Tiểu luận triết học
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
2
Phần I- Các phép biện chứng trớc triết học Mác
3
1. Phép biện chứng tự phát ngây thơ thời cổ đại
3
1.1 Triết học Trung hoa cổ đại
3
1.2 Triết học ấn Độ cổ đại
5
1.3 Triết học Hy Lạp cổ đại
6
2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII
9
3. Phép biện chứng cổ điển Đức
10
Phần II. Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng
Mác xit
11
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép
duy vật biện chứng
11
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật
12
Phần III. Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và
phát triển của nền kinh tế nớc ta hiện nay
13
Kết luận 15
Tài liệu tham khảo 16
1
Tiểu luận triết học
Lời nói đầu
Biện chứng và siêu hình là hai phơng pháp t duy trái ngợc nhau
trong triết học. Phơng pháp siêu hình là phơng pháp xem xét sự vật
trong trạng thái đứng im, không vận động, tách rời cô lập và tách
biệt nhau. Cách xem xét cho chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật
hiện tợng ở trạng thái đứng im tơng đối, nhng nếu tuyệt đối hoá ph-
ơng pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận
thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tợng. Trong khi đó trái lại, ph-
ơng pháp biện chứng là: là phơng pháp xem xét những sự vật hiện t-
ợng và những phản ánh của chúng vào t duy, chủ yếu là trong mối
liên hệ qua lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng".
Trong lịch sử triết học có những thời gian, t duy siêu hình chiếm -
u thế so với t duy biện chứng. Nhng xét trong toàn bộ lịch sử triết
học, thì phép biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời
sống tinh thần xã hội. Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì
vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao mà đỉnh cao là phép biện
chứng duy vật Mác - xít của triết học Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác -
Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất là phép biện chứng
duy vật, coi đó là một công cụ t duy sắc bén để đấu tranh với thuyết
không thể biết, t duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và
khả năng của con ngời trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Việc nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho
chúng ta thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển
của t duy biện chứng của nhân loại. Xuất phát từ mục đích đó, tôi
chọn đề tài tiểu luận về: lịch sử phát triển của phép biện chứng
trong triết học, để nghiên cứu.
2
Tiểu luận triết học
Nội dung
Phần I- Các phép biện chứng tr ớc triết học Mác
1. Phép biện chứng thời cổ đại
Phép biên chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơi
và mang nặng tính trực quan đợc hình thành trên cơ sở quan sát tự
nhiên, xã hội hoặc thông qua kinh nghiệm của bản thân. Ba trung
tâm triết học lớn nhất thời bấy giờ là: Triết học Trung Hoa cổ đại,
triết học ấn Độ cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh những
đặc điểm chung, do đặc điểm văn hoá cũng nh hoàn cảnh lịch sử
khác nhau nên sự thể hiện t tởng biện chứng trong học thuyết triết
học mỗi trung tâm đều có những đặc điểm riêng không giống nhau.
1.1Triết học Trung Hoa cổ đại
Triết học Trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại,
có tới 103 trờng phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử
Trung Hoa lúc đó là xã hội loạn lạc, đời sống nhân dân cơ cực, đạo
đức suy đồi nên triết học Trung hoa cổ đại tập trung vào giải quyết
các vấn đề về chính trị - xã hội. Những t tởng biện chứng thời này
chỉ thể hiện khi các nhà triết học kiến giải những vấn đề về vũ trụ
quan.
Một trong những học thuyết triết học mang t tởng biện chứng sâu
sắc là Học thuyết Âm - Dơng. Đây là một học thuyết triết học đợc
phát triển trên cơ sở một bộ sách có tên là Kinh Dịch. Một trong
những nguyên lý triết học cơ bản nhất là nhìn nhận mọi tồn tại
3
Tiểu luận triết học
không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không phải
trong sự loại trừ biệt lập không thể tơng đồng. Trái lại tất cả đều bao
hàm sự thống nhất của các mặt đối lập - đó là Âm và Dơng. Âm - D-
ơng không loại trừ, không biệt lập, mà bao hàm nhau, liên hệ tơng
tác lẫn nhau, chế ớc lẫn nhau. Kinh dịch viết: "Cơng nhu tơng thôi
nhi sinh biến hoá", "Sinh sinh chi vi dịch". Sự tơng tác lẫn nhau giữa
Âm và Dơng, các mặt đối lập, làm cho vũ trụ biến đổi không ngừng.
Đây là quan điểm thể hiện t tởng biện chứng sâu sắc. Học thuyết này
cũng cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ
diễn ra theo nguyên lý phân đôi cái thống nhất nh: Thái cực (thể
thống nhất) phân đôi thành lỡng nghi (âm - dơng), sau đó âm - dơng
lại tiến hành phân thành tứ tợng (thái âm - thiếu âm, thái dơng - thiếu
dơng), tứ tợng lại sinh ra bát quái, và từ đó bát quái sinh ra vạn vật.
Tuy nhiên, học thuyết Âm - Dơng cho rằng sự vận động của vạn
vật diễn ra theo chu kỳ lặp lại và đợc đảm bảo bởi nguyên tắc cân
bằng Âm - Dơng. ở điểm này thì học thuyết Âm - Dơng phủ nhận sự
phát triển biện chứng theo hớng đi lên mà cho rằng sự vận động của
các hiện tợng chỉ dừng lại khi đạt đợc trạng thái cân bằng Âm -D-
ơng. Hơn nữa, trong học thuyết Âm - Dơng còn nhiều yếu tố duy
tâm thần bí nh quan điểm "Thiên tôn địa ty" cho rằng trật tự sang
hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự của "trời đất", họ đem trật tự xã
hội gán cho giới tự nhiên, rồi lại dùng hình thức bịa đặt đó để chứng
minh cho sự hợp lý vĩnh viễn của chế độ đẳng cấp xã hội.
Tóm lại, học thuyết Âm - Dơng là kết quả của quá trình khái quát
hoá những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân Trung Quốc
thời cổ đại. Mặc dù còn những tính chất trực quan, chất phác ngây
thơ và tồn tại những quan điểm duy tâm thần bí về xã hội, nhng học
thuyết Âm - Dơng đã bộc lộ rõ khuynh hớng duy vật và t tởng biện
4
Tiểu luận triết học
chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động,
biến hoá của sự vật, hiện tợng trong tự nhiên và xã hội.
1.2 Triết học ấn độ cổ đại
Đây là hệ thống triết học có sự đan xen hoà đồng giữa triết học
với tôn giáo và giữa các trờng phái khác nhau. Các t tởng triết học đ-
ợc thể hiện dới hình thức là một tôn giáo. Theo cách phân chia
truyền thống, triết học ấn Độ cổ đại có 9 trờng phái, trong đó có 6 tr-
ờng phái là chính thống và 3 trờng phái phi chính thống. Trong tất cả
các học thuyết triết học đó thì học thuyết triết học thể hiện trong
Phật giáo là học thuyết mang tính duy vật và biện chứng sâu sắc tiêu
biểu của nền triết học ấn Độ cổ đại.
Phật giáo hình thành từ thế kỷ VI TCN do Tất Đạt Đa, tên hiệu là
Thích Ca Mầu Ni (563 - 483 TCN), khai sáng. Phật giáo cho rằng
vạn vật trong thế giới không do một đấng thần linh nào đó tạo ra mà
đợc tạo ra bởi hai yếu tố là Danh (tinh thần) và Sắc (vật chất). Trong
đó Danh bao gồm tâm và thức, còn Sắc bao gồm 4 đại (đại địa, đại
thuỷ, đại hoả, đại phong). Chính nhờ t tởng nêu trên mà Phật giáo đ-
ợc coi là tôn giáo duy vật duy nhất chống lại thứ tôn giáo thần học
đơng thời. Đồng thời Phật giáo đa ra t tởng "nhất thiết duy tâm tao",
"vô thờng", "vô ngã". "Vô ngã" nghĩa là "không có cái ta, cái tôi bất
biến", theo đó không có cái gì là trờng tồn là bất biến, là vĩnh hằng,
không có cái gì tồn tại biệt lập. Đây là t tởng biện chứng chống lại
đạo Bàlamôn về sự tồn tại của cái tôi - átman bất biến. "Vô thờng"
tức là biến, biến ở đây đợc hiểu nh là sự biến đổi của vạn vật theo
chu kỳ: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đối với sinh vật); Thành - Trụ - Hoại -
Không (con ngời). Phật giáo cũng cho rằng sự tơng tác của hai mặt
đối lập Nhân và Duyên chính là động lực cho làm cho thế giới vận
động chứ không phải là một thế lực siêu nhiên nào đó nằm ngoài con
5
Tiểu luận triết học
ngời, thế giới là vòng nhân quả vô cùng vô tận. Nói cách khác một
vật tồn tại đợc là nhờ hội đủ Nhân, Duyên.
1.3 Triết học Hy Lạp cổ đại
Mặc dù hãy còn nhiều tính "cắt khúc", nhng triết học Hy Lạp cổ
đại đã có những phát hiện mới đối với phép biện chứng. Chính trong
thời kỳ này thuật ngữ "biện chứng" đã hình thành. Cùng với sự phát
triển mạnh mẽ về kinh tế thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Hy Lạp cổ đại đã
đạt đợc nhiều thành tựu to lớn về văn hoá, nghệ thuật, mà trớc hết là
các thành tựu trong khoa học tự nhiên nh: Thiên văn học, vật lý học,
toán học đã làm cơ sở thực tiễn cho sự phát triển của triết học trong
thời kỳ này. Triết học Hy Lạp cổ đại đã phát triển hết sức rực rỡ, trở
thành nền tảng cho sự phát triển của triết học phơng Tây sau này.
Một trong những nhà triết học điển hình có t tởng biện chứng là
Heraclit (540 - 480 TCN). Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác
- Lênin thì Heraclit là ngời sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là
ngời đầu tiên xây dựng phép biện chứng dựa trên lập trờng duy vật.
Phép biện chứng của Heraclit cha đợc trình bày dới dạng một hệ
thống các luận điểm khoa học mà hầu nh các luận điểm cốt lõi của
phép biện chứng đợc đề cập dới dạng các câu danh ngôn mang tính
thi ca và triết lý. T tởng biện chứng của Heraclit đợc thể hiện nh sau:
Một là Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo
Heraclit thì không có sự vật, hiện tợng nào của thế giới là đứng im
tuyệt đối, mà trái lại, tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển
hoá. Ông nói: "Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông
vì nớc mới không ngừng chảy trên sông"; "Ngay cả mặt trời cũng
mỗi ngày một mới". Theo quan điểm của Heraclit thì lửa chính là
bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất
cả mọi sự vật, hiện tợng. Đồng thời lửa cũng chính là gốc của mọi
6
Tiểu luận triết học
vận động, tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái
chuyển hoá của lửa mà thôi.
Hai là Heraclit nêu lên t tởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu
thuẫn trong mọi sự vật, hiện tợng. Điều đó thể hiện trong những
phỏng đoán về vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ
biến của tự nhiên về "sự trao đổi của những mặt đối lập", về "sự tồn
tại và thống nhất của các mặt đối lập". Ông nói: "cùng một cái ở
trong chúng ta - sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này
biến đổi là cái kia; và ngợc lại, cái kia mà biến đổi thành cái này ".
Heraclit đã phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt
đối lập. Lê nin viết: "Phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ
phận đối lập của nó là thực chất của phép biện chứng. Điều này
chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit".
Ba là Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của
thế giới do quy luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định.
Logos khách quan là trật tự khách quan là mọi cái đang diễn ra trong
vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ học thuyết của con ngời. Logos chủ
quan phải phù hợp với logos khách quan. Ngời nào càng tiếp cận đợc
logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Lý luận
nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai nh-
ng cơ bản là đúng.
ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có đ-
ợc t tởng biện chứng sâu sắc nh vậy. Chính là những t tởng biện
chứng sơ khai của Heraclit sau này đã đợc các nhà biện chứng cổ
điển Đức kế thừa và các nhà sáng lập triết học Macxít đánh giá cao.
C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh gía một cách đúng đắn giá trị triết học
của Heraclit và coi ông là đại biểu xuất sắc nhất của phép biện chứng
Hy Lạp cổ đại: "Quan niệm về thế giới một cách nguyên thuỷ, ngây
7
Tiểu luận triết học
thơ nhng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà Hy Lạp thời
cổ và ngời đầu tiên diễn đạt đợc rõ ràng quan niệm ấy là Heraclit".
(
1
)
Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (460 - 370
TCN) đã kế thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng
vận động của nguyên tử là vĩnh cửu và ông đã cố gắng giải thích
nguyên nhân vận động của nguyên tử là ở bản thân nguyên tử, ở
động lực tự thân. Ông cho rằng còn khoảng trống hay còn "chân
không" trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên
Đêmôcrit đã không lý giải đợc nguồn gốc của vận động.
Sau Đêmôcrit là Arixtốt (384 - 322 TCN) ông cho rằngvận động
gắn liền với các vật thể với mọi sự vật, hiện tợng của giới tự nhiên.
Ông cũng khẳng định vận động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận
động và mãi mãi sẽ có vận động". Arixtốt là ngời đầu tiên đã hệ
thống hoá các hình thức vận động thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt,
thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí .
Tuy nhiên Arixtốt lại dơi vào duy tâm vì cho rằng thần thánh là
nguồn gốc của mọi vận động.
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhng chủ
yếu mới dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài. Phép
biện chứng tự phát thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế
giới trong sự tác động, liên hệ của các mặt đối lập, song cha đi sâu
vào chi tiết của bức tranh. Vì vậy, nó không tránh khỏi bị phủ định
bởi phép siêu hình trong thời kỳ cận đại.
2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trởng
thành của t tởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo.
1
)
Ph. Ănghen: Chống Đuyrinh, NXB Sự Thật Hà nội, 1971, tr33.
8
Tiểu luận triết học
Phép biện chứng trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị
của t duy siêu hình.
Sau đêm trờng Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo
điều gắn với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hng, triết học thời kỳ
này đã khôi phục lại những t tởng duy vật cổ đại nhng vẫn còn mang
tính phiếm thần, yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép
biện chứng thời kỳ này vẫn có bớc phát triển nh t tởng về "sự phù
hợp của các mặt đối lập" của Gioocdanơ Brunô (1548 -1600). Theo
G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể từ các hạt
vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái
này tiêu diệt cái kia ra đời. Nếu không theo nguyên tắc "các mặt đối
lập phù hợp với nhau" thì dù là nhà toán học, nhà vật lý, cả nhà triết
học cũng không làm việc đợc.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là
Ph.Bêcơn (1561 - 1626). Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách
rời vận động, nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động
của chúng. Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại. Tuy nhiên
tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại vận động về
vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là
một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật
chất, ông là ngời đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế
giới.
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu
mổ xẻ phân tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên
cứu. Những phơng pháp đó đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét
sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời và bất biến. Từ khi Ph.Bêcơn
và Lốccơ đem phơng pháp trong khoa học tự nhiên áp dụng vào triết
học thì phơng pháp siêu hình trở thành phơng pháp thống trị trong
triết học.
9
Tiểu luận triết học
Phơng pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong
quá trình nhận thức giới tự nhiên, phơng pháp đó chỉ thích ứng với
trình độ su tập, mô tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang
nghiên cứu các quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tợng
thì nó bộc lộ rõ những hạn chế. Vì vậy nó không tránh khỏi bị phủ
định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là
phép biện chứng Hêghen.
3. Phép biện chứng cổ điển Đức
Nh Lênin đã từng đánh giá: Dù có sự thần bí hoá duy tâm, nhng
phép biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện
chứng và logic học và lý luận nhận thức. Trong các nền triết học trớc
C. Mác thì triết học cổ điển Đức có trình độ khái quát hoá và trừu t-
ợng hoá cao với kết cấu hệ thống chặt chẽ, logic. Đây là tiến bộ của
nền triết học Đức so với các nền triết học khác. Nền triết học cổ điển
Đức bắt đầu từ Kantơ, đạt đỉnh cao ở Hêghen sau đó suy tàn ở triết
học Phoiơbắc.
Kantơ (1724 - 1804) là ngời sáng lập ra trờng phái triết học cổ
điển Đức. Ông cho rằng chỉ khi nhận thức ở trình độ lý tính thì mới
có mâu thuẫn mà cha thấy đợc rằng mâu thuẫn là vốn có trong hiện
thực khách quan. Mâu thuẫn cha phải là mâu thuẫn biện chứng giữa
chính đề và phản đề, cha có sự thống nhất và chuyển hoá lẫn nhau.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhng trong vấn đề này Kantơ đã tiến gần
đến phép biện chứng.
Hêghen (1770 -1831) là nhà biện chứng lỗi lạc. Phép biện chứng
của ông là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết
học của ông có ảnh hởng rất mạnh đến t tởng của nớc Đức và cả
Châu Âu đơng thời, triết học của ông đợc gọi là "tinh thần Phổ".
Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm tức là phép
biện chứng về sự vận động và phát triển của các khái niệm đợc ông
10
Tiểu luận triết học
đồng nhất với biện chứng sự vật. Ông viết: "phép biện chứng nói
chúng là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt
động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng là linh hồn của mọi
nhận thức khoa học chân chính "
(
1
)
. Luận điểm xuyên suốt trong hệ
thống triết học của Hêghen là: "Tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp
lý và tất cả những gì hợp lý đều là tồn tại"
(
2
)
.
Hêghen là ngời đã có công trong việc phê phán t duy siêu hình và
là ngời đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và t duy một
cách biện chứng, có nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát
triển không ngừng. Trong logic học, Hêghen không chỉ trình bày các
phạm trù triết học nh lợng - chất, vật chất - vận động mà còn đề cập
đến các quy luật khác nh lợng đổi dẫn đến chất đổi, quy luật phủ
định biện chứng. Nhng tất cả chỉ là những quy luật vận động, phạm
trù của t duy, của khái niệm.
Khi nghiên cứu xã hội, Hêghen khẳng định sự phát triển cuả xã
hội là sự đi lên. Quá trình phát triển của lịch sử có tính kế thừa. Lịch
sử là tính thống nhất giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt
động của con ngời. Hêghen đã có công xây dựng một hệ thống các
phạm trù và quy luật của phép biện chứng nh là những công cụ của t
duy biện chứng.
Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chứa đựng những t tởng
biện chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm
bảo thủ, thể hiện ở: Sự vận động của xã hội là do sự vận động của t
duy (ý niệm tuyệt đối) sinh ra. Do đó mà C.Mác gọi phép biện chứng
của Hêghen là: "Phép biện chứng đi lộn đầu xuống đất". Vì vậy, cần
1
)
Triết học dành cho cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên nghành triết học, NXB Chính trị quốc
gia, 1997, tập 1, tr331.
(2) C.Mác -Ph.Ănghen, Tuyển tập, NXB Sự Thật, Hà nội, 1984, tr361.
11
Tiểu luận triết học
phải đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực, nghĩa là
trên quan điểm duy vật.
II. Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác - xit
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép biện
chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phơng thức sản
xuất t bản chủ nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô
sản và t sản đã cung cấp thực tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc
kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng. Dựa trên cơ sở
thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi
vào hệ thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây là hai tiền đề
thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật.
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý
vốn có của nó là phép biện chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tợng
tự nhiên xã hội và t duy một cách thần thánh hoá t duy, nói cách
khác các ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm
Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trớc đây
duy vật nhng siêu hình (Triết học cận đại) hoặc biện chứng nhng duy
tâm (cổ điển Đức). Phép biện chứng duy vật không chỉ duy vật trong
tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh vực xã hội, do đó các ông đã xây
dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trớc, còn biện
chứng chủ quan (t duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của
biện chứng khách quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng
12
Tiểu luận triết học
duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác
cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm
của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là đứng trên nền tảng
duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên
hệ phổ biến trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong t duy". Theo
Lênin thì phép biện chứng là "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu
sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính tơng đối của sự vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối
liên hệ cùng tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau
tuy có sự khác nhau nhng vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự
chuyển hoá vận động và phát triển. Các mối liên hệ đợc khái quát
thành các cặp phạm trù nh( phần tử - hệ thống, nguyên nhân - kết
quả, lợng - chất) và các quy luật (quy luật lợng - chất, quy luật đấu
tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ
định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai
cấp của để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân
dân lao động. Trong khi đó các nền triết học trớc Mác che dấu lợi ích
của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của một nhóm ngời
thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở,
không ngừng đợc bổ sung, đợc làm phong phú thêm bởi chính thực
tiễn và phát triển. Cùng với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết
của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động.
Những nội dung chính của phép biện chứng đợc C.Mác và Ph.
Ănghen luận chứng trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên"
(1873 - 1883), "Chống Đuy -rinh" (1876 -1878), "Lút-vich
13
Tiểu luận triết học
Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" và một số tác
phẩm do V.I.Lênin viết nh: "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán" (1908 -1909), "Bút ký triết học".
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín
muồi về mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội.
Sự ra đời của nó đáp ứng nhu cầu về mặt lý luận của giai cấp công
nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của phép biện chứng gắn với
tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công phép biện chứng
Mác-xít trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mời Nga năm
1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể
hiện trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa nh là một công cụ sắc
bén để cải tạo thế giới một cách cách mạng nhất.
III. phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển
của nền kinh tế nớc ta hiện nay.
Phép biện chứng là một phơng pháp nghiên cứu xem xét các sự
vật hiện tợng trong mối liên hệ giữa các mặt và giữa các sự vật hiện
tợng đó và trong sự đứng im tơng đối.
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua sự phát
triển của CNTB, xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát
triển. Đó là con đờng quá độ lâu dài, mà có thể nói mâu thuẫn cơ bản
của thời kỳ này là mâu thuẫn giữa xu hớng tự phát lên chủ nghĩa t
bản với xu hớng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách mạng nớc ta là quá
trình vừa phải kế thừa những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa t
bản để phát triển lực lợng sản xuất lại vừa phải đấu tranh loại bỏ
những mặt tiêu cực, mất nhân tính của chủ nghĩa t bản. Con đờng
quá độ lên CNXH ở nớc ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát
14
Tiểu luận triết học
triển và sử dụng CNTB làm khâu trung gian, làm phơng tiện để đi
lên CNXH, nhất là hớng t bản đi vào con đờng t bản Nhà nớc. Đó
chính là sự thống nhất của các mặt đối lập thông qua các biện pháp
trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định
sạch trơn CNTB, không thể cho rằng cái gì đó có trong CNTB là
không thể có trong CNXH, càng không thể áp dụng nguyên vẹn mô
hình CNXH ở nớc khác để xây dựng nớc ta. Chúng ta phải nhận thức
đợc tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây dựng thành công
CNXH, chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác - Lênin làm kim chi
nam cho hành động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình hình
thực tế của các XHCN, TBCN trên thế giới để áp dụng vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của nớc ta.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trờng, chúng
ta lại gặp phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn
giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Nền kinh tế thị trờng là
nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trờng. Cơ chế thị tr-
ờng là cơ chế tự điều tiết của thị trờng thông qua hoạt động của các
quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế thị trờng có u điểm ở chỗ là
phát huy đợc tính năng động sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế trong
việc đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của xã hội. Tuy nhiên cơ
chế thị trờng đồng thời kích thích đầu cơ, làm sai lệch các quan hệ
thị trờng, gây ra khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, ô nhiễm môi tr-
ờng, tệ nạn xã hội. Một trong những đặc điểm của nền kinh tế
XHCN là xây dựng một Nhà nớc "của dân, do dân, vì dân", xây dựng
một xã hội "công bằng văn minh". Trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã khẳng định: "Sản
xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu
của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan, cần thiết cho công
15
Tiểu luận triết học
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội đã
đợc xây dựng"
(
1
)
. Để giữ vững bản chất CNXH trong phát triển kinh
tế Nhà nớc cần sử dụng các công cụ của mình để tiến hành điều tiết
lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành viên trong xã
hội đợc hởng thành quả trong phát triển kinh tế. Nhà nớc có thể sử
dụng các công cụ nh thuế thu nhập cao, trợ cấp, bảo hiểm để tiến
hành phân phối lại thu nhập xã hội; xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển xã hội. Đây chính là
công cụ, phơng tiện quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn
trên làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hớng XHCN.
1
)
Văn kiện Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 1997, tr25
16
Tiểu luận triết học
Kết luận
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng trong
triết học, có thể khẳng định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế
kỷ hình thành và phát triển từ phép biện chứng tự phát, thô sơ cổ
đại cho đến phép biện chứng duy tâm Hêghen của triết học cổ
điển Đức và đạt đến đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mác - xít
thì phép biện chứng luôn là công cụ sắc bén, là chìa khoá giúp
con ngời nhận thức và cải tạo thế giới để phục vụ nhu cầu chính
bản thân con ngời.
Hiện nay, đất nớc ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới,
tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu phép
biện chứng một cách có hệ thống, nhất là việc nắm vững các nguyên
tắc và vận dụng những nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy
vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới t duy, là định hớng t tởng và
mang lại cho chúng ta công cụ t duy sắc bén để đấu tranh chống lại
t duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu
XHCN của cách mạng nớc ta.
Phép biện chứng là một phát hiện lớn của nhân loại trong quá
trình nhận thức tự nhiên, xã hội và t duy. Nghiên cứu lịch sử của
phép biện chứng trong triết học là một vấn đề rất lớn trong triết học,
đòi hỏi có nhiều công sức của các nhà triết học với nhiều công trình
khảo cứu sâu sắc. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ không thể đề
cập đợc hết các khía cạnh của một vấn đề lớn đặc biệt là phép biện
chứng duy vật mác-xít, do đó tôi rất mong sự đóng góp ý kiến khoa
học của các thầy cô giáo và các bạn học viên để bài viết đợc hoàn
chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
17
TiÓu luËn triÕt häc
18
Tiểu luận triết học
Tài liệu tham khảo
1. Tập bài giảng triết học dành cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên nghành triết học. NXB Chính trị quốc
gia 1997
2. Lịch sử phép biện chứng (tập 1, 2, 3), Viện triết học Liên Xô
(cũ)
19