảnh hưởng của
thuyết chính danh trong Khổng giáo: " Người quân tử đi theo đường lớn". Nhà đã có
cửa trước phải làm cửa sau. Hai cửa đi trong ngôi nhà hay trong cùng một buồng
không thẳng hàng với nhau. Bố trí hai cửa thẳng hàng, của cải vào nhà chảy tuột đi
luôn. Đứng về mặt vật lý xây dựng thì hai cửa loại này sẽ tạo ra luồng khí mạnh
xuyên phòng nhưng không quét hết không gian chứa trong đó. Trong gian buồng ấy,
không khí chỗ luân chuyển quá mạnh nhưng còn chỗ khác vẫn bị tù túng. Khi bất
đắc dĩ phải bố trí cửa kiểu thông thống thế này nên có những bức bình phong thấp
lửng ngăn ước lệ không gian, làm chậm vận tốc luân lưu không khí. Có thể treo

những phong linh điều hoà khí trong phòng. Khí qua phòng không nên để có vận tốc
lớn vì vận tốc lớn làm giảm thân nhiệt người cư ngụ trong nhà nhanh, gây cảm do
gió lùa. Cũng không nên để không khí tĩnh lặng hay luân chuyển yếu. Tĩnh lặng hay
di chuyển yếu không thay đổi được chất lượng không khí trong phòng. Mỗi người
một đêm ở trong phòng kín thải ra khoảng 10 m3 khí cácbônic. Nếu không khí
không luân chuyển để đưa không khí mới vào thay thế không khí cũ thải loại ra ,
người trong buồng sẽ bị ngạt. Điều lý luận về lưu thông khí trong phòng của thày
phong thuỷ phù hợp với những yêu cầu của vật lý xây dựng. Tuy thế việc bố trí hai
cửa đi trong một phòng mà chéo nhau diện tích sử dụng cho giao thông lại lớn để
cho diện tích dùng thật sự bị giảm.
Quan niệm của phong thuỷ về cửa chính vào nhà giống phương pháp tư duy
của kiến trúc sư. Cửa chính vào nhà ví như mồm miệng của con người. Cửa này
không được bé quá, cũng không quá rộng. Trổ sai cửa chính làm giảm thiểu sự
nghênh đón khí lành vào nhà hoặc cản trở lưu thông khí.
Cửa sổ của ngôi nhà như mắt mũi để nhìn và để thở. Cửa sổ phải đảm bảo
thông thoáng khí. Phong thuỷ kiến nghị cửa sổ đều phải mở ra phía ngoài gian
phòng với lý do để khí vào nhiều và luân lưu đều khắp bên trong. Cửa sổ mở vào
trong làm tổn hại đến khí. Phong thuỷ yêu cầu mức trên cao của các cửa trong cùng
gian phòng phải nằm theo cùng một độ cao. Cao độ trên của cửa chênh nhau cao
thấp làm cho con người sử dụng trong phòng luôn luôn phải điều chỉnh luồng mắt,
dễ sinh mệt mỏi. Cách điều chỉnh cho những cửa bắt buộc phải làm có cao trình
ngưỡng trên thay đổi là treo phong linh để lưà mắt.
Nhà cổ Trung quốc của giới trung, thượng lưu thường làm hiên cả bốn phía
nên hầu như bốn phía đều là cửa. Những cửa này chạy suốt quanh phòng, chia thành
các tấm khoảng 60 ~ 70 cm chiều ngang, dùng luôn làm vách. Tấm bưng kín dưới,
trên là song, có mành, rèm che giảm độ sáng và giữ kín đáo. Nhiều tấm băng kín cả
phần trên. Ta có thể lấy hình tượng này qua các đình chùa gỗ đang còn ở nông thôn
nước ta hiện nay.
Cửa sổ làm sao có thể gắn kết con người với thiên nhiên. Qua song cửa, ban
ngày tĩnh mịch quan sát được, bảo vệ được dinh cơ, ban đêm nhìn thấy ánh trăng

nhàn nhạt làm chủ nhân sao xuyến với cảnh mà tạo hoá ban, cho.
Bố trí cửa trong ngôi nhà theo quan điểm phong thuỷ thì ngoài yếu tố tiện
nghi, yếu tố an ninh, còn là yếu tố vật lý xây dựng để cuối cùng nâng được tình cảm
gắn bó của con người với nơi ở nữa./.

Bạn có biết
THỬ XEM CÁI NGHĨA CỦA PHONG THUỶ
Gs Mộc Thiên
Chúng ta đã quen nhau qua nhiều bài về phong thuỷ. Trong những bài này,
chúng tôi đã trình bày quan điểm của mình là người làm khoa học hiện đại nhìn vào
phong thuỷ. Điều cắt nghĩa của chúng tôi có khi dựa vào môi trường đặt ngôi nhà
hay ngôi mộ. Có khi chúng tôi đi tìm những khía cạnh vật lý xây dựng để giải thích
những răn giới hoặc những điều khuyến nghị của phong thuỷ. Đôi lúc lại đưa những
khái niệm về vi khí hậu, về khí động lực học để giải thích những điều mà phong
thuỷ khẳng định.
Đã có lần chúng tôi trình bày quan điểm của mình về phong thuỷ được xem
như một hiện tượng văn hoá. Chúng ta có thể dùng nhãn quan của Abraham H.
Maslow, nhà triết học nhân văn hiện đại của Hoa Kỳ, trong việc sắp xếp 5 lớp nhu
cầu của con người. A. H. Maslow cho rằng con người có các nhu cầu được sắp xếp
theo mức quan trọng từ loại nhất đến loại năm là : nhu cầu sinh lý, nhu cầu được an
toàn, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu khẳng định mình. Từ nhu
cầu về sinh lý, con người cần ăn , cần thở, cần uống, cần bài tiết, không đáp ứng
được những nhu cầu này con người bị nguy hiểm, dẫn đến chết. Nhu cầu an toàn về
sinh mạng cũng như an toàn để kiếm sống là mục tiêu để đáp ứng nhu cầu loaị đầu.
Kiếm thức ăn khó dần do thiên nhiên không phải lúc nào cũng hào phóng. Tai biến
luôn luôn rình rập đe doạ sự an toàn của con người. Trong tâm thức con người xuất
hiện lòng mong muốn có được thức ăn, vật dụng do một Đấng siêu nhiên, thần linh
ban phát. Tục thờ cúng thần là mong có được những thứ mà mình mong muốn. Tục
bói toán là sự đoán ý đồ thần linh, cầu may mắn. Sự kiêng kỵ, răn giới là mong
muốn có điều lành, tránh xa điều mà thần linh không muốn. Rồi mỗi cộng đồng sống

trong một điều kiện thiên nhiên khác nhau, môi trường khác nhau, có nghĩa là cách
kiếm sống khác nhau nên có những tập tục khác nhau, có sự phát triển khác nhau.
Người phương Tây được tiếp xúc với phương Đông thì vô cùng kinh ngạc với
nền văn minh cũng như những đặc thù văn hoá thần bí của phương Đông. Với
phương pháp tư duy nhị nguyên, người phương Tây cố lý giải những điều thần bí
theo cách giải thích của họ. Chúng tôi giới thiệu một trong những cách tiếp cận với
phong thuỷ của người phương Tây: tiếp cận phong thuỷ theo thuyết xạ.
Thuyết xạ giải thích rằng khi thai nhi rời bụng mẹ trở thành một cá thể độc
lập thì cũng chịu ảnh hưởng của sức cảm ứng từ trường trái đất đồng thời với sự tiếp
thu, phát xạ từ các thiên thể khác. Máu trong người là nơi tích tụ nhiều sắt nên là vật
chất chịu tác động mạnh nhất của từ trường. Não bộ của con người là trung tâm điều
khiển sự sống nên khi chịu tác động của từ trường có thể biến đổi hoạt động. Như
vậy, sự sống của con người chịu tác động trực tiếp của từ trường của rất nhiều loại
vật chất chung quanh, trong môi trường mà con người sinh sống. Từ trường xâm
nhập cơ thể theo cách nào đó sẽ có lợi cho trí tuệ và thể chất con người. Từ trường
xâm nhập cách khác sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực và có tác động trái với sự phát
triển bình thường của con người. Ảnh hưởng của từ trường đến cơ thể và trí tuệ con
người đã được nhiều thí nghiệm kiểm tra và chấp nhận. Nhiều bạn đeo vòng có từ
tính ở tay để điều chỉnh áp huyết là một trong những cách trị liệu ngày nay. Người ta
đã thí nghiệm với khỉ. Cho nhiều con khỉ khác nhau chịu tác động của từ trường
khác nhau trong thời gian định sẵn , những con khỉ này đã thể hiện những sắc thái,
hành vi khác nhau. Điều đó, phương Tây kết luận, những nguyên tắc, những khuyến
nghị cũng như điều răn giới của phong thuỷ là dựa vào kinh nghiệm của con người
nhúng trong môi trường từ tính tạo nên.
Cường độ từ trường ảnh hưởng đến trái đất phụ thuộc khá nhiều vào các vận
động của các thiên thể. Mặt trời và những vận động của mặt trời ảnh hưởng trực
tiếp và mạnh mẽ đến dòng từ trái đất. Từ chỗ thay đổi cường độ và phương, chiều
của luồng từ mà khí hậu cũng như nhiều vận động khác của trái đất ảnh hưởng theo.
Những thay đổi này làm cho con người cũng chịu những tác động khác nhau, từ sức
khoẻ đến tâm sinh lý. Những hôm thời tiết thay đổi, dòng từ chung của trái đất, của

khu vực có biến động làm cho cơ thể con người sống trên trái đất, trong khu vực cụ
thể nào đó cũng cảm thấy rã rời, mệt mỏi , tính tình cáu bẳn. Nhiều người đang ốm
hoặc rất yếu dễ chuyển độ trạng thái ( chết ) trong những ngày này. Có nhiều súc
vật rất nhạy cảm với những thay đổi luồng từ. Khi sắp có động đất, trái đất có những
vận động bên trong làm cho dòng từ thay đổi. Điều này con người cảm nhận với
những mức độ khác nhau, tuỳ theo độ nhạy riêng của từng cá thể theo tình trạng sức
khoẻ, theo cấu trúc thần kinh nhưng rất nhiều súc vật có độ nhạy lớn. Khi sắp có
động đất, nhiều con vật chạy nháo nhác tìm nơi ẩn náu, kêu hú vang trời, như một
bản năng tự vệ. Năm 1999 là năm nhiều động đất đối với trái đất, nhiều những vụ nổ
và thay đổi trên mặt trời, nhiều cơn bão từ do mặt trời gây ra. Khí hậu, thời tiết trên
trái đất bị ảnh hưởng mà chúng ta thấy nhiều lụt lội, gió to, bão lớn, động đất. Các
nhà nghiên cứu thiên văn, vũ trụ đang tìm hiểu để nhận thức những qui luật vận
động này của mặt trời, của trái đất và các thiên thể khác. Những nhà nghiên cứu
phong thuỷ của phương Tây sử dụng những nhận thức về vũ trụ này lý giải những
điều khuyến nghị hay những điều răn giới của phong thuỷ. Họ cho rằng phương
Đông và Trung Hoa có nền văn minh sớm nên đã tổng kết được kinh nghiệm về ảnh
hưởng của vũ trụ sớm và đề ra thuật phong thuỷ. Khoảng chục năm gần đây, triết gia
Tây phương rộ lên cuộc tranh luận rằng phải chăng bản chất của vũ trụ là những vụ
nổ và tai biến.
Các nhà khoa học phương Tây lại phát biểu rằng có hai loại tia ( xạ ) ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe , đến tâm lý và sinh lý của con người đó là tia vũ trụ và
các loại tia do trái đất sinh ra. Nếu những loại tia này tác động hài hoà thì cơ thể
phát triển tốt và nếu tác động xung thì có hại. Các nhà khoa học phương Tây cũng
giải thích là mỗi vật chất đều phát xạ và tán xạ. Quy luật tương tác giữa các tia tạo
nên các điều kiện tâm lý, sinh lý khác nhau, tạo nên sự hưng phát hay tàn lụi của số
phận con người trong môi trường xạ này. Từ đó họ giải thích phong thuỷ. Họ coi các
xạ đồng nghĩa với khái niệm " khí " của phong thuỷ.
Chúng tôi cũng đã giới thiệu là phong thuỷ ra đời ở Trung quốc khoảng trước
khi có nhà Tần hàng nhiều trăm năm nhưng đến đời Minh phong thuỷ mới được nhà
cầm quyền chấp nhận. Những nhà nghiên cứu Trung quốc học cho rằng thời Tiên

Tần bắt đầu thai nghén, đến Tần Hán bắt đầu phát sinh thuật phong thuỷ nhưng phải
qua đời Nguỵ Tấn thuật phong thuỷ mới được truyền bá.
Bắt đầu đời Tống, thuật phong thuỷ đã thịnh hành. Nhưng phải đến Minh,
Thanh thuật phong thuỷ mới được công nhận chính thức và được phổ biến công
khai, hợp pháp.
Trước đây phong thuỷ bao hàm âm dương học, địa lý học và thuật số. Âm
dương học nghiên cứu về thiên văn, tinh tượng. Âm dương học cũng nghiên cứu về
địa lý là nơi con người sinh, trưởng và nhìn thấy trời. Phương pháp luận cơ bản của
âm dương học là âm dương ngũ hành. Âm dương học được công nhận chính thức từ
triều Nguyên (Chí Nguyên, năm thứ 28) mà đối tượng được công nhận là công việc
nghiên cứu , quan sát sự vận hành của vũ trụ, xem trời, xem sao đoán việc lành dữ
của hiện tượng thiên văn, dự báo thời tiết, xem đất làm nhà, xem đất đặt mồ, mả,
định lịch phục vụ tế lễ, giúp định thời vụ sản xuất nông nghiệp. Đến đời Minh Hồng
Vũ, năm Bính dần, ngày 5 tháng 5 âm lịch, vua Hồng Vũ nhà Minh quyết định đặt
chức quan coi về âm dương học, chuyên lo quản lý và đào tạo các đối tượng của âm
dương học như vừa nói trên.
Từ thời Minh trở về sau, việc chọn đất làm đô thị, kinh đô đến làm nhà, đặt
mồ mả đều được xem xét cẩn thận. Nhiều người nhờ có hiểu biết, ham lý giải phong
thuỷ mà vinh hiển. Ngược lại có nhiều người vì chọn sai ngày, chọn thế đất vua
không ưa mà không những bản thân thiệt mạng làm liên luỵ đến chín họ bị chặt đầu.
Việc chọn đất làm đô thị có đi nghiên cứu thực địa, có nghiên cứu bản đồ và
lại còn đêm đêm ngắm sao, nhìn trăng để đề xuất phương án. Nhiều phương pháp
tiến hành nghiên cứu của người xưa dựa vào sự cảm thụ trực quan như là phải chay
giới, phải làm lễ cầu để cho sự luận lý của sách vở, của tri thức hoà quyện với sự
cảm thụ trực quan sinh ra lời phán quyết. Có thể đây là một trong những phương
pháp luận của triết cổ phương Đông. Nhiều triết gia phương Đông cho rằng phương
pháp nhận thức nhị nguyên kiểu phương Tây khó mà hiểu thấu đáo được phương
Đông.
Người phương Đông nghĩ rằng " Dịch vi quán quần kinh chi thủ" ( kinh Dịch
là sách đầu não của nền văn học, nghệ thuật và khoa học Trung hoa ). Đọc Dịch

không ở "lời" của kinh mà ở hình "tượng" và " số ", rồi không phải ở tượng và số
mà ở ý của kinh. Chu Hy cho rằng "ý tại ngôn ngoại" ( ý không ở lời ). Người
Trung Hoa cổ nói rằng học Kinh Dịch mà chỉ thuộc lời thì mới nắm được phần gần,
phần cạn, khi nào thấy được phần hình trong lời mới thấy được tinh thâm diệu
nghĩa. Có học "lời" mới thấy được cái "không lời" của triết lý phương Đông.
Phong thuỷ có cái gốc là kinh Dịch.
nhĂn ẵĂm v phong thy
PGs L Kiu
Tàm cĩ tỉnh mi bĂn ẵừỡc v phong thy. Líng cĩ yn mi nn ẵc
phong thy. Líng rut ngụn ngang trm mi, lợc nĂo củng nĩng nhừ lứa ẵt
mĂ mang phong thy ra ẵc thệ thảy nhừ mi bíng bong, cĂng xem cĂng ri.Vệ l
ẵĩ, bĂi mi ẵt tn lĂ nhĂn ẵĂm.
c phong thy khõng phăi chì lĂ thu nhn thõng tin mi mĂ cín lĂ sỳ căm thũ
thin nhin to ra ci mnh mang ca nhn thửc, ra ci rung ẵng khi ẵửng trừc
ẵảt tri, ci thĂnh kẽnh khi nghỉ v ngừi xừa, ci nhàn tữ khi nhện ngừi nay.
Vy phong thy lĂ gệ?
Cĩ hai khi niẻm mĂ nhiu ngừi hía trn thĂnh mt ẵĩ lĂ phong thy
vĂ thut phong thy. Phong thy nu duy danh ẵnh nghỉa lĂ giĩ vĂ nừc. Giĩ
vĂ nừc to nn khi niẻm ẵảt tri bao la. Cũ thè hỡn thệ phong thy lĂ ẵa th,
ẵa hệnh, ẵa mo, thy vn, phừỡng hừng, trng thi vi khẽ hu ca khu ẵảt
lĂ ẵi từỡng xem xắt. Phong thy lĂ mt tờn ti khch quan ca mt khoănh nm
trn vị tri ẵảt. Phong thy lĂ mõi trừng vt chảt chửa ẵỳng con ngừi trong ẵĩ.
Thut phong thy lĂ nhựng suy nghỉ, lun lỷ ca con ngừi vĂ cch thẽch ửng cuc
sng ca mệnh khi nm trong ci phong thy ảy. Nhừ th phong thy lĂ khch
quan, tờn ti ngoĂi ỷ thửc con ngừi cín thut phong thy lĂ săn phám ca ỷ thửc lin
quan ẵn phong thy. ày chẽnh lĂ sỳ căm thũ ca con ngừi v thin nhin quanh
ta, tệm hièu v nĩ mong vn dũng nhựng lun lỷ hay kinh nghiẻm tệm ẵừỡc ảy ẵem
ẵn mt cuc ẵi cho mệnh vĂ ngừi thàn ca mệnh tt ẵp hỡn.
Phong thy cín ẵừỡc gi dừi ci tn khc : kham dừ. Kham dừ cĩ nghỉa
lĂ tri ẵảt. Kham lĂ tri, dừ lĂ ẵảt. Nhn thửc kièu thut phong thy thệ kham

lĂ thin ẵo ( ẵo ca tri), dừ lĂ ẵa ẵo ( ẵo ca ẵảt). Kham cín cĩ nghỉa nựa
lĂ ẵt ( xuyn) ẵè chì phãn ẵảt nhõ cao khịi mt bng. Kham củng cín cĩ nghỉa
lĂ khm xắt chì sỳ ẵiu tra nhựng ẵiu trn ẵảt ẵai. Củng hièu theo thut phong
thy thệ kham dừ khõng cín chì cĩ nghỉa lĂ tri ẵảt, lĂ tờn ti khch quan nhừ
trn ẵơ dạn mĂ kham dừ ẵè chì quý thãn, chì phãn hờn ẵt ra nhn thửc v tri ẵảt.
Nhừ th, nĩi v kham dừ lĂ nĩi v ẵảt tri vĂ nhựng xợc căm v ẵảt tri.
m trữ tch cui nm chng khc l nhiu vi vĂi ẵm trừc ẵĩ, nhừng
lĂ ẵm cui cùng ca mt nm ẵơ qua mĂ củng lĂ ẵm khới ẵãu ca mt nm mi,
vi phong tũc dàn gian , vi sỳ rung căm trừc ẵảt tri, con ngừi cĩ mt căm gic
thĂnh kẽnh làng làng ẵc biẻt. Mi ngừi cĩ mt trệnh ẵ hc vản khc nhau, ẵi
sng tinh thãn ca mi ngừi khc nhau nn sỳ căm nhn thin nhin củng cĩ
nhựng khẽa cnh khc nhau. Nhừ th, phong thy hay kham dừ cùng vi th gii
bn trong con ngừi hía quyẻn vi nhau thĂnh mt hiẻn từỡng vn hĩa. Phăi chng
thut phong thy lĂ sỳ tẽnh ton ca con ngừi nm trong mõi trừng thin nhin ẵè
chn cho mệnh ẵiu lĂnh, trnh ẵiu dự. Phong thy ẵơ thĂnh mt tp tũc dàn gian
lừu truyn làu ẵi ớ nừc Trung hoa, ớ nn vn hĩa Trung hoa vĂ nhựng nn vn hĩa
chu ănh hừớng Trung hoa , mt loi hc vản v hoĂn cănh cĩ lin quan ẵn con
ngừi, cĩ phừỡng php lun ring ca mệnh.
Nhn thửc ẵảt tri mĂ thỳc chảt lĂ nhn thửc thin nhin tùy thuc ớ mi
ngừi. Mi ngừi lĂ mt ch thè rảt ring. Ngừi thệ tệm hièu ớ ẵảt tri mong tệm
thảy ci khĩa chung ẵè mang thỳc nghiẻm lĂm cho cuc sng kh ln. Ngừi thệ
tỳ coi rng mệnh lĂ thy tụ ca nhựng tri thửc v ẵảt tri ẵè rời lỡi dũng mừu cãu
danh lỡi . Nhừng ẵảt tri thệ bao la mĂ sửc ngừi, trẽ ngừi li cĩ hn, líng ngừi võ
tn võ cùng, tt cĩ, xảu cĩ, võ từ cĩ, tham lam cĩ, cõng minh cĩ, vũ lỡi cĩ, ẵơ lĂm
cho sỳ căm nhn ẵảt tri ca phong thy trớ thĂnh mt m bíng bong. Mt thi gian
dĂi thut phong thy b coi lĂ m tẽn. Tuy giảy mỳc bĂn v phong thy khõng ẽt
nhừng nĩ nhiu qu, phửc tp qu. Ngừi bĂn li ẵửng trn ci tõi ca mệnh nn
cĩ cch bĂn tht từng minh, khõng ẽt ngừi lĂm thm cho vản ẵ ẵơ phửc tp trớ
nn mt mùng ( man thừ, man ngõn ). Vệ th, cĩ ngừi cho phong thy lĂ hc vản,
ngừi khc cho lĂ hẻ thng ẵnh gi cănh quan, nhừng củng cĩ nhựng thi gian dĂi,

thut phong thy b cảm bĂn bc, b coi lĂ sai tri.
Mt thỳc t khch quan lĂ thut phong thy ẵơ tờn ti, khi tị, khi m. Ch vệ
phong trĂo mĂ Ăo Ăo khen, rời củng Ăo Ăo ch. Ngừi vit ngay củng lm mĂ k vit
xin chng ẽt hỡn. Cũ Tă Ao xừa ẵừỡc coi lĂ nhĂ a lỷ Phong thy cĩ tĂi ớ nừc ta
ẵơ nhn xắt:
Kệa ai ẵa lỷ võ tõng
Chng cử ẵợng phắp củng díng võ sừ.
ợng sai mp m, tht giă lạn ln. Nhừng chợng ta hơy cùng nhau ẵc phong
thy vĂ thut phong thy theo mt cch nhện mi ca phừỡng php lun khoa hc
biẻn chửng, chợng ta tệm ra nhựng khẽa cnh ca hiẻn từỡng vn hĩa vĂ ẵờng thi
củng nhện ra nhựng ẵiu nĂo chừa ẵ cn cử biẻn minh ẵè mớ rng tãm nhện ca
mệnh.
Nhừ th, theo cch nhện hiẻn nay thệ trong phong thy vĂ thut phong thy
cĩ nhựng phãn tờn ti khch quan ẵừỡc xp vĂo loi khoa hc thỳc nghiẻm. ĩ
lĂ nhựng phãn xắt ănh hừớng ca phong thy, ca mõi trừng ănh hừớng ẵn tàm lỷ,
sinh lỷ con ngừi sng trong mõi trừng ảy. Củng nhừ vt lỷ hc, phong thy xc
ẵnh sỳ viẻc thõng qua quan st cc sỳ kiẻn vĂ xc nhn cc sỳ viẻc nĂy thõng qua
quan st tip. Sau khi phàn loi vĂ phàn tẽch cc sỳ viẻc nĂy, ngừi nghin cửu tệm
kim nhựng mi lin hẻ nhàn quă mĂ h tin lĂ ẵợng. Khi khi qut hĩa hay
lĂ nhựng giă thit ẵơ ẵừỡc kièm ẵnh v mửc chẽnh xc vĂ dừng nhừ ẵợng, phăn
nh vĂ giăi thẽch ẵừỡc thỳc ti vĂ do ẵĩ cĩ gi tr dỳ bo cho ci gệ xăy ra trong
nhựng hoĂn cănh từỡng tỳ, chợng s ẵừỡc gi lĂ nguyn tc.
Thut phong thy gii thiẻu mt s nguyn tc mĂ cc nguyn tc nĂy li phũ
thuc lạn nhau to nn mt măng kin thửc ln. Ln ẵn mửc mĂ cín rảt nhiu l
hụng chừa ẵừỡc bời ẵp hoc ẵơ bời ẵp hĂng ngĂn nm nay mĂ vạn nhừ nắm vin
sịi xung hờ nừc rng.

è nhn bit thut phong thy phăi dĂy cõng nghin ngạm. è hĂnh ngh phong
thy li khĩ khn hỡn chử khõng phăi nhừ man sừ tỳ nhn cho mệnh ẵừỡc cĩ ci tĂi
ring nhn bit theo kièu tàm linh mĂ khuych danh, vũ lỡi. Phong thy lĂ khoa hc

thỳc nghiẻm cho nn bit trong sch chừa ẵ mĂ phăi bit ngoĂi ẵờng, phăi am
từng thỳc ẵa. Cũ Tă Ao ẵơ vit :
Mảy li ẵ truyn hu th
Ai hc ẵa lỷ theo hc Tă Ao
Mt lĂ hay hc cĂng cao
Hai lĂ c ỷ, cử li phừỡng ngõn
Ba lĂ hc thuc Dơ ẵĂm
Bn lĂ mớ sch La bĂn cho thõng
Chng qua ra ẵn ngoĂi ẵờng
Tị mch, tị nừc, tị long mi từng

Nhừ th, cũ Tă Ao ẵơ ẵi vĂo ci cũ thè trong phong thy. Mt s sch vit
hay dch gãn ẵày củng ẵi vĂo ci cũ thè nĂy. Cũ thè lĂ ci s ẵừỡc, thảy ẵừỡc ca
phong thy, lĂ ci hĂnh trong ci tri. Nhừ ẵơ ẵ xuảt, phong thy lĂ dng khoa hc
thỳc nghiẻm, tữ ci hĂnh mĂ tệm ra nhựng nguyn tc ẵè tri. Tữ ci tri soi ri cho
ci hĂnh. Qu trệnh nghin cửu phong thy lĂ qu trệnh tri hĂnh ẵan xen, phi
hỡp.
Nu xp phong thy lĂ mt ẵc trừng vn hĩa thệ thut phong thy củng
cĩ nhựng lỷ lun cỡ băn, củng cĩ nhựng tri thửc cỡ sớ.
Nhừ nguờn gc ca nhiu vn hĩa Trung hoa thệ lỷ lun cỡ băn ca phong
thy vạn lĂ kinh Dch. Tri thửc cỡ sớ ca phong thy vạn lĂ thuyt àm dừỡng, ngủ
hĂnh. Lảy ci thảy ẵừỡc ca tờn ti khch quan, ẵem nn tăng kin thửc ca kinh
Dch, phừỡng php ca ngủ hĂnh ẵè xày dỳng lun lỷ ca phong thy. ảy
lĂ phừỡng php lun cỡ băn ca phong thy.
Ci khụng lờ v kin thửc ca kinh Dch, ci bin hĩa khõn cùng ca àm
dừỡng ngủ hĂnh ẵơ lĂm cho ngừi nghin cửu v phong thy trớ nn thĂy bĩi xem
voi, cĂng nghin cửu cĂng thảy mệnh nhị bắ, cĂng tệm hièu cĂng thảy kin thửc
ca mệnh chng ẵng bao nhiu, cĂng suy ngạm thệ thảy mệnh cĂng phin diẻn.
ảy lĂ nhựng căm nhn ẵãu tin ca ngừi ẵi tệm thut phong thy.
Phong thy xừa bao hĂm àm dừỡng hc, ẵa lỷ hc vĂ thut s.

m dừỡng hc nghin cửu v thin vn, tinh từỡng. m dừỡng hc củng lun v
ẵa lỷ lĂ nỡi con ngừi sinh trừớng vĂ nhện thảy tri. Phừỡng php lun ca àm
dừỡng hc lĂ àm dừỡng ngủ hĂnh. m dừỡng hc củng chì ẵừỡc cõng nhn chẽnh thửc
tữ triu Nguyn ( Chẽ Nguyn , nm thử 28) mĂ ẵi từỡng lĂ quan st sỳ vn hĂnh
ca vủ trũ, dỳ bo thi tit, ẵon lĂnh dự ca hiẻn từỡng thin vn, xem ẵảt lĂm
nhĂ, ẵt mờ mă, xem ngĂy, ẵnh lch n ẵi Minh, tữ Hờng Vủ, nm Bẽnh dãn,
ngĂy 5 thng 5, Vua Hờng Vủ cho vi Lỷ B Truyn ẵn lun ẵĂm v phong thy,
Lỷ B Truyn dàng Hờng Vủ Cảm Thừ. Tữ ẵảy triu ẵệnh chẽnh thửc ẵt chửc
quan v àm dừỡng hc. Mi ph, chàu, huyẻn cĩ mt chửc quan chuyn lo v giăng
dy vĂ quăn lỷ cc cõng viẻc v àm dừỡng hc.
Phong thy nghỉa hp cĩ thè chì coi lĂ nhựng tri thửc v ẵa hệnh, ẵa
mo, nợi non, sõng ngíi. Cĩ mt thi gian dĂi ẵn vĂi trm nm, phong thy ớ Trung
hoa b gom vĂo mõn ẵa lỷ. Củng cĩ nhiu triu ẵi li coi phong thy nhừ lĂ thut
s. Phãn nhiu nhựng ngừi lĂm thut s li lĂ man sừ nn lĂm ănh hừớng ẵn phong
thy, lĂm phong thy lu m mt thi. Nhừng phong thy vạn tờn ti vệ băn chảt nĩ
lĂ mt hiẻn từỡng vn hĩa. Mi thi ẵi cĩ nhựng thay ẵụi theo tin trièn khoa hc
cõng nghẻ ca nĩ. Nhừng vn hĩa ghi li ẵi sng tinh thãn ca con ngừi ca mt
thi, khõng lỷ gệ mĂ ẵi sau li khõng tệm hièu. c li phong thy theo mt thi ẵ
khch quan củng lĂ ẵiu bụ ẽch. Khõng vò ẵon, khõng ẵnh kin, chừa ẵ mửc
ẵ vựng chc ca lun cử thệ chừa tin. Gn ẵũc khỡi trong ẵè tệm hièu mt khch
quan ẵơ tờn ti hĂng ngĂn nm lĂ ẵiu cỳc kỹ khĩ. Mớ ẵãu cho lot bĂi vit v phong
thy trong nhựng s tip theo, ngừi vit mong ẵừỡc sỳ ẵờng căm ca bn ẵc, ỷ ti
ngõn ngoi, ngoĂi ẵờng thanh ẵè từỡng ửng cín xin ẵừỡc ẵờng khẽ từỡng cãu nựa./.
NHÀ CỬA NGÀY XƯA THEO CÁCH NHÌN PHONG THUỶ
PGs Lê Kiều
TrườngĐại học Kiến trúc
Phàm nói về nhà ở hoặc dinh thự xưa kia thì mặt chính nhà thường nhìn về
hướng Nam. Bên trái ngôi nhà ảnh hưởng đến những người con trai của gia chủ vì
bên trái chủ dương. Dọc theo bên trái nhà mà có dòng nước là nhà được thế thanh
long. Bên phải ngôi nhà ảnh hưởng đến con gái. Dọc theo bên phải nhà mà có đường

dài dong duổi thì ngôi nhà được thế bạch hổ. Đàng sau nhà , đất cao hay có gò đống
là được thế huyền vũ. Trước nhà có ao, có đầm thì ngôi nhà vào thế chu tước. Sắp
xếp hướng nhà tương quan với ngõ xóm mà đạt được cả huyền vũ, chu tước, thanh
long, bạch hổ thì gia chủ thịnh vượng. Như thế, thanh long là hướng Đông của nhà,
bạch hổ nằm ở hướng Tây, huyền vũ hướng Bắc, chu tước hướng Nam. Hình thế đất
phải là huyền vũ cúi đầu, chu tước dang cánh, thanh long uốn khúc, bạch hổ qui
thuận mới là thế đất ở được. Ngược lại với điều vừa nêu sẽ sinh báo hại.
Giai thoại kể rằng, Quản Lộ đời tam quốc bên Tàu cùng quân sĩ đi về phía tây
có dừng lại nghỉ khi gặp mộ Vô Hưu Kiệm. Nhìn xem bốn phương tám hướng
quanh mộ một hồi thì buồn rầu thở than:" Cây cối nhiều mà xơ xác. Bia mộ lời lẽ
hoa mĩ, bóng bẩy mà không thấy có hậu. Huyền vũ thì khuất mất đầu, thanh long
chẳng có chân, bạch hổ ngậm xác chết, chu tước rền rĩ. Đã từng làm quan là đã có
học vấn mà đích thân Vô Hưu Kiệm hay con cháu lại mê muội, chọn âm phần cho
mình thế này thì tránh sao khỏi hoạ diệt tộc". Con đường bên phải ngôi nhà, ngôi
mộ, mà dữ dằn như thế hổ ngồi, phong thuỷ gọi là được thế "hàm thi" nghĩa là hổ
ngậm xác chết. Đường cạnh nhà phải hiền hoà, dịu dàng, nhẹ nhàng mới đẹp. Thanh
long mà đuồn đuỗn như kiểu nằm ườn là rơi vào thế "kị chủ" nghĩa là thế ghét chủ.
Nước phải chảy lững lờ, không xiết, không tù. Dòng nước phải uốn lượn mà không
gấp khúc mới là thế đẹp. Huyền vũ mà cao vút thì chỉ như cái xác khổng lồ. Huyền
vũ phải tròn mà dâng như mây đùn, thì gia chủ mới hiển vinh. Chu tước phải lượn lờ
nếu không thì bay vút mất tăm. Cần kiêng kỵ nước chảy xiết tại nơi chu tước. Nước
chảy dữ dằn thì lâm vào thế bi khấp nghĩa là đau buồn đến chảy nước mắt. Câu
chuyện than cho Vô Hưu Kiệm cũng dựa vào thế luận của phong thuỷ mà nên.
Vị trí ngôi nhà, dinh thự, và sự tương quan trong qui hoạch tiểu khu cũng là
điều cần chú ý. So với vị trí ngôi nhà mà ngã ba đường cái đóng ở cung kiền ( tây
bắc) thì chủ nhà tuyệt tự. Ngã ba đường cái ở cung khảm ( chính bắc) thì gia chủ
tâm thần bất an. Ngã ba đường cái ở cung cấn (đông bắc) dễ bị mất mát của cải vì bị
lừa đảo hay trộm cướp. Ngày nay ta chưa thấy cơ sở khoa học nào cho những điều
võ đoán này. Ngã ba đường cái nằm ở phương tốn ( đông nam) thì gia chủ giàu sang
như mây nổi.

Hình thế công trình đã có tương quan với các vị trí huyền vũ, thanh long,
bạch hổ và chu tước rất ảnh hường đến chủ nhà. Phong thuỷ luận bàn hàng trăm thế,
dáng, vị trí xóm giềng mà những điều luận bàn ấy thường rất ít cơ sở để tin.
Ta thử xem một số luận bàn của phong thuỷ để thấy rất nhiều điều thật võ
đoán, chẳng có cơ sở nào để tin.
Khi bàn về ngã ba sông cạnh nhà, phong thuỷ nói, huyền vũ có ngã ba sông
thì con trai cả ở ngoài khuôn viên khu đất làm nhà, thanh long có ngã ba sông thì trai
thứ phải cư ngụ tại làng bên. Bạch hổ có ngã ba sông con gái đạt được hoa nương.
Chu tước là ngã ba sông, con cháu làm khách buôn.
Ngã ba sông là nơi trên bến dưới thuyền, giao thông thuỷ thuận lợi, điều đất
chật người đông mà luận đoán rằng con cái phải di dân cũng là điều chấp nhận được.
Khi đã tấp nập trên bến dưới thuyền, con gái lọt vào mắt khách vãng lai hoặc như
người con gái lại ưa trang điểm để đạt thành hoa nương cũng có thể xảy ra. Sống ở
đất buôn, con cháu thành thương gia là do hoàn cảnh, môi trường phát sinh nghề
nghiệp, điều đó cũng là lẽ thường tình.
Thông thường thì phương bắc hay vận vào trưởng nam của gia chủ, phương
đông liên quan tới thứ nam, phương tây quan hệ tới con gái , phương nam, trước nhà
ảnh hưởng đến con cháu về sau.
Xét theo cao độ của mặt đất nơi đặt ngôi nhà thì nếu đất đàng Đông cao, đàng
Tây thấp thì sinh ra khí bùn lấp nền, không tốt. Nếu mặt đất đàng Đông thấp mà
đàng Tây cao thì gia chủ sẽ giàu sang phú quý. Sự luận đoán này phù hợp với điều
vận động của vi khí hậu. Thường gió thổi chủ đạo mang sự mát mẻ cho ngôi nhà là
gió đến từ hướng Đông. Nếu Đông cao, chắn mất gió mát vào nhà hoặc mặt đất phía
Đông cao vừa phải, gió thổi vào nhà ở tầm con người là gió xoáy quẩn , đúng là
không tốt. Nếu hướng Tây đất cao lên, giữ gió tới cho ngôi nhà thì nhà ở luôn
thoáng, khí thải độc hại được gió thổi đi, gia chủ có sức khoẻ, tâm lý phấn khởi sẽ
làm nên ăn ra, giàu sang cũng là điều hợp lý.
Trước nhà đất cao hơn sau nhà, phong thuỷ cho rằng gia chủ sẽ tuyệt tự, cuộc
sống cô đơn. Như đã biết nhà thường nhìn hướng Nam. Trước nhà là hướng gió mát
mà bị thế đất cao chắn hoặc làm cho gió trườn đi, làm sao những người sống trong

ngôi nhà lại có sức khoẻ được. Khi không khoẻ sẽ chẳng ham vui mà sinh con đẻ
cái. Ngược lại, sau nhà đất cao hơn phía trước thì giàu có, đầy đủ ruộng vườn, ao cá.
Bốn mặt quanh nhà, đất cao hơn chỗ đặt nhà được thế đất "vệ thổ cư". Người
chủ trước giàu sau nghèo. Đặt nhà như thế không tốt vì đâu có được sự thông thoáng
cần thiết, xét về mặt vệ sinh môi trường khí của ngôi nhà đạt tiêu chuẩn thấp.
Luận về các hình dáng, các vị trí công trình đã có quanh nhà, phong thuỷ có
rất nhiều điều luận bàn như về nhiễm nước, về hình thế nom như cái kiếm, điền giác,
hình xoạc chữ bát, hình chéo chữ thập, viên giác, ao hồ quanh nhà, chợ gần nhà,
đình, chùa, miếu mạo
Khi gần nhà có đình, phong thuỷ nói, huyền vũ ( sau nhà) có đình trưởng nam
có nhiều tai vạ, thanh long có đình, thứ nam có trâu bò bị tổn thương, bạch hổ có
đình thì con gái cao thanh, nhã nhặn, chu tước có đình, con cháu hung bạo, u mê.
Chẳng biết phong thuỷ căn cứ thế nào mà luận đoán như thế. Đình là nơi tụ tập, một
dạng sinh hoạt văn hoá. Phải chăng phong thuỷ luận chỉ thấy những tác hại của sự tụ
tập ăn chơi ảnh hưởng đến gia chủ có nhà gần đình mà không thấy yếu tố tích cực
của sự nâng cao cuộc sống tinh thần của văn hoá.
Lại như gần nhà có chùa chiền, phong thuỷ nói rằng sau nhà có chùa ảnh
hưởng xấu cho người trưởng nam của gia chủ. Thanh long có chùa, tức là bên trái
ngôi nhà ở mà có chùa thì người con thứ sẽ sinh con u muội. Bên phải ngôi nhà có
chùa thì con gái trong nhà lại tốt lành, làm ăn thịnh vượng. Trước nhà có chùa thì
gia chủ con đàn, cháu đống. Những điều võ đoán này thật không có cơ sở để tin.
Sau nhà mà có miếu thờ thần thì trai trưởng tổn hại trâu bò. Bên trái nhà có
miếu thần, trai thứ ốm đau quặt quẹo, chẳng ra dáng người. Phong thuỷ võ đoán như
thế chỉ reo rắc cho người nghe một tâm lý lo sợ, xa lánh nơi thờ phụng. Dường như
phong thuỷ muốn con người không nên gần nơi mà mình xây dựng nên vì lý do tinh
thần, tâm linh. Cũng không đúng thế vì, chính phong thuỷ cũng nói rằng bên phải
nhà mà có miếu thần thì con gái trong nhà làm ăn thịnh vượng. Trước nhà có miếu
thần, con cháu u mê. Cái lý trong những điều luận đoán này mà nhà phong thuỷ đời
Minh tên là Lý Đạo Truyền dâng lên vua Hồng Vũ để vua tôi bàn bạc, chiêm
nghiệm cũng chỉ là lời xàm tấu.

Để chọn đất làm nhà, qua thày phong thuỷ, ta thấy thường là khu đất đẹp. Có
sông, có núi, có cây cỏ tốt tươi. Môi trường cư ngụ được thoải mái chọn theo thày
phong thuỷ cũng đáng để tâm xem xét. Nhưng luận đoán về hàng xóm, láng giềng
như một số điều dẫn sơ lược ở trên thì không phải phong thuỷ lúc nào cũng hay,
cũng tốt.
Có phải các vua chúa bên Tàu không làm nhà, làm dinh thự nơi đất đẹp được
tính cho ngàn vạn năm trường tồn mãi mãi đâu mà rồi hết hồi cực thịnh lại đến suy
vi. Dinh thự cũng như lăng tẩm nhà Nguyễn ở Huế nước ta có phải không có thày
phong thuỷ nghiên cứu, sắp đặt đâu mà khi Cách mạng về, người vua cuối cùng Bảo
Đại vẫn dâng kiếm thoái vị.
Phong thuỷ phải chăng cũng như các hiện tượng văn hoá khác, thoạt đầu
cũng phản ánh lòng hiếu thiện, tính nhân văn. Quá lạm dụng sẽ chỉ còn là thứ ngược
văn hoá, đem lại sự u mê cho con người. Giới hạn của từng vấn đề luôn là điều mà
học giả các đời phải dày công tìm tòi xác định./.
L.K.
PHONG THUỶ TRONG BỐ TRÍ NỘI THẤT
Gs Mộc Thiên
Mở đầu bộ sách La Méthode ( Phương pháp ), tập I: Bản chất của Tự nhiên,
Edgar Morin, nhà triết học Pháp, đặt ngay câu hỏi là bản chất của tự nhiên , hỗn độn
hay có trật tự. Theo Ông thì, Vũ trụ ra đời từ một tai biến ( catastrophe), từ vụ nổ
lớn ( bigbang). Edgar Morin nhắc lại tư tưởng của René Thom, người nêu ra nội
dung cho khái niệm tai biến khi gắn liền nó với mọi phát sinh hình thái. Tai biến-
khái niệm nói về sự phá vỡ một hình thái cũ- đã bao hàm trong bản thân nó nguyên
lý hỗn độn cũng như nguyên lý trật tự. Lý do là sự phá vỡ một hình thái cũ bao giờ
cũng gắn với quá trình tạo lập hình thái mới. Như vậy trật tự và hỗn độn cùng phải
được xem xét một lúc đồng thời với nhau trong những tính đối kháng quen thuộc.
Biết đâu trong cái quan hệ qua lại trật tự và hỗn độn lại chẳng có sự bổ sung tương
tác.
Phong thuỷ đưa ra khái niệm khí và lý khí ( khí và sự phân tích về khí). Chọn
đất làm nhà, tổ chức mặt bằng cũng như hình dáng nhà phải phù hợp với các qui luật

của phong thuỷ về phương vị, về ngũ hành và các qui luật khác mong được khí lành,
khí tốt. Lý khí phải chăng muốn tìm trong những điều kiện vô cùng phong phú của
tự nhiên, đầy ắp hỗn độn thấy điều gì đó mang hình bóng của trật tự. Lý khí được
Khổng tử là người sáng lập và đứng đầu Nho giáo, người rất sùng "Lễ trị" ủng hộ và
phát triển. Ông có nhiều ảnh hưởng đến nền văn hoá Trung hoa và Việt nam ta,
Khổng tử chủ trương thiết lập một trật tự về đẳng cấp quí tộc trong xã hội và vì thế,
khi văn hoá bị ảnh hưởng của Khổng giáo đòi hỏi tính trật tự trong mọi hình thái.
Phong thuỷ là một hình thái văn hoá. Tính trật tự trong lý khí vận dụng vào phong
thuỷ phản ánh một quan niệm của người xưa mà ngày nay chúng ta thấy có nhiều
phần đúng.
Khoa học ngày nay đã phát triển mạnh mẽ và cũng vì phát triển mà người ta
thấy rằng chinh phục thiên nhiên, hoán cải thiên nhiên là điều khá ảo tưởng. Bắt
chước thiên nhiên, uốn nép theo thiên nhiên để cùng tồn tại với những điều kiện của
thiên nhiên là sự khôn ngoan và hết sức thông minh. Sau lũ lụt miền trung nước ta
vừa qua đã xuất hiện ý tưởng là cần qui hoạch cuộc sống theo phương châm cùng
tồn tại với thiên nhiên.
Nghiên cứu phong thuỷ không câu nệ những trật tự vốn dĩ mà tìm trong sự
hỗn độn của tự nhiên cái trật tự để mô phỏng theo nó, mong lợi cho con người. Có
những ý tưởng khá thực tế là sự nhận thức được rằng, càng nắm được nhiều qui luật
của thiên nhiên người ta lại cảm thấy như có bàn tay nào đó rất huyền diệu đang chi
phối điều hành vũ trụ. Đó là điều giải thích lý do của sự ra đời cúa các tôn giáo và
tín ngưỡng. Nói như Abraham H. Maslow, triết gia nhân văn hiện đại Hoa kỳ thì khi
thiên nhiên bớt hào phóng và thêm hung dữ thì con người xuất hiện nhu cầu an toàn,
muốn mình tránh được tai hoạ và đe doạ về kinh tế như thất nghiệp, mất mùa, thiên
tai ( safety needs). Phong thuỷ cố gắng tìm hiểu những sức mạnh của sự vận động
của thiên nhiên để hoà đồng trong thiên nhiên đó.
Khi nghiên cứu phong thuỷ để sắp xếp nội thất một công trình, có hai khái
niệm gọi là nhập thế và xuất thế. Nhập thế là sử dụng tri thức về luận lý, về logic để
tìm hiểu và phân tích một giải pháp cho thiết kế. Nhập thế rất quan trọng nhưng
không tránh khỏi tính chủ quan. Tính chủ quan này có thể là sự hạn chế của tri thức,

của phương pháp luận hoặc có thể do sự mù quáng của định kiến nào đấy. Xuất thế
là những giải pháp ngẫu hứng đến độ người khác có thể cho rằng phi lý. Xuất thế là
giải pháp có thể nằm ngoài kinh nghiệm và tri thức của con người bình thường.
Nhiều nhà nghiên cứu ngày nay đánh giá rằng, những giải pháp xuất thế có thành
quả tích cực gấp nhiều lần những giải pháp nhập thế.
Khi bố trí nội thất cho công trình, phong thuỷ sử dụng ba phương pháp xuất
thế cơ bản là: Liên kết khí , Cân bằng khí và Gia tăng khí.
Liên kết khí là tìm giải pháp tạo ra cho khí luân chuyển trong nội thất đầy đủ
và tạo ra sự hài hoà , ăn nhịp với cuộc sống của gia chủ.
Cân bằng khí là điều chỉnh những nhược điểm của luồng khí trong nhà hoặc
san sẻ khí ở nơi quá vượng để tạo ra sự hoàn chỉnh đồng bộ.
Gia tăng khí là dùng các thủ pháp để kích sự lưu thông khí trong nhà, đồng
thời khuấy động tạo nên sự vui tươi bên trong nhà.
Những dụng cụ và phương tiện để thực hiện các giải pháp xuất thế cơ bản là:
* Các vật phát sáng như đèn, nến, vật phản quang như gương, vật tán xạ như quả cầu
trên mặt gắn những miếng thuỷ tinh phản chiếu ánh sáng. . .
* Các vật có thể phát ra tiếng như ống sáo diều, sáo buộc vào chim câu khi chơi thả
chim, sáo trúc, chuông nhỏ, quả nhạc dạng nhạc ngựa, chùm khánh kim loại nhỏ khi
lay động kêu leng keng, ống kim loại kêu thành tiếng khi có gió làm va những ống
này vào nhau được gọi là phong linh . . .
* Cây cảnh, chậu kiểng, bể cá, bụi cây hoa,. . .
* Các vật có chuyển động như quạt gió, óng thông gió, vòi nước, con vụ quay . . .
* Các khối như tượng, bình gốm, thống gốm sứ, các tảng đá, các tảng gỗ trang trí . . .
* Các phương tiện tiện nghi sinh hoạt điện và điện tử như TV, dàn âm thanh, máy
điều hoà không khí, quạt máy, . . .
* Các bức tranh hoặc bức vẽ trực tiếp lên tường ( bích hoạ ), màu sắc quét phủ mặt
vật dụng, tường, trần và nền nhà, những lá cờ đỏ hình chữ nhật dài treo dọc, những
đèn lồng đỏ . . .
Để thực hiện các chức năng liên kết, cân bằng và gia tăng khí, khi bố trí nội
thất phải căn cứ vào khối tích, hình dạng, và cự ly, kích thước khoảng không gian

nội thất mà lựa chọn thủ pháp sử dụng cho phù hợp.
Gương được dùng khá nhiều để tạo hình ảnh sâu và tạo ra ảo giác làm rộng
thêm không gian. Gương thường khắc phục bệnh nhức đầu hoặc sự u buồn trong tâm
lý gia chủ vì nhìn vào gương, không gian thấy như rộng thêm ra, có hình ảnh động
của chính ngay người đang nhìn gương. Khi gặp không gian bên ngoài nhà làm
người sống trong nhà không thoải mái như bức tường nhà bên quá cao, che chắn ánh
sáng vào nhà, hoặc như hình ảnh mà phong thuỷ gọi là có luồng khí độc tấn công
căn buồng thì liệu pháp treo gương phía đối diện tia nhìn xấu đó cần thiết nhằm lệch
hướng của khí đe doạ người sống trong phòng. Cách bố trí hai gương nhìn vào nhau
để hình ảnh phản chiếu liên tục là cách làm phân rã sự tấn công của khí độc.
Gương trong phòng càng lớn càng tốt. Gương nhỏ ít tác dụng điều hoà khí
trong cả gian buồng. Gương treo thấp hơn đầu thì hiệu ứng kém hơn cả không dùng
gương vì những tấm gương ấy bắt tầm nhìn phải thấp hơn độ cao mắt, người nhìn
phải cúi đầu khi ngắm gương. Con người đã quen cúi đầu thì làm sao có được tâm lý
vui tươi , tự tin được. Gương treo cao quá, bắt người nhìn luôn phải ngước lên cũng
không lợi. Tuy rằng hướng nhìn lên là có lợi nhưng cả ngày, lúc nào cũng ngước lên
cao thì mỏi cổ và rồi mang nặng tâm lý mình vô tích sự, không khẳng định được
mình, xuốt đời chỉ trông nhờ người khác. Gương phải thật hình, soi gương không bị
biến hình. Gương treo đúng tầm, qua gương phản ánh được màu xanh cây cối ngoài
nhà vào gương thì tạo nên tâm lý thoải mái. Những không gian chật hẹp, gắn gương
tạo được ảo giác không bị tù túng, như thế phong thuỷ nói là đã làm nhẹ đi dòng khí.
Tấm gương tạo cho người nhìn sự yên tâm vì qua gương biết được sau mình có kẻ
nào rình rập hay sắp gây bất ngờ cho mình hay không. Gương nên bố trí đối diện với
cửa đi để qua gương quan sát được người sẽ vào phòng. Tuy thế cũng cần điều chỉnh
tầm nhìn tránh cho người sắp vào nhà quan sát hết được cảnh nhà qua gương.
Người Trung hoa thích treo những quả cầu gắn nhiều mảnh kính nhỏ . Họ
nghĩ rằng quả cầu có hình ảnh của cả bốn phương thu về quanh ta, gia chủ sẽ có tầm
nhìn xa trông rộng. Treo quả cầu trong nhà có thể điều chỉnh dòng khí vì nếu như sự
bố trí không gian nội thất có khiếm khuyết gì đó, quả cầu sẽ lôi kéo sự chú ý của tia
mắt về nó làm loãng đi các khiếm khuyết của sự bố trí nội thất. Cũng có thể lý giải

kiểu phong thuỷ cho việc treo quả cầu trên những lối đi lại chính là sự tán sắc, sự
phân bố năng lượng quá nhiều của lối đi chính cho các không gian liền kề. Với cách
lý giải như thế, quả cầu là một nguồn năng lượng tụ khí, quả cầu đó có sức mạnh
che chở cho căn buồng. Trong các chùa chiền Trung quốc, quả cầu loại này hay treo
gần tượng Phật chính của ngôi chùa như là dụng ý tạo cho Đức Phật một nguồn
năng lượng vô biên như Phật pháp. Treo quả cầu ở cửa sổ đón ánh sáng bên ngoài
vào phòng được coi là giải pháp cải thiện dòng khí lưu thông trong phòng. Quả cầu
gắn mảnh thuỷ tinh, mảnh kính có hấp thu ánh sáng, có phản xạ ánh sáng được
phong thuỷ coi như nguồn năng lượng hết sức quý giá.
Phong linh còn gọi là chuông gió cũng có tác dụng điều hoà dòng khí. Treo
phong linh bên cửa chính sẽ cân bằng dòng khí quá mạnh từ bên ngoài ồ ạt xâm
nhập vào nhà. Những nơi kinh doanh thường treo phong linh hoặc chuông nhạc nhỏ
kêu leng keng ở lối cửa vào để kêu gọi khí tích cực vào nhà. Phong linh treo nơi
mái đua, dưới mái góc nhà để dụ khí lợi vào nhà.
Cây thật hoặc ngay cả cây giả trần thiết bên trong nhà rộng là liệu pháp bố trí
nội thất có hiệu quả. Màu xanh của cây làm thư dãn sự căng thẳng mang từ nơi làm
việc về nhà vì như quan niệm chính thống thì nhà ở là nơi thư dãn, nơi tái tạo sức
lao động cho gia chủ.
Chậu kiểng, cây thế đặt ở vị trí thích hợp nhiều khi tạo sự cân bằng tia nhìn
đối với các góc nhà, các đường gờ của trụ nảy trong nhà. Trong phong thuỷ thì cây
và chậu kiểng thường là những nét cong ( âm ) sẽ hoà hợp với những gờ chỉ hoặc
đường góc thẳng ( dương). Kiến trúc sư phải căn cứ vào độ mạnh của đường thẳng
mà chọn độ đậm đặc của cây kiểng sao cho hoà hợp mà phong thuỷ gọi là tạo ra sự
hài hoà âm, dương. Để cây hoặc tranh lớn vẽ cây ở lối ra vào hay ở nơi phòng
khách, sảnh rộng phải chọn sự tượng trưng của cây. Gần đây có nhà hàng đặt bích
hoạ bụi cây chuối ngay lối vào sảnh lớn là không phù hợp vì loại cây này nói lên
tính cách ăn xổi, ở thì, thiếu bền vững. Trong phong thuỷ thường coi mỗi cây là biểu
tượng cho một tính cách nào đó. Thông biểu tượng cho sự trường tồn. Liễu yểu điệu,
buồn và bệnh. Lê lâu dài, bền chặt. Hoa hồng là sắc đẹp và tươi tắn. Tre, trúc : trẻ
trung. Lan: chịu đựng, nhẫn nại, bền lâu. Đào: tình bạn thắm đượm, chân thành.

Mẫu đơn : giàu sang, phú quí. Lựu màu mỡ, sinh sôi, phát triển. Quít, quất phú quí,
vinh hoa. Bách tượng trưng cho hoàng tộc, quí phái. Mận tươi trẻ , sắc đẹp lộng
lẫy. . .
Hồ nước và bể cá giống như chậu kiểng là biểu tượng của thiên nhiên thu
nhỏ. Khi ngôi nhà không có mặt nước quanh quất đâu đây nên có bể cá và hồ nước
để nuôi dưỡng dòng khí. Nhưng cần hết sức chú ý phải bảo đảm nước trong bể,
trong hồ là nước sạch và cá phải tươi sống. Bể cá có vòi phun nước là nguồn kích
động khí được phong thuỷ xem là công cụ có hiệu quả.
Các dạng chuyển động như quạt gió, con vụ, vật chỉ hướng gió được coi là
vật làm lưu thông khí và tạo ra sức mạnh cho gia chủ. Nước kể nhà hoặc vòi phun
nước vào các chậu cảnh hay bể nước là dọng khí mang lại của cải cho gia chủ.
Những tảng đá xếp công phu trên cơ sở lựa chọn hình khối thích hợp, những
gốc cây cưa phẳng mặt trên chân tựa vững chãi xuống nền cỏ hay nền đất biểu tượng
cho sự kiên định, quyết tâm. Đặt những vật nặng trong vườn hay trong góc nhà thể
hiện tính cách của chủ nhân là người có quyết tâm lớn, có nghị lực cũng như có chí
tung hoành.
Treo sáo trúc trong nhà nói lên nguyện vọng của chủ nhà yêu thiên nhiên, yêu
điều lành, điều thiện và mong muốn an toàn. Sáo nhiều đốt biểu trưng khí sẽ nâng
theo tầng nhà. Phong linh là những ống kim loại khi có lay động va vào nhau kêu
leng keng cũng là dụng cụ phong thuỷ dùng tạo khí trong nhà.
Về màu sắc thì người Trung hoa khá kỵ màu trắng vì họ cho rằng đó là màu
tang mà màu đen lại được coi là màu của nước, của tiền bạc, của cải. Màu vàng là
màu hoàng đế. Màu đỏ là màu vui tươi, ấm áp. Màu xanh lá cây là màu mùa xuân,
màu phát triển. Màu xanh dương như màu da trời sau khi mưa rào tạnh ( vũ quá
thiên thanh) là màu tốt nhưng nhiều người lại cho rằng màu ấy xa vời quá, mơ hồ
quá và xem ra lạnh lẽo mà thiếu tình nồng đậm.
Kiến trúc sư bố trí nội thất theo phong thuỷ thấy nhiều có nhiều qui tắc phức
tạp. Mỗi thày phán quyết theo một cách nhìn của mình. Thực ra rất tương đối vì khái
niệm về cái đẹp, về nghệ thuật còn phải tranh cãi nhau dài dài. Chọn cái nhập thế thì
hay bị bài xích vì biết bao nhiêu qui tắc, những qui tắc này hay mâu thuẫn với nhau.

Thôi thì đổ cho chọn cái xuất thế, mà cái xuất thế lại là cái ngẫu hứng. Linh nghiệm
thì hãy chờ xem mà làm cho gia chủ chịu bỏ tiền ra trần thiết lại nhờ vào cái lưỡi
biện minh.
Càng muốn tìm những qui luật của thiên nhiên lại thấy thiên nhiên càng
huyền bí. Khi con người chưa thật đủ sức mạnh , họ cần tìm sự che chở của một sức
mạnh siêu nhiên nào đó. Đó là phần hồn của mỗi người./.

BẠN CÓ BIẾT ?
NHÀ CỬA NGÀY XƯA THEO CÁCH NHÌN PHONG THUỶ
PGs Mộc Thiên
Phàm nói về nhà ở hoặc dinh thự xưa kia thì mặt chính nhà thường nhìn về
hướng Nam. Bên trái ngôi nhà ảnh hưởng đến những người con trai của gia chủ vì
bên trái chủ dương. Dọc theo bên trái nhà mà có dòng nước là nhà được thế thanh
long. Bên phải ngôi nhà ảnh hưởng đến con gái. Dọc theo bên phải nhà mà có đường
dài dong duổi thì ngôi nhà được thế bạch hổ. Đàng sau nhà , đất cao hay có gò đống
là được thế huyền vũ. Trước nhà có ao, có đầm thì ngôi nhà vào thế chu tước. Sắp
xếp hướng nhà tương quan với ngõ xóm mà đạt được cả huyền vũ, chu tước, thanh
long, bạch hổ thì gia chủ thịnh vượng. Như thế, thanh long là hướng Đông của nhà,
bạch hổ nằm ở hướng Tây, huyền vũ hướng Bắc, chu tước hướng Nam. Hình thế đất
phải là huyền vũ cúi đầu, chu tước dang cánh, thanh long uốn khúc, bạch hổ qui
thuận mới là thế đất ở được. Ngược lại với điều vừa nêu sẽ sinh báo hại.
Giai thoại kể rằng, Quản Lộ đời tam quốc bên Tàu cùng quân sĩ đi về phía tây
có dừng lại nghỉ khi gặp mộ Vô Hưu Kiệm. Nhìn xem bốn phương tám hướng
quanh mộ một hồi thì buồn rầu thở than:" Cây cối nhiều mà xơ xác. Bia mộ lời lẽ
hoa mĩ, bóng bẩy mà không thấy có hậu. Huyền vũ thì khuất mất đầu, thanh long
chẳng có chân, bạch hổ ngậm xác chết, chu tước rền rĩ. Đã từng làm quan là đã có
học vấn mà đích thân Vô Hưu Kiệm hay con cháu lại mê muội, chọn âm phần cho
mình thế này thì tránh sao khỏi hoạ diệt tộc". Con đường bên phải ngôi nhà, ngôi
mộ, mà dữ dằn như thế hổ ngồi, phong thuỷ gọi là được thế "hàm thi" nghĩa là hổ
ngậm xác chết. Đường cạnh nhà phải hiền hoà, dịu dàng, nhẹ nhàng mới đẹp. Thanh

long mà đuồn đuỗn như kiểu nằm ườn là rơi vào thế "kị chủ" nghĩa là thế ghét chủ.
Nước phải chảy lững lờ, không xiết, không tù. Dòng nước phải uốn lượn mà không
gấp khúc mới là thế đẹp. Huyền vũ mà cao vút thì chỉ như cái xác khổng lồ. Huyền
vũ phải tròn mà dâng như mây đùn, thì gia chủ mới hiển vinh. Chu tước phải lượn lờ
nếu không thì bay vút mất tăm. Cần kiêng kỵ nước chảy xiết tại nơi chu tước. Nước
chảy dữ dằn thì lâm vào thế bi khấp nghĩa là đau buồn đến chảy nước mắt. Câu
chuyện than cho Vô Hưu Kiệm cũng dựa vào thế luận của phong thuỷ mà nên.
Vị trí ngôi nhà, dinh thự, và sự tương quan trong qui hoạch tiểu khu cũng là
điều cần chú ý. So với vị trí ngôi nhà mà ngã ba đường cái đóng ở cung kiền ( tây
bắc) thì chủ nhà tuyệt tự. Ngã ba đường cái ở cung khảm ( chính bắc) thì gia chủ
tâm thần bất an. Ngã ba đường cái ở cung cấn (đông bắc) dễ bị mất mát của cải vì bị
lừa đảo hay trộm cướp. Ngày nay ta chưa thấy cơ sở khoa học nào cho những điều
võ đoán này. Ngã ba đường cái nằm ở phương tốn ( đông nam) thì gia chủ giàu sang
như mây nổi.
Hình thế công trình đã có tương quan với các vị trí huyền vũ, thanh long,
bạch hổ và chu tước rất ảnh hường đến chủ nhà. Phong thuỷ luận bàn hàng trăm thế,
dáng, vị trí xóm giềng mà những điều luận bàn ấy thường rất ít cơ sở để tin.
Ta thử xem một số luận bàn của phong thuỷ để thấy rất nhiều điều thật võ
đoán, chẳng có cơ sở nào để tin.
Khi bàn về ngã ba sông cạnh nhà, phong thuỷ nói, huyền vũ có ngã ba sông
thì con trai cả ở ngoài khuôn viên khu đất làm nhà, thanh long có ngã ba sông thì trai
thứ phải cư ngụ tại làng bên. Bạch hổ có ngã ba sông con gái đạt được hoa nương.
Chu tước là ngã ba sông, con cháu làm khách buôn.
Ngã ba sông là nơi trên bến dưới thuyền, giao thông thuỷ thuận lợi, điều đất
chật người đông mà luận đoán rằng con cái phải di dân cũng là điều chấp nhận được.
Khi đã tấp nập trên bến dưới thuyền, con gái lọt vào mắt khách vãng lai hoặc như
người con gái lại ưa trang điểm để đạt thành hoa nương cũng có thể xảy ra. Sống ở
đất buôn, con cháu thành thương gia là do hoàn cảnh, môi trường phát sinh nghề
nghiệp, điều đó cũng là lẽ thường tình.
Thông thường thì phương bắc hay vận vào trưởng nam của gia chủ, phương

đông liên quan tới thứ nam, phương tây quan hệ tới con gái , phương nam, trước nhà
ảnh hưởng đến con cháu về sau.
Xét theo cao độ của mặt đất nơi đặt ngôi nhà thì nếu đất đàng Đông cao, đàng
Tây thấp thì sinh ra khí bùn lấp nền, không tốt. Nếu mặt đất đàng Đông thấp mà
đàng Tây cao thì gia chủ sẽ giàu sang phú quý. Sự luận đoán này phù hợp với điều
vận động của vi khí hậu. Thường gió thổi chủ đạo mang sự mát mẻ cho ngôi nhà là
gió đến từ hướng Đông. Nếu Đông cao, chắn mất gió mát vào nhà hoặc mặt đất phía
Đông cao vừa phải, gió thổi vào nhà ở tầm con người là gió xoáy quẩn , đúng là
không tốt. Nếu hướng Tây đất cao lên, giữ gió tới cho ngôi nhà thì nhà ở luôn
thoáng, khí thải độc hại được gió thổi đi, gia chủ có sức khoẻ, tâm lý phấn khởi sẽ
làm nên ăn ra, giàu sang cũng là điều hợp lý.
Trước nhà đất cao hơn phía sau , phong thuỷ cho rằng gia chủ sẽ tuyệt tự,
cuộc sống cô đơn. Như đã biết nhà thường nhìn hướng Nam. Trước nhà là hướng
gió mát mà bị thế đất cao chắn hoặc làm cho gió trườn đi, làm sao những người sống
trong ngôi nhà lại có sức khoẻ được. Khi không khoẻ sẽ chẳng ham vui mà sinh con
đẻ cái. Ngược lại, sau nhà đất cao hơn phía trước thì giàu có, đầy đủ ruộng vườn, ao
cá.
Bốn mặt quanh nhà, đất cao hơn chỗ đặt nhà được thế đất "vệ thổ cư". Người
chủ trước giàu sau nghèo. Đặt nhà như thế không tốt vì đâu có được sự thông thoáng
cần thiết, xét về mặt vệ sinh môi trường khí của ngôi nhà đạt tiêu chuẩn thấp.
Luận về các hình dáng, các vị trí công trình đã có quanh nhà, phong thuỷ có
rất nhiều điều luận bàn như ngôi nhà bị nhiễm nước, hình thế miếng đất làm nhà
nom như cái kiếm gọi là điền giác, hoặc có hình xoạc chữ bát, hình chéo chữ thập
gọi là viên giác, ao hồ quanh nhà, chợ gần nhà, đình, chùa, miếu mạo
Nhà nằm ở gần đình ( nơi thờ cúng chung của làng ), phong thuỷ nói rằng,
nếu đình tại huyền vũ ( sau nhà) trưởng nam sống trong nhà chịu nhiều tai vạ, thanh
long có đình, trâu bò nhà thứ nam bị tổn thương, bạch hổ có đình thì con gái thanh
cao, nhã nhặn, chu tước có đình, con cháu hung bạo, u mê. Chẳng biết phong thuỷ
căn cứ thế nào mà luận đoán như thế. Đình là nơi tụ tập, một dạng nhà công cộng để
thờ cúng và sinh hoạt văn hoá của làng, xã. Phải chăng phong thuỷ luận chỉ thấy

những tác hại của sự tụ tập ăn chơi ảnh hưởng đến gia chủ có nhà gần đình mà
không thấy yếu tố tích cực của sự nâng cao cuộc sống tinh thần của văn hoá.
Lại như gần nhà có chùa chiền, phong thuỷ nói rằng sau nhà có chùa ảnh
hưởng xấu cho người trưởng nam của gia chủ. Thanh long có chùa, tức là bên trái
ngôi nhà ở mà có chùa thì người con thứ sẽ sinh con u muội. Bên phải ngôi nhà có
chùa thì con gái trong nhà lại tốt lành, làm ăn thịnh vượng. Trước nhà có chùa thì
gia chủ con đàn, cháu đống. Những điều võ đoán này thật không có cơ sở để tin.
Sau nhà mà có miếu thờ thần thì trai trưởng tổn hại trâu bò. Bên trái nhà có
miếu thần, trai thứ ốm đau quặt quẹo, chẳng ra dáng người. Phong thuỷ võ đoán như
thế chỉ reo rắc cho người nghe một tâm lý lo sợ, xa lánh nơi thờ phụng. Dường như
phong thuỷ muốn con người không nên gần nơi mà mình xây dựng nên vì lý do tinh
thần, tâm linh. Cũng không đúng thế vì, chính phong thuỷ cũng nói rằng bên phải
nhà mà có miếu thần thì con gái trong nhà làm ăn thịnh vượng. Trước nhà có miếu
thần, con cháu u mê. Cái lý trong những điều luận đoán này mà nhà phong thuỷ đời
Minh tên là Lý Đạo Truyền dâng lên vua Hồng Vũ để vua tôi bàn bạc, chiêm
nghiệm cũng chỉ là lời xàm tấu.
Để chọn đất làm nhà, qua thày phong thuỷ, ta thấy thường là khu đất đẹp. Có
sông, có núi, có cây cỏ tốt tươi. Môi trường cư ngụ được thoải mái chọn theo thày
phong thuỷ cũng đáng để tâm xem xét. Nhưng luận đoán về hàng xóm, láng giềng
như một số điều dẫn sơ lược ở trên thì không phải phong thuỷ lúc nào cũng hay,
cũng tốt.
Có phải các vua chúa bên Tàu không làm nhà, làm dinh thự nơi đất đẹp được
tính cho ngàn vạn năm trường tồn mãi mãi đâu mà rồi hết hồi cực thịnh lại đến suy
vi. Dinh thự cũng như lăng tẩm nhà Nguyễn ở Huế nước ta có phải không có thày
phong thuỷ nghiên cứu, sắp đặt đâu mà khi Cách mạng về, người vua cuối cùng Bảo
Đại vẫn dâng kiếm thoái vị.
Phong thuỷ phải chăng cũng như các hiện tượng văn hoá khác, thoạt đầu
cũng phản ánh lòng hiếu thiện, tính nhân văn. Quá lạm dụng sẽ chỉ còn là thứ ngược
văn hoá, đem lại sự u mê cho con người. Giới hạn của từng vấn đề luôn là điều mà
học giả các đời phải dày công tìm tòi xác định./.

L.K.
Bạn có biết ?
CÁCH KÊ GIƯỜNG NGỦ THEO PHONG THUỶ
PGs Mộc Thiên
Phòng ngủ và sự sắp xếp đồ đạc trong phòng ngủ hết sức quan trọng trong
đời sống cá nhân của chủ nhà và giữ vai trò chủ yếu trong việc tái sản xuất sức lao
động của người ta. Thày phong thuỷ lại cho rằng bố trí đồ đạc như giường bàn trong
phòng ngủ còn ảnh hưởng đến sự thành công và sức khoẻ của người sống trong
phòng.
Vị trí kê đồ đạc trong phòng ngủ phải đảm bảo cho tiện nghi sinh hoạt, vệ
sinh về không khí, ánh sáng, yên tâm về an toàn cho sức khoẻ cũng như an ninh
cuộc sống. Vị trí ngủ đủ kín đáo và an toàn, tạo ra tâm lý yên tâm khi ngủ.
Vị trí kê giường còn phải đảm bảo những yếu tố về vật lý và các yếu tố về
phong thuỷ nữa.
Chúng ta đều biết, dòng từ của trái đất tại mặt vỏ sẽ chuyển từ Bắc cực xuống
Nam cực. Dòng từ của con người đi từ đỉnh đầu toả ra chung quanh rồi chuyển tụ
xuống phía chân. Cần bố trí chỗ ngủ sao cho dòng từ của trái đất không mâu thuẫn
với dòng từ của con người. Như thế, để tạo vị trí nằm phù hợp có thể có các phương
án là chân quay về phía Bắc, đầu nằm phía Nam. Cũng có thể nằm ngang dòng từ là
đầu quay về hướng Đông, chân hướng Tây hay ngược lại, đầu theo hướng Tây, chân
hướng Đông. Trái với các hướng đó gây ra mâu thuẫn giữa dòng từ của trái đất với
dòng từ của con người. Ngoài ra, cơ thể con người cũng phân định âm dương. Lấy
trục đối xứng của người từ đầu xuống chân theo hướng mặt chia người thành hai nửa
thì nửa phải thuộc dương, nửa trái thuộc âm. Trước mặt thuộc dương, sau lưng thuộc
âm.
Dòng từ của cơ thể người Hướng nằm tốt
Ta thấy giường nằm của người Trung Hoa cổ có ba mặt che kín mà chỉ có lối
vào nằm là hở. Thường người nằm quay mặt hướng ra phía hở này. Nhiều nhà sinh
lý học khuyên tư thế nằm nên hơi nghiêng mà tay phải phía dưới để trái tim ở trên
cho tim không bị đè nặng khi ngủ.

Phong thuỷ cầu kỳ hơn nhiều. Phong thuỷ khuyên rằng , khi nằm, mặt nhìn
về hướng tốt. Hướng tốt phải theo cách tính tuổi và mệnh của người chủ để chọn.
Mệnh được phân bổ theo ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Lấy chu kỳ là 60
năm mà phân chia thì cứ hai năm chung một mệnh, như vậy có 30 mệnh cả thảy.
Như mệnh kim có bạch lạp kim, sa trung kim, kim bạch kim, xoa xuyến kim, hải
trung kim, kiếm phong kim. Cũng như vậy, có 6 dạng mệnh thuỷ là tuyền trung
thuỷ, trường lưu thuỷ, thiên hà thuỷ, đại khê thuỷ, đại hải thuỷ, giáng hạ thuỷ. Có
6 dạng mệnh hoả là tích lịch hoả, sơn hạ hoả, phúc đăng hoả, thiên thượng hoả,
lư trung hoả, sơn đầu hoả. Có 6 dạng mệnh mộc là dương liễu mộc, tòng bá mộc,
bình địa mộc, tang đố mộc, thạch lựu mộc, đại lâm mộc. Có 6 dạng mệnh thổ là
ốc thượng thổ, bích thượng thổ, sa trung thổ, lộ bàng thổ, thành đầu thổ, đại
trạch thổ. Khi biết mệnh của một người, tuỳ theo nam hay nữ mà biết cung của họ.
Cung bao gồm trong 8 hướng phương vị : Bắc là Khảm, Đông Bắc là Cấn, Đông là
Chấn, Đông Nam là Tốn, Nam là Ly, Tây Nam là Khôn, Tây là Đoài, Tây Bắc là

×