Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn hóa (khảo sát trường hợp lê thánh tông qua lịch sử và văn học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.72 KB, 6 trang )

Nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn
hóa (Khảo sát trường hợp Lê Thánh Tông qua
lịch sử và văn học)


Phạm Võ Thanh Hà


Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển
Luận văn ThS. ngành: Việt Nam hoc; Mã số: 60 31 60
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Nho Thìn
Năm bảo vệ: 2011


Abstract. Nghiên cứu những con đường hình thành chế độ Đế quyền. Nghiên cứu
nhân vật Hoàng đế và những quyền lực, phẩm chất cần có của Hoàng đế thông qua
việc nghiên cứu nhân vật Hoàng đế Lê Thánh Tông. Trình bày các hình thức bảo vệ
Đế quyền như: Quân sự, Chính trị, Văn hóa tâm linh, Văn hóa, Văn học nghệ thuật.

Keywords. Lịch sử Việt Nam; Việt Nam học; Hoàng đế; Nhân vật lịch sử

Content
1. Lý do, mục đích chọn đề tài
Trong cả nghìn năm tồn tại của thể chế quân chủ truyền thống Việt Nam, Hoàng đế là
một “nhân vật” đặc biệt. Đặc biệt, bởi Hoàng đế là trung tâm của toàn xã hội, đứng đầu một
thời đại kéo dài nhiều thế kỷ (thời đại quân chủ). Hơn nữa, bản thân “ông ta” là một nhân vật
văn hóa và có chi phối đáng kể đến văn hóa của một thời kỳ lịch sử nhất định. Do những biến
động lịch sử (trực tiếp hoặc gián tiếp, ngấm ngầm hoặc công khai), các vương triều có thể thay
thế lẫn nhau (dưới hình thức chuyển giao quyền lực êm đẹp hay bạo loạn lật đổ) ở những thời
điểm nhất định, nhưng nhân vật Hoàng đế thì vẫn còn đó - như biểu tượng của một hình thái
kinh tế - xã hội,. Nhân vật Hoàng đế chỉ mất đi khi xã hội đã chuyển sang một thời đại khác -


tức thời đại của nhân vật Hoàng đế không còn lý do để tồn tại, đồng hành cùng lịch sử.
Có thể thấy, “nhân vật” Hoàng đế một mặt mang tính đại diện cho một dân tộc - quốc
gia trong nhiều thế kỷ, thậm chí cả nghìn năm lịch sử; mặt khác, bản thân “ông ta” lại tiêu
biểu cho một thiết chế chính trị nhất định - thiết chế quân chủ, đại diện cho một nền văn hóa
nhất định. Nói cách khác, một Hoàng đế đúng nghĩa phải đảm nhiệm hai “vai” trên sân khấu
chính trị của thời đại mình phản ánh sự lựa chọn văn hóa của một dân tộc vào một thời đại.
Mọi nghiên cứu về các ông vua, không để ý tới đặc điểm quan trọng này, thường không toàn
bích. Ấy thế nhưng, ở thời hiện đại, khi tìm hiểu về các Hoàng đế/ông vua, người ta thường
đứng trên lập trường của chủ nghĩa dân tộc và mang nặng dấu ấn giai cấp: có thể hết lời ca
ngợi người đứng đầu chế độ quân chủ với những chiến công hiển hách (nhất là dẹp nội thù -
chống xâm lăng), những cải cách - thành tựu nổi bật về kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời
gian trị vì… song lại ra sức đả phá, công kích xã hội phong kiến rằng nó lạc hậu, phản động,
người bóc lột người. Thật phi lý khi cơ sở xã hội sinh ra Hoàng đế thì “xấu xa”, mà người đại
diện cho nó lại “tốt đẹp”. Không còn nghi ngờ gì nữa, cách tiếp cận này đã tồn tại nhiều mâu
thuẫn, bất ổn bởi Hoàng đế và chế độ quân chủ luôn có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại,
không thể là hai thái cực đối lập/nghịch. Cho nên, một công trình nghiên cứu từ quan điểm
nhân loại học văn hóa (nhân loại học) về nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn hóa là
vô cùng cần thiết. Không thể hiểu đúng, hiểu toàn diện nhiều vấn đề về lịch sử - xã hội, văn
hóa - văn học nước ta mấy thế kỷ trước nếu bỏ qua “nhân vật” này. Và Lê Thánh Tông (1442
-1497), với cuộc đời - sự nghiệp để lại, hoàn toàn xứng đáng là một “trường hợp” Hoàng đế
tiêu biểu, nhân vật văn hóa lớn không chỉ của riêng thế kỷ XV. Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn
đề tài: Nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn hóa (khảo sát trường hợp Lê Thánh
Tông qua lịch sử và văn học) cho luận văn thạc sỹ Việt Nam học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói ở phần đầu, chúng ta đang chờ đợi một công trình nghiên cứu riêng về
nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn hóa, nên đương nhiên, trong phần lịch sử vấn đề
được triển khai dưới đây, chúng tôi đứng trước thực trạng có vẻ mâu thuẫn khi nhắc đến công
phu, tâm huyết của những nhà nghiên cứu đi trước. Có vẻ mâu thuẫn vì đến hôm nay, những
nghiên cứu riêng về Lê Thánh Tông khá nhiều, song khảo luận về nhân vật Hoàng đế chưa
phải đã thật phong phú, đa dạng - nhất là còn chưa nhiều công trình nhìn nhà vua từ phương

diện văn hóa - văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa tâm linh, văn hóa nghệ thuật …
Không thể không nhắc tới ở đây công trình của tác giả Lê Kim Ngân, tìm hiểu Chế độ
chính trị Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII - được Phân khoa Khoa học Xã hội - Viện Đại học
Vạn Hạnh xuất bản năm 1974.
Với Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVIII và XVIII, trước thực tế đáng buồn là
“Không một nhà Pháp chế sử Tây phương nào biết đến và nhắc tới thể chế vua chúa lưỡng đầu
tại Việt Nam, một thể chế tồn tại suốt hai thế kỷ XVII - XVIII trên đất Đại Việt, song hành với
chế độ Mạc phủ tại Nhật và trước cả chế độ Đại nghị tại Anh, và chế độ lưỡng đầu này của Việt
Nam cũng có rất nhiều nét tiêu biểu chung của bất cứ loại lưỡng đầu chế nào đã từng được áp
dụng trên thế giới”, Lê Kim Ngân “thấy cần phải bổ khuyết sự thiếu sót của các nhà Pháp chế
sử Tây phương bằng cách trình bày rõ lưỡng đầu chế tại Việt Nam dưới thời Lê Trung hưng
ngõ hầu góp phần vào việc nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc và các định chế lưỡng đầu trên thế
giới” [22, 8].
“Trình bày rõ lưỡng đầu chế tại Việt Nam”, đương nhiên, công trình của Lê Kim
Ngân đã dành một dung lượng đáng kể để tìm hiểu “Nguồn gốc danh xưng Thiên tử và Bá
chủ” cũng như “Danh hiệu Thiên tử và Bá chủ tại Việt Nam”. Hai phần trình bày này giúp
chúng tôi những hiểu biết cơ bản, góp phần làm sáng tỏ nội dung các chương chính của luận
văn.
Tiếp nối Lê Kim Ngân, tại hội thảo quốc tế lần thứ nhất về Việt Nam học được tổ
chức tại Hà Nội (tháng7/1998), Vladimir Antoshchenko, một học giả người Nga có tham luận
về “Dòng họ các chúa Trịnh ở Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII”, nghiên cứu thể
chế cai quản và chính trị của phủ chúa… song, đã đề cập tới quá trình tập trung quan liêu của
nhà nước Lê Sơ trước đó. Theo V. Antoshchenko, “sau các nỗ lực của vua Lê Thánh Tông
(trị vì từ 1460 đến 1497) nhằm biến Việt Nam (đúng ra là Đại Việt?) thành một đế chế quan
liêu kiểu Trung Quốc, đã diễn ra một quá trình tập quyền hóa. Tiếp theo giai đoạn giảm bớt
các tước vị và quyền hành của quan lại là giai đoạn cô đúc các nguyên tắc tổ chức cũ (ví dụ
tạo ra tính đồng nhất hay chuyên nhất trong việc cai quản) và tạo ra các thuộc tính mang tính
hình thức của quyền lực với các điều kiện cai trị mới trong bộ máy hành chính của các quan
lại (như cai trị theo vùng lãnh thổ)”…
Sau Vladimir Antochenko là nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương với bài viết Mẫu hình

hoàng đế và con đường tìm kiếm sự thể hiện bản ngã trong triết học và văn học khu vực
Đông Á, được tác giả công bố vài lần trong các công trình nghiên cứu về văn học trung đại
Việt Nam như: Văn học Việt Nam - Dòng riêng giữa nguồn chung, Về con người cá nhân
trong văn học cổ Việt Nam Tuy đặt mục tiêu tìm kiếm con đường thể hiện bản ngã trong
triết học và văn học qua “mẫu hình hoàng đế”, nhưng bài viết này cũng giúp chúng tôi rất
nhiều trong cách nhận thức, triển khai vấn đề. Theo Trần Ngọc Vương, thế giới quan quân
chủ và độc tôn của người Trung Hoa cổ đại thể hiện một cách tiêu biểu và cực đoan trong
một mô hình tam vị nhất thể: Thiên mệnh - thiên hạ - thiên tử. “Có thể nói đến một số phẩm
chất cơ bản mà mọi hoàng đế cần có” là: chí hiếu, chí nhân, chí minh, chí thành chí kính [39,
56]. Song, trên thực tế, không có bất kỳ một đấng quân vương nào “có thể thực hiện được dù
chỉ một phần những đòi hỏi lý tưởng như vậy. Nhà nho chỉ có thể nói đến các bậc thánh
vương trong cõi mịt mờ của dã sử và huyền thoại, những Nghiêu Thuấn Võ Thang, những
Tam Hoàng Ngũ Đế không rõ chính tích và hành vi thường nhật, trong khi có thể dẫn ra vô số
tấm gương phản diện của các hoàng đế dọc theo lịch sử của bất kỳ quốc gia nào có Nho giáo
làm ý thức hệ”. Rồi “chỉ hoàng đế - thiên tử mới có quyền đặt định lễ nhạc, chế độ, triều
nghi, quan duyệt phong tục, quyết đoán những vấn đề về lãnh thổ về quan hệ đối ngoại và
phát động chiến tranh”; “ý chí hoàng đế là luật pháp tối cao”; “độc quyền của hoàng đế -
thiên tử mở ra vô hạn độ”… Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương đặc biệt tâm đắc với con
đường từ “đại ca” phát triển (nếu thành công) lên “đại vương” của loại “anh hùng, hào kiệt”,
nhất là người anh hùng thời loạn [39, 62].
Về Lê Thánh Tông, cho đến cuối thế kỷ XX, nhân kỷ niệm 500 năm mất của Thiên
Nam động chủ (1497 - 1997), nhiều cuộc hội thảo lớn đã được tổ chức ở Thanh Hóa (quê
hương nhà Lê) cũng như thủ đô Hà Nội về ông vua thứ tư nhà Lê Sơ. Một số lượng đáng kể
các bài tham luận - cùng với không ít công trình từng xuất hiện rải rác trước đó trên các tạp
chí - đã được cố Phó giáo sư Bùi Duy Tân biên soạn, tập hợp thành cuốn sách khá dày dặn,
bề thế: Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm.
Có đến 40/65 đơn vị bài trong Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm (không tính phần
Nẻo đường công luận hay Lời nói đầu, Lời giới thiệu, Niên biểu, Thư mục) bàn đến một hay
vài, thậm chí cả tập thơ chữ Hán, chữ Nôm của Lê Thánh Tông (hoặc ông là đồng tác giả) -
như Hội Tao đàn (Lâm Giang), Hồng Đức quốc âm thi tập - Một tác phẩm lớn của văn học

tiếng Việt thế kỷ XV (Bùi Duy Tân)… song nhìn chung, thơ ca không phải là thành tố “đầu
tiên”, càng không phải thành tố “quan trọng nhất” để dựng nên chân dung một “nhân vật văn
hóa” như Hoàng đế Lê Thánh Tông (nhiều vị hoàng đế khác trong lịch sử dân tộc không làm
thơ thì đã sao?; họ vẫn là một “nhân vật văn hóa” đấy thôi). 25/65 bài còn lại tìm hiểu cụ thể
về muôn mặt đời sống trong thời đại Lê Thánh Tông (quân sự, pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã
hội)… Đặc biệt, bài khái luận của Bùi Duy Tân: Lê Thánh Tông - Vị hoàng đế anh minh, nhà
văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc đem lại một cái nhìn khá toàn diện về ông vua thứ tư
nhà Hậu Lê.
Định danh Lê Thánh Tông là “vị hoàng đế anh minh”, vì ông lên ngôi giữa lúc chính
sự nước nhà “nghiêng ngả”, vậy mà Thiên Nam động chủ đã nhanh chóng củng cố chính
quyền - tổ chức còn hoàn bị hơn cả những thời đại trước với một phủ Phụng Thiên (tức kinh
đô Thăng Long) và 13 thừa tuyên. Đất nước Đại Việt thời này vững mạnh về quốc phòng,
không ngừng mở rộng lãnh thổ về phương Nam, nhiều lần đánh lui các đạo quân xâm lược
Chiêm Thành cũng như kẻ thù quấy rối miền biên viễn.
Định danh Lê Thánh Tông là “nhà văn hóa lỗi lạc”, vì ông đã xây dựng một nền văn
hóa mới nhiều tiến bộ, dựa trên nền tảng ý thức hệ Nho giáo, coi trọng pháp luật - lễ nghĩa.
Thậm chí, thời vị vua thứ tư nhà Lê Sơ trị vì có thể xem là giai đoạn cực thịnh nhất của Nho
giáo trong cả nghìn năm quân chủ Việt Nam khi giáo dục - khoa cử đạt nhiều thành tựu rực rỡ,
nhà vua biết phát hiện và trọng dụng - tôn vinh nhân tài, các công trình có giá trị về văn học -
lịch sử được triều đình tổ chức biên soạn, đồng thời đón nhận lại “di sản bị mất giá” của Ức
Trai… Yếu tố Nho giáo được cái tác giả nhấn mạnh trong thời đại Lê Thánh Tông là điểm nổi
bật, gợi ý cho chúng tôi cách triển khai đề tài.
Định danh Lê Thánh Tông là “một văn hào dân tộc”, vì sự nghiệp văn học của ông
khá bề thế - đa dạng (dù đây đó còn những tồn nghi không tránh khỏi về câu thơ, bài thơ cụ
thể), có nhiều đóng góp ở cả 2 mảng sáng tác: chữ Hán và chữ Nôm với hàng trăm bài thơ,
áng văn chính luận… còn lại đến ngày hôm nay. Chưa nói đến, lần đầu tiên trong lịch sử
nước nhà có chuyện vua tôi cùng xướng họa làm thơ nhân đất nước được mùa mấy năm liên
tục (1493 - 1494). Một sinh hoạt văn hóa thật độc đáo bởi hàng trăm năm sau Lê Thánh
Tông, rất nhiều đời chúa Trịnh và không ít vua nhà Nguyễn đều là những người hay chữ (như
Tự Đức có đến cả nghìn bài thơ), nhưng sinh họat văn học mang ý nghĩa “sân chơi” tao nhã

giữa cung đình như trên đây đã không còn được tổ chức.
Ngoài bài khái luận trên đây, cố Phó Giáo sư Bùi Duy Tân còn đứng tên tác giả của
nhiều bài viết có giá trị khác về cuộc đời, thơ văn Thiên Nam động chủ như: Lê Thánh Tông
và bước phát triển mới của văn học trung đại Việt Nam, Hội Tao đàn - Quỳnh uyển cửu ca và
vai trò Lê Thánh Tông, Hồng Đức quốc âm thi tập - một tác phẩm lớn của văn học tiếng Việt
thế kỷ XV, Lễ Vu Lan - Tiết Trung nguyên và hai bài văn tế cô hồn thời cổ… giúp chúng tôi
hiểu đúng về quan niệm sáng tác văn chương của một ông vua theo tinh thần Nho giáo cũng
như bức chân dung tinh thần, di sản Lê Thánh Tông giai đoạn nửa sau thế kỷ XV.
Gần đây hơn, trong không khí khắp nơi trên cả nước hướng đến Đại lễ 1.000 năm
Thăng Long, tại hội thảo Văn học, Phật giáo với 1.000 năm Thăng Long được tổ chức ở Bình
Dương (28/8/2010), giáo sư Nguyễn Đình Chú có tham luận Đệ nhất minh quân Lê Thánh
Tông - Nhà văn hóa lớn của đất nước Đại Việt. Theo tác giả, ở vị vua thứ tư nhà Hậu Lê có
phương diện văn hóa tự thân và có phương diện văn hóa trên cương vị một đệ nhất minh quân
trị bình thiên hạ. Phương diện văn hóa tự thân của Thánh Tông Thuần hoàng đế là thần sắc
khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang, thực là bậc thông minh
xứng đáng làm vua, bậc trí dũng đủ để giữ nước cùng “bấy nhiêu văn phẩm, cả Nôm và Hán,
cả văn và thơ của Lê Thánh Tông” đã “cho thấy tư tưởng, tình cảm của một ông vua xứng
đáng là đệ nhất minh quân: Yêu nước, thương dân, yêu cảnh trí, thiên nhiên, yêu những nhân
cách lớn”. Phương diện văn hóa trên cương vị một đệ nhất minh quân trị bình thiên hạ thì thể
hiện ở sáu điều cơ bản: lựa chọn, xây đắp cho đất nước một học thuyết làm nền của sự phát
triển; sử dụng hiền tài trong công cuộc “trị bình thiên hạ”; chăm lo phát triển giáo dục và mở
rộng, kiện toàn chế độ thi cử; chăm lo xây dựng luật pháp; bệnh vực nữ quyền; thành lập hội
Tao đàn, tạo không khí văn chương cho đất nước.
Ở một hội thảo khác, cùng hướng về thủ đô tròn một thiên niên kỷ, dành cho các nhà
khoa học trẻ của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (Hà Nội, ngày 22/9/2010), tác giả Trần
Trọng Dương trình bày bản báo cáo dài 30 trang Khảo về văn hiến Đại Việt qua trường hợp
hoàng đế Lê Thánh Tông. Trong báo cáo này, nhà khoa học trẻ dành tới 10 trang (1/3 dung
lượng) để khảo về khái niệm văn hiến, rồi phân suất nghĩa và cấu trúc của khái niệm văn hiến.
2/3 số trang còn lại, tác giả khảo về văn hiến Đại Việt qua trường hợp Lê Thánh Tông với các
nội dung: bậc hiền vương văn minh lỗi lạc; thư tịch thời Lê Thánh Tông; người củng cố ngôn

ngữ văn tự dân tộc; sáng tạo thể tài thơ Nôm vịnh sử dân tộc; thơ Nôm đề vịnh phong cảnh Đại
Việt; thơ Nôm khẩu khí; mở đường truyện thơ Nôm Đường luật; Thập giới cô hồn quốc ngữ
văn; Thánh Tông di thảo; mở mang giáo hóa; thiết định pháp độ; thiết định phong tục…
Nhìn chung, hai bài viết của giáo sư Nguyễn Đình Chú và tác giả Trần Trọng Dương
đều có những điểm gặp gỡ với đề tài chúng tôi đang triển khai. Tuy nhiên, cùng một vấn đề
có thể tồn tại nhiều hướng tiếp cận và một hướng tiếp cận vẫn có thể xuất hiện các ngả rẽ
khác nhau - như văn hiến tuy có nhiều điểm “đồng quy” với văn hóa nhưng là hai khái niệm
riêng biệt; rồi cùng là văn hóa, song văn hóa như nhận thức phổ quát sẽ khác với điểm nhìn
từ “nhân vật văn hóa” vốn khá mới mẻ, chưa có nhiều nhà nghiên cứu “để tâm” hoặc “đi
theo”…
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trong luận văn này, người viết chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu xã hội học
và văn hóa học để làm sáng tỏ vấn đề được đặt ra. Đương nhiên, một số phương pháp khác
như thống kê, so sánh cũng được vận dụng những lúc cần thiết. Bởi xét cho cùng, không thể
coi một phương pháp duy nhất nào là chiếc chìa khóa vạn năng để giải mã các vấn đề khoa
học. Có sự kết hợp giữa nhiều phương pháp nghiên cứu, khả năng tiếp cận chân lý khoa học
sẽ được “đảm bảo” hơn.
4. Bố cục đề tài:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn Nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn
hóa (khảo sát trường hợp Lê Thánh Tông qua lịch sử và văn học) của chúng tôi được chia
thành ba chương với các nội dung:
Chương 1: Các con đường hình thành Đế quyền.
Chương 2: Hoàng đế và những quyền lực, phẩm chất cần có của Hoàng đế.
Chương 3: Các hình thức bảo vệ Đế quyền.


References
1. Đào Duy Anh, Lê Thánh Tông, nxb Hàn Thuyên, Hà Nội, 1943.
2. Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển (tái bản), nxb KHXH, H, 2001.
3. Nguyễn Huệ Chi, Những vấn đề đặt ra trong Hội thảo khoa học về Lê Thánh Tông,

in trong Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 140 - 156.
4. Nguyễn Đình Chú, Đệ nhất minh quân Lê Thánh Tông - Nhà văn hóa lớn của đất
nước Đại Việt, Kỷ yếu Hội thảo Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long; xin xem trên
trang web: //khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/
5. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tái bản), tập 1, nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2007.
6. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tái bản), tập 2, nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2007.
7. Trần Trọng Dương, Khảo về văn hiến Đại Việt qua trường hợp hoàng đế Lê Thánh
Tông, bài tham dự Hội thảo Các nhà khoa học/ cán bộ trẻ tại Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam - nhân 1.000 năm Thăng Long - ngày 22/9/2010 (bản quyền tác giả, chưa công bố).
8. Bùi Xuân Đính, Vua Lê Thánh Tông và pháp luật, in trong Lê Thánh Tông - Về tác
gia, tác phẩm, nxb Giáo dục, H, 2007, tr. 167 - 175.
9. Lâm Giang, Hội Tao đàn, in trong Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm, nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2007, tr. 387 - 399.
10. Mai Xuân Hải, Khoa cử thời Lê Thánh Tông, in trong Lê Thánh Tông - Về tác gia,
tác phẩm, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 287 - 302.
11. Mai Xuân Hải, Bài văn khuyên chăm học của vua Lê Thánh Tông, tạp chí Hán
Nôm, số 2/1992, tr. 46 - 53.
12. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (tái bản), nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh,
2005.
13. Nguyễn Quang Hồng, Khái luận văn tự học chữ Nôm, nxb Giáo dục, Hà Nội,
2008.
14. Hoàng Cao Khải, Việt sử yếu (bản dịch), nxb Nghệ An 2007.
15. Nguyễn Văn Kim, Lê Thánh Tông - Cuộc đời và sự nghiệp qua nhận xét, đánh giá
của một số nhà sử học nước ngoài, in trong Nhật Bản với châu Á - Những mối liên hệ lịch sử
và chuyển biến kinh tế - xã hội, nxb ĐHQG, Hà Nội, 2003.
16. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (tái bản), nxb Văn học, Hà Nội, 2008.
17. Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ (bản dịch), nxb KHXH, H, 1995.
18. Phan Huy Lê, Nguyễn Bỉnh Khiêm và thời đại của ông, in trong Tìm về cội nguồn

(tập 2), nxb Thế giới, H, 1999, tr. 618 - 629.
19. Phan Huy Lê, Lê Thánh Tông và sự nghiệp của ông trong bối cảnh lịch sử đất
nước thế kỷ XV, in trong Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007,
tr. 159 - 166.
20. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư (tái bản, trọn bộ), nxb
VHTT, Hà Nội, 2009.
21. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 3), nxb CTQG, Hà Nội, 2000.
22. Lê Kim Ngân, Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, Phân khoa Khoa
học Xã hội - Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1974.
23. Lý Lạc Nghị, Tìm về cội nguồn chữ Hán, nxb Thế giới, H, 1997.
24. Nguyễn Tôn Nhan, Bách khoa thư Văn hóa cổ điển Trung Quốc, nxb VHTT, Hà
Nội, 2002.
25. Nhiều tác giả, Việt Nam học - Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất (tập 3), nxb
Thế giới, Hà Nội, 2001.
26. Nhiều tác giả, Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
27. Nhiều tác giả, Lịch sử Việt Nam (tập 1), nxb KHXH, H, 1971.
28. Đỗ Văn Ninh, Văn bia Quốc Tử Giám Hà Nội, nxb VHTT, Hà Nội, 2000.
29. Đỗ Văn Ninh, Từ điển chức quan Việt Nam, nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002.
30. Nguyễn Danh Phiệt, Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, nxb KHXH, Hà Nội, 1990.
31. Bùi Duy Tân (Chủ biên), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X - XIX
(tập 1), nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004.
32. Bùi Duy Tân, Lê Thánh Tông - Vị hoàng đế anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một
văn hào dân tộc, in trong Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007,
tr. 17 - 72.
33. Bùi Duy Tân, Hồng Đức quốc âm thi tập - Một tác phẩm lớn của văn học tiếng
Việt thế kỷ XV, in trong Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007,
tr. 582 - 591.
34. Tư Mã Thiên, Sử ký (bản dịch của Phan Ngọc), tập 1, nxb Văn học, Hà Nội, 1988.
35. Trần Nho Thìn, Văn học Trung đại Việt Nam - Dưới góc nhìn Văn hóa, nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2008.

36. Trần Nho Thìn, Hiểu Nguyễn từ một bài thơ (Việt Quỳnh ghi), báo Thể thao &
Văn hóa Cuối tuần, số 37, ngày 8 - 14/10/2010.
37. Đinh Khắc Thuân, Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê ở Việt Nam qua tài liệu
Hán Nôm, nxb KHXH, Hà Nội, 2009.
38. Đặng Nghiêm Vạn, Lê Thánh Tông và Bộ luật Thái Mai Châu, in trong Lê Thánh
Tông - Về tác gia, tác phẩm, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 176 -186.
39. Trần Ngọc Vương, Mẫu hình hoàng đế và con đường tìm kiếm sự thể hiện bản
ngã trong triết học và văn học khu vực Đông Á, in trong Văn học Việt Nam - Dòng riêng giữa
nguồn chung (tái bản), nxb ĐHQG, Hà Nội, 1999, tr. 45 - 66.
40. Trần Ngọc Vương, Lưỡng đầu chế thời Lê - Trịnh và những hệ quả lịch sử của nó,
in trong Thực thể Việt - Nhìn từ các tọa độ chữ, nxb Tri thức, Hà Nội, 2010, tr. 111 - 136.
41. Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
42. Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và Suy ngẫm, nxb Văn học, Hà
Nội, 2003.
43. Trần Quốc Vượng, Hà Nội như tôi hiểu, nxb Tôn giáo, H, 2005.
44. Insu Yu, Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XV - XVIII (bản dịch), nxb KHXH, Hà
Nội, 1994.




×