Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiểu luận cao học, vận động hành lang vai trò truyền thông của báo chí trong hoạch định chính sách ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.49 KB, 36 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ QUY TRÌNH CHÍNH SÁCH

Đề tài
VAI TRỊ TRUYỀN THƠNG CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI
CƠNG TÁC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

1.Tính cấp thiết của đề tài

1

2.Tình hình nhiên cứu liên quan đến đề tài

2

3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3

3.1. Mục đích nghiên cứu

3

3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu


3

4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

4.1.Đối tượng nghiên cứu

3

4.2.Phạm vi nghiên cứu

3

5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4

5.1.Cơ sở lý luận

4

5.2.Phương pháp nghiên cứu

4

6.Kết cấu đề tài

4


NỘI DUNG

5

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRUYỀN THÔNG CỦA BÁO CHÍ
TRONG HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH

5

1.1.Một số khái niệm liên quan

5

1.1.1.Định nghĩa, khái niệm báo chí

5

1.1.2.Khái niệm truyền thơng

6

1.1.3.Khái niệm truyền thơng chính sách

6

1.1.4.Khái niệm hoạch định chính sách

7

1.2.Vị trí, quy trình hoạch định chính sách


7

1.2.1. Vị trí của hoạch định chính sách

7

1.2.2.Quy trình hoạch định chính sách

8

1.3. Những bất cập trong q trình hoạch định chính sách – ngun nhân 12
1.3.1.Những bất cập trong q trình hoạch định chính sách

12


1.4.Nội dung, phương tiện và phương thức truyền thông trong hoạch định
chính sách
15
1.4.1. Nội dung truyền thơng trong hoạch định chính sách

15

1.4.2. Phương tiện truyền thơng trong hoạch định chính sách

15

1.4.3. Phương thức truyền thơng trong hoạch định chính sách


16

CHƯƠNG II: VAI TRỊ TRUYỀN THƠNG CỦA BÁO CHÍ TRONG
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT
RA VÀ GIẢI PHÁP

17

2.1. Vai trị truyền thơng của báo chí trong hoạch định chính sách ở Việt
nam hiện nay
17
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với báo chí trong tham gia hoạch định chính
sách
20
2.3. Giải pháp nâng cao vai trị truyền thơng của báo chí trong hoach định
chính sách ở việt Nam
28


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với bước chuyển biến mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, trong
những năm qua hệ thông báo chí trong cả nước đang ngày càng phát triển về
số lượng và chất lượng, góp phần xây dựng, củng cố đường lối của Đảng,
phát triển kinh tế đất nước và hồn thiện hơn trong lĩnh vực văn hố xã hội.
Với vai trị là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng và Nhà nước, báo chí
cách mạng Việt Nam ln gắn bó, đồng hành với sự nghiệp của Đảng và dân
tộc; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nghị quyết Trung ương 5,
khóa X (Nghị quyết 16) nhấn mạnh: “Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà

nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong
khn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân
dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí”. Các cơ quan báo
chí nước ta thường xuyên, liên tục phản ánh các hoạt động xã hội, những vấn
đề bức xúc đang nảy sinh, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân,
báo chí đã cung cấp “nguyên liệu đầu vào” cho các nhà hoạch định chính
sách.
Khi nền kinh tế càng phát triển thì báo chí nước ta cũng khơng ngừng
đổi mới, năng động và sáng tạo hơn trong tác nghiệp. Báo chí nước ta đang
ngày càng bám sát đời sống xã hội, thơng tin nhanh chóng các tin tức sự kiện,
đường lối chính sách của Đảng và Chính Phủ tới quần chúng, góp phần củng
cố, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Báo chí đang ngày càng phát triển và hồn
thiện hơn những nhân tố tích cực và nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất
và chiến đấu, góp phần đưa kinh tế đất nước phát triển cùng với sự phát triển
chung của thế giới. Báo chí là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp và nhà
quản lý, hoạch định chính sách giúp nhà nước điều chỉnh những chủ trương,
1


đường lối cho phù hợp với thực tiễn. Báo chí còn tham gia một cách dũng
cảm trên mặt trận đấu tranh tham nhũng, chống tiêu cực và tệ nạn xã hội. Với
số lượng báo ngày càng tăng và chất lượng báo ngày càng tốt đã tạo niềm tin
và tạo thành một nhu cầu cần thiết cho nhân dân.
Chính vì vậy, tác giả đac chọn đề tài “Vai trị truyền thơng của báo chí
trong hoạch định chính sách ở Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc mơn hệ thống
chính trị và quy trình chính sách.
2.Tình hình nhiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, đã có một số cơng trình đã cơng bố.
Sau đây là những cơng trình điển hình:

“Hoạch định chính sách” của Lưu Thúy Hồng, Khoa Chính trị học,
Học viện Báo chí và tuyên truyền, 2016.
“ Vai trị của báo chí trong định hướng dư luận” của TS Đỗ Chí Nghĩa,
NXN Chính trị quốc gia – Sự thật, 2012.
“Vai trị của báo chí trong cơng tác bảo đảm an tồn trật tự an tồn giao
thông đường thủy nội địa”, Hà Thị Hồng Vân, Học viện Báo chí Và tuyên
truyền, 2005.
“ Vận động chính sách ở Việt Nam – những vướng mắc và giải pháp
tháo gỡ”, Vũ Xuân Tiền, 2008.
“Phát huy vai trò của báo chí đối với cơng tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong giai đoạn hiện nay”, TS Phạm Thị Hoa, Tạp chí của Ban Tuyên
giáo Trung ương ( 2021).
“Một số vấn đề đặt ra về vai trị của báo chí đối với cơng tác hoạch
định chính sách của Đảng hiện nay”, Th.S Lưu Văn Thắng, Tạp chí Lý luận
chính trị và truyền thơng(2021).
Tuy đã có nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến hoạch định chính sách,
vai trị của báo chí nhưng có ít đề tài làm rõ vai trị truyền thơng của báo chí
2


trong hoạch định chính sách ở Việt Nam hiện nay, vì vậy tác giả đã chọn đề
tài này để nghiên cứu và làm rõ hơn.
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về truyền thông của báo chí
trong hoạch định chính sách, khảo sát làm rõ vai trị truyền thơng của báo chí
trong hoạch định chính sách ở Việt Nam. Từ đó, đề ra một số giải pháp nâng
cao vai trị truyền thơng của báo chí trong hoạch định chính ở Việt Nam hiện
nay.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục tiêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
như sau:
- Phân tích làm rõ vấn đề lý luận của vai trò truyền thơng báo chí trong
hoạch định chính sách.
- Làm rõ vai trị truyền thơng của báo chí trong hoạch định chính sách ở
Việt Nam.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao vai trị truyền
thơng của báo chí trong hoạch định chính sách ơ Việt Nam hiện nay.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trị truyền thơng của báo chí
trong hoạch định chính sách ở Việt Nam.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
-Đề tài nghiên cứu khảo sát qua trang tạp chí lý luận chính trị về vai trị
của báo chí trong hoạch định chính sách. Từ đó, làm rõ những u cầu đặt ra
với vai trị truyền thơng của báo chí trong hoạch định chính sách ở Việt Nam.

3


5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận
- Đề tài dựa trên cơ sở pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề hoạch
định chính sách.
- Quan điểm của Đảng về vai trị truyền thơng của báo chí trong hoạch
định chính sách để làm căn cứ, dựa trên lý luận báo chí cách mạng Việt Nam,
cơ sở lý luận báo chí truyền thơng để phân tích, đánh giá một số khía cạnh
trong công tác tuyên truyền.
- Kế thừa hệ thống quan điểm lý luận, kết quả nghiên cứu khoa học của

các tác giả đi trước thuộc lĩnh vực báo chí, lĩnh vực hoạch định chính sách.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận Mác- Lênin, cụ
thể là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để có những nhìn
nhận khách quan, tồn diện về vai trị của báo chí trong hoạch định chính sách
ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp riêng: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp như logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh,
nghiên cứu tài liệu trong đó phương pháp logic – lịch sử và phân tích – tổng
hợp kết hợp với nghiên cứu các tài liệu để tiếp cận lịch sử hình thành và phát
triển của báo chí trong hoạch định chính sách, thao tác tư duy về những vai
trị báo chí trong hoạch định chính sách.
6.Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài cịn có 2 chương, tiết
Chương I: Cơ sở lý luận của truyền thơng báo chí trong hoạch định chính sách
Chương II: Vai trị truyền thơng của báo chí trong hoạch định chính sách ở
Việt Nam – Một số vấn đề đặt ra và giải pháp
4


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRUYỀN THÔNG CỦA BÁO
CHÍ TRONG HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
1.1.Một số khái niệm liên quan
1.1.1.Định nghĩa, khái niệm báo chí
Báo chí là loại hình truyền thơng phổ biến hiện nay. Ảnh hưởng của nó
với đời sống xã hội là hết sức rộng lớn và sâu sắc. Thậm chí, khả năng và điều
kiện thụ hưởng các sản phẩm báo chí cịn được coi là một chỉ số quan trọng
để đánh giá tính chất văn minh của một xã hội hiện đại.
Lịch sử phát triển của báo chí chính là sự gia tăng các tiện ích của quá

trình thu thập, xử lý và tiếp nhận thơng tin dành cho số đơng trong xã hội.
Tính chất cơng khai, rộng rãi và nhanh chóng đã khiến báo chí trở thành một
nguồn năng lượng có sức mạnh độc tơn. Việc bày tỏ quan điểm, chính kiến
trên báo, hoạch định chính sách đã khiến báo chí vượt xa khả năng của một
phương tiện truyền tin thơng thường. Nó thực sự là vũ khí có sức cơng phá
lớn, thực sự là một thứ quyền lực; quyền lực của trí tuệ, nhận thức, của khả
năng thức tỉnh lý trí, cổ vũ dư luận. Sức mạnh của phương tiện truyền thông
lan tỏa nhanh nhất, rộng khắp thời đại thông tin tri thức là sức mạnh trực tiếp
thúc đẩy sự phát triển xã hội, tạo nguồn lực và cơ hội cho mỗi cá nhân phát
triển.
Báo chí là gì? Theo quan niệm từ trước đến nay, báo chí là phương tiện
truyền thơng đại chúng, truyền tải những thơng tin thời sự có tính định kỳ đến
với đông đảo công chúng. Đặc điểm nổi bật của báo chí chính là tính cơng
khai và sự lan tỏa nhanh chóng, rộng khắp.
Có thể đưa ra định nghĩa về báo chí như sau: Báo chí là các phương
tiện truyền thông đại chúng được cơ quan thẩm quyền cấp phép hoạt động, có

5


nhiệm vụ chuyển tải thông tin nhanh nhất, mới mẻ nhất đến cho đơng đảo
cơng chúng, nhằm tích cực hóa đời sống thực tiễn.
1.1.2.Khái niệm truyền thông
Truyền thông là một q trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thơng tin,
tình cảm, kỹ năng bằng một hệ thống ký hiệu, quy ước nhằm tạo sự liên kết
lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức. Truyền thơng là
một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau,
chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền
từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên
kết người gửi và người nhận. Truyền thơng có gốc từ tiếng Latinh là

“communicare”, nghĩa là biến nó thành thông thường, chia sẻ, truyền tải.
Truyền thông thường được mô tả như việc truyền ý nghĩ, thông tin, ý tưởng, ý
kiến hoặc kiến thức từ một người/một nhóm người sang một người/hoặc một
nhóm người khác bằng lời nói, hình ảnh, văn bản hoặc tín hiệu. Về thực chất,
đó chính là q trình trao đổi, tương tác thơng tin với nhau về các vấn đề của
đời sống cá nhân/nhóm/xã hội, từ đó tăng vốn hiểu biết chung, hình thành
hoặc thay đổi nhận thức, thái độ, chuyển đổi hành vi cá nhân/nhóm/xã hội.
Bản thân chính sách cơng rất phức tạp từ hệ thống đến sự tham gia của các
chủ thể chính sách. Do đó, cần làm rõ mối quan hệ truyền thơng và chính sách
cơng.

6


1.1.3.Khái niệm truyền thơng chính sách
Có thể tạm định nghĩa như sau: “Truyền thơng chính sách là q trình
chia sẻ, tương tác xã hội để thơng tin chính sách từ chủ thể hoạch định, xây
dựng, thực hiện và đánh giá chính sách đến các chủ thể chính sách khác nhằm
tăng cường sự hiểu biết, nhận thức và thay đổi hành vi của các chủ thể chính
sách để đạt mục tiêu chính sách”. Từ đó, xem xét các biến số về nội dung
truyền thông, phương tiện truyền thông, phương pháp truyền thơng, tần suất
truyền thơng, các yếu tố của q trình truyền thông ảnh hưởng như thế nào
đến mỗi khâu của chu trình chính sách.
1.1.4.Khái niệm hoạch định chính sách
Chính sách công là định hướng, giải pháp của nhà nước để giải quyết
vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Hoạch định chính
sách là giai đoạn đầu tiên của quy trình chính sách mà kết quả của q trình
này là một chính sách ra đời với cấu trúc bao gồm mục tiêu, định hướng, điều
kiện, giải pháp và lộ trình thực hiện. Với vai trị, vị thế trong đời sống xã hội
của nhà nước, chính sách cơng theo đuổi lợi ích chung và có tác động to lớn

đến cộng đồng, quốc gia. Đối với quản trị nhà nước, chính sách cơng là một
cơng cụ để nhà nước tác động vào nền kinh tế - xã hội, cộng đồng dân cư;
định hướng, điều chỉnh các hoạt động này nhằm đạt được mục tiêu của nhà
nước. Chính sách cơng thể hiện rõ quan điểm, định hướng của nhà nước
(khuyến khích, hỗ trợ hay cấm đốn, cản trở) các hành vi nào, nhằm đạt được
cái gì (mục tiêu chính sách) và làm như nào (giải pháp chính sách). Đối với
đời sống kinh tế xã hội, cộng đồng, chính sách cơng tốt tạo ra những tác động
tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội, con người.
Tuy nhiên, hoạch định chính sách bao giờ cũng gắn với và chịu sự tác
động của môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc tế... Trong nền kinh tế thị
trường, các chính sách công được hoạch định để khắc phục những thất bại của
thị trường nhằm bảo đảm công bằng và hiệu quả, tạo điều kiện cho sự phát
7


triển bền vững của quốc gia, dân tộc, vùng miền... Mỗi chính sách cơng đưa
ra để giải quyết một vấn đề cụ thể đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của
thực tiễn.
1.2.Vị trí, quy trình hoạch định chính sách
1.2.1. Vị trí của hoạch định chính sách
Khâu hoạch định chính sách. Khâu này là giai đoạn cần xác định đúng
và trúng vấn đề chính sách. Hệ thống chính trị hoạch định chính sách trong đó
có sự tham gia quyết định bởi Đảng. Vai trò của Nhà nước là nghiên cứu,
tham mưu đề xuất những vấn đề chính sách. Mặt trận và các tổ chức chính trị
- xã hội tham gia đánh giá và phản biện chính sách. Khâu này gồm các công
việc: thu thập thông tin, xác định vấn đề và lựa chọn vấn đề kinh tế xã hội trở
thành vấn đề chính sách. Xác định vấn đề là dựa trên những mâu thuẫn thực tế
từ đời sống để xác định vấn đề chính sách. Vấn đề cần phải được phân tích
cẩn thận để xác định đâu là vấn đề cốt lõi, đâu là giải pháp cốt lõi để đảm bảo
tính phổ biến, tính bản chất của chính sách. Đề xuất các lựa chọn chính sách

dựa trên phân tích vấn đề. Ước tính rủi ro, hiệu quả: Xem xét cấu trúc vấn đề
chính sách trong mối quan hệ biện chứng với các vấn đề kinh tế xã hội khác,
bước đầu đánh giá và dự báo tác động của chính sách.
1.2.2.Quy trình hoạch định chính sách
Cho đến nay, xung quanh các bước của q trình hoạch định chính sách
cơng vẫn cịn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, quy trình hoạch định
chính sách cơng được thừa nhận phổ biến hiện nay gồm các bước cơ bản sau:
(i) thiết lập nghị trình chính sách; (ii) xây dựng và đề xuất phương án chính
sách; (iii) hợp pháp hóa chính sách hay ban hành chính sách.
Thứ nhất, thiết lập nghị trình chính sách: Một trong những nhiệm vụ và
chức năng quan trọng của chính sách cơng đó là giải quyết các vấn đề xã hội.
Vì thế, vấn đề xã hội là nguồn gốc để thiết lập nghị trình chính sách. Trong xã
hội hiện đại, thường xuất hiện nhiều vấn đề xã hội cùng lúc, vấn đề xã hội này
8


xuất hiện kế tiếp vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, không
phải tất cả các vấn đề xã hội đều được giải quyết thông qua công cụ chính
sách. Chỉ những vấn đề xã hội mà người làm chính sách nhận thấy cần thơng
qua cơng cụ chính sách để giải quyết thì mới được xem là vấn đề chính sách.
Điểm cốt yếu ở bước này là làm thế nào để xác định “đúng” và “trúng” vấn đề
xã hội cần giải quyết thơng qua chính sách. Điều đó có nghĩa là cần xác định
được vấn đề xã hội cần thiết phải ban hành chính sách để giải quyết, hạn chế
được tình trạng có những vấn đề xã hội bức xúc nhưng người làm chính sách
lại chậm trễ trong việc đưa vào nghị trình chính sách, hoặc có những vấn đề
xã hội chưa thật sự bức thiết nhưng lại được ưu tiên đưa vào nghị trình chính
sách. Theo quan điểm của James E. Anderson, việc một vấn đề xã hội nào đó
được đưa vào nghị trình chính sách và trở thành vấn đề chính sách liên quan
đến nhiều yếu tố khác nhau, như vai trò của người lãnh đạo chính trị, sự kiện
thu hút sự quan tâm của nhiều người, phản ánh và thái độ của người dân, phản

ánh của truyền thông đại chúng. Trên thực tế, việc vấn đề xã hội được đưa
vào nghị trình chính sách phụ thuộc vào vai trò của nhiều chủ thể khác nhau,
như lãnh tụ chính trị, đảng cầm quyền, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính,
các đồn thể chính trị - xã hội, các chuyên gia và nhà khoa học, công chúng,
truyền thông đại chúng, sự xuất hiện của các sự kiện. Tuy liên quan đến nhiều
chủ thể khác nhau, song trong xã hội dân chủ, chính sách cơng với tư cách
“đầu ra” của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, thì việc xác
định nghị trình chính sách cũng cần phải dựa vào “đầu vào” là các nhu cầu và
phản ánh của xã hội. Vì vậy, yêu cầu cốt lõi ở đây là các chủ thể có liên quan
cần thơng qua các phương thức nhau để xác định đúng và “trúng” vấn đề xã
hội để đưa vào nghị trình chính sách. Đây là một phương diện cơ bản thuộc
về tính trách nhiệm và tính đáp ứng của quản trị nhà nước với tư cách một
trong những đặc trưng cơ bản của “quản trị tốt”.

9


Thứ hai, xây dựng và đề xuất phương án chính sách: Sau khi xác định
được vấn đề xã hội nào đó, cần ban hành chính sách để giải quyết thì vấn đề
xã hội trở thành vấn đề chính sách. Do đó, nhiệm vụ tiếp theo của bước này
là, trên cơ sở phân tích vấn đề của chính sách để xây dựng và hình thành các
phương án chính sách. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách là q
trình trên cơ sở nghiên cứu, phân tích đối với vấn đề chính sách để đề xuất
biện pháp hoặc phương án chính sách tương ứng. Xây dựng và đề xuất
phương án chính sách gắn liền với nhiều nội dung, như phân tích vấn đề chính
sách, xác định mục tiêu mà chính sách cần đạt được, thiết kế phương án, đánh
giá đối với từng phương án và lựa chọn phương án phù hợp nhất. Xây dựng
và đề xuất phương án chính sách có ba đặc trưng sau:
(1) Mục đích của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách là
giải quyết vấn đề chính sách cụ thể. Sự tồn tại khách quan của vấn đề chính

sách là tiền đề và cơ sở của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách.
Tính chất, phạm vi và mức độ của vấn đề chính sách quyết định nội dung chủ
yếu của phương án chính sách;
(2) Nội dung cơ bản của xây dựng phương án chính sách là thiết kế
phương án và lựa chọn phương án. Việc thiết kế phương án chính sách chính
là nhằm giải quyết vấn đề chính sách; đó là việc dựa trên các phương pháp
định tính và định lượng để đề xuất ra các phương án chính sách khác nhau.
Trên cơ sở các phương án chính sách đó, người thiết kế chính sách thơng qua
việc phân tích, so sánh và luận chứng một cách đầy đủ để lựa chọn một
phương án chính sách có khả năng thực hiện được mục tiêu của chính sách
một cách tốt nhất. Khi thiết kế phương án chính sách, cần quan tâm đến mục
tiêu chính sách. Mục tiêu chính sách rõ ràng hay khơng sẽ trực tiếp ảnh hưởng
đến chất lượng phương án chính sách cũng như ảnh hưởng đến việc thực thi.
Việc đánh giá và xác định phương án chính sách ưu tiên cần quan tâm phân
tích và luận chứng tính khả thi của phương án chính sách (tính khả thi về
10


chính trị, kinh tế, kỹ thuật, hành chính, pháp luật…); đồng thời cần đánh giá
sự ảnh hưởng của nhân tố tương lai đối với chính sách;
(3) Xây dựng và đề xuất phương án chính sách vừa là một hoạt động
nghiên cứu, vừa là một hành vi chính trị. Xây dựng và đề xuất phương án
chính sách là một q trình hoạt động rất phức tạp. Một mặt, cần phát huy vai
trò và sự tham gia của các nhà khoa học, tuân thủ các nguyên tắc, phương
pháp khoa học để phân tích vấn đề chính sách, xác định mục tiêu chính sách,
thiết kế phương án, đánh giá phương án và lựa chọn phương án phù hợp. Mặt
khác, do chính sách liên quan đến việc điều chỉnh và phân phối lợi ích của
những đối tượng liên quan trong xã hội, do đó cần coi trọng và đảm bảo sự
tham gia của những đối tượng liên quan.
Thứ ba, hợp pháp hóa chính sách: Hợp pháp hóa chính sách hay ban

hành chính sách được hiểu là cá nhân và cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở
quy định của pháp luật tiến hành đánh giá, thẩm tra để thông qua hoặc phê
chuẩn phương án chính sách. Chẳng hạn, trên cơ sở thẩm định, thẩm tra và
thảo luận đối với dự án luật do cơ quan có liên quan đệ trình, Quốc hội biểu
quyết thơng qua dự án luật đó. Tất cả dự thảo chính sách đều phải thơng qua
bước hợp pháp hóa này mới có hiệu lực thi hành. Nhìn chung, ở mỗi nước,
pháp luật quy định khác nhau về trình tự, thủ tục và thẩm quyền của cơ quan
và cá nhân trong việc thơng qua một dự thảo chính sách, pháp luật. Ở nước ta,
quy trình lập pháp được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. Hợp pháp hóa hay ban hành chính sách có vai trị đặc biệt quan
trọng trong hoạch định chính sách cơng nói riêng và trong chu trình chính
sách cơng nói chung, thể hiện ở chỗ: (i) hợp pháp hóa chính sách vừa là bước
đặc biệt quan trọng trong hoạch định chính sách, vừa là tiền đề để thực thi
chính sách. Nói cách khác, khơng có bước này thì khơng thể tiến hành thực
hiện chính sách; (ii) hợp pháp hóa chính sách cũng là một u cầu, mắt khâu
khơng thể thiếu để đảm bảo tính khoa học, tính dân chủ và tính hợp pháp của
11


chính sách, là ngun tắc khơng thể thiếu để thực hiện quản trị quốc gia theo
pháp luật. Thơng thường, chính sách được ban hành theo chế độ thủ trưởng và
chế độ tập thể. Pháp luật quy định rõ trình tự ban hành chính sách theo chế độ
tập thể và chế độ thủ trưởng. Tuy có những yêu cầu khác nhau đối với chính
sách ban hành theo chế độ tập thể và chế độ thủ trưởng, song có một số lưu ý
ở bước này đó là: (i) đảm bảo để chính sách được thơng qua theo đúng trình
tự theo quy định của pháp luật; (ii) đảm bảo nguyên tắc dân chủ, có nghĩa là
đảm bảo việc thảo luận, tranh luận một cách cơng khai, dân chủ trong q
trình thẩm định dự thảo chính sách (đối với chính sách được ban hành thông
qua chế độ tập thể) và tranh thủ ý kiến mang tính độc lập của các chuyên gia,
tổ chức tư vấn đối với dự thảo chính sách (đối với chính sách được ban hành

theo chế độ thủ trưởng).
1.3. Những bất cập trong q trình hoạch định chính sách – ngun nhân
1.3.1.Những bất cập trong q trình hoạch định chính sách
Một là, đời sống kinh tế – xã hội đang còn nhiều vấn đề bức thiết đặt ra
nhưng chưa có sự tác động bởi chính sách của Nhà nước, từ đó tạo ra các
khoảng trống trong hoạt động quản lý. Ví dụ, kết quả báo cáo sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp cùng ngành nghề ở khu vực nhà nước và khu vực
có vốn đầu tư nước ngồi cho thấy, khu vực doanh nghiệp nhà nước có kết
quả kinh doanh tốt hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngồi. Các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi báo cáo lỗ nhiều hơn là lãi và thực tế hiện nay mới
chỉ có một thơng tư của Bộ Tài chính quy định về vấn đề chuyển giá.
Hai là, các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên được thay đổi;
trong một số lĩnh vực có nhiều quy định thay đổi liên tục. Ví dụ, trong lĩnh
vực đầu tư xây dựng cơ bản, từ 2005 đến nay đã có 4 luật về đầu tư, 48 nghị
định của Chính phủ về đầu tư, 132 thông tư của các bộ, ngành và 362 quyết
định của Thủ tướng Chính phủ và bộ trưởng các bộ liên quan đến vấn đề này.
Vấn đề chính sách vận động không ngừng và thay đổi theo thời gian, môi
12


trường, vì thế các chính sách đưa ra cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp
với thực tế. Nhưng việc thay đổi liên tục các chính sách này có thể gây khó
khăn cho đối tượng thực thi và các đối tượng mà chính sách hướng tới. Trong
lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư, các văn bản pháp luật và chính
sách thay đổi liên tục sẽ tạo ra tâm lý lo ngại cho các doanh nghiệp, làm hạn
chế nguồn đầu tư vào Việt Nam.
Ba là, một số chính sách được ban hành nhưng vì những lý do khác
nhau đã khơng có hiệu lực trên thực tế. Ví dụ như quy định cấm hút thuốc lá ở
nơi cơng cộng. Những chính sách như vậy được ban hành đã phản ánh nỗ lực
của Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề gây bức xúc trong xã hội; tuy

nhiên, khi đưa ra những chính sách này, các nhà hoạch định chưa xem xét đến
khả năng thực hiện của chúng và cơ chế để đảm bảo các chế tài được thực
hiện một cách nghiêm túc. Vì vậy, mặc dù có mục tiêu rất tốt nhưng các 
chính sách này khơng có khả năng để đảm bảo được thực hiện.
Bốn là, nhiều chính sách cịn thiếu tính hợp lý. Một trong những yêu
cầu quan trọng của chính sách “tốt” là phải có tính hợp lý, nếu khơng thì dù
chính sách có được hoạch định theo đúng trình tự, thủ tục và mục tiêu, biện
pháp có tốt đến đâu cũng khơng được đảm bảo thực hiện khi tổ chức thực thi
trên thực tế. Chính sách được ban hành là để giải quyết các vấn đề phát sinh
trong đời sống cộng đồng, bảo đảm quyền lợi cho cộng đồng, nhưng nếu thiếu
tính thực tế sẽ khơng áp dụng được. Chính sách thiếu tính hợp lý vừa gây tốn
kém cho Nhà nước khi nghiên cứu, ban hành, vừa gây ra tâm lý bất ổn trong
nhân dân. Ví dụ, Nhà nước quy định cộng điểm thi tốt nghiệp trung học phổ
thông cho những người là con của người hoạt động cách mạng trước năm
1945 hay cộng điểm cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng khi thi đại học… Những
quy định này ngay sau khi được ban hành đã bị dư luận xã hội phản ứng nên
buộc phải sửa đổi hoặc loại bỏ.

13


1.3.2. Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong quá trình hoạch định
chính sách
Một là, hạn chế trong tổ chức bộ máy hoạch định chính sách. Trình tự
ban hành chính sách được quy định cụ thể trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008, trong đó quy định các bước tiến hành, nhưng thực
tế cho thấy còn rất nhiều hạn chế trong quá trình phối hợp giữa các cơ quan
liên quan trong việc ban hành chính sách. Sự phối hợp giữa các bộ với địa
phương còn lỏng lẻo và khơng có một cơ chế rõ ràng trong q trình hoạch
định dẫn đến thơng tin được cung cấp khơng đầy đủ và thiếu chính xác. Bên

cạnh đó, quan hệ giữa cơ quan lập pháp và hành pháp trong q trình thiết kế
chính sách cịn rời rạc, chưa chặt chẽ. Ví dụ, có đến 95% sáng kiến pháp luật
là do Chính phủ đề xuất, song theo thể chế hiện hành, hoạt động giữa Chính
phủ và Quốc hội cịn có sự tách rời, đôi khi là biệt lập với nhau.
Hai là, năng lực hoạch định chính sách của đội ngũ cơng chức cịn yếu.
Đội ngũ hoạch định chính sách ở nước ta cịn yếu và thiếu, chưa có đủ năng
lực thực tế. Rất nhiều chính sách ban hành chỉ giải quyết các triệu chứng của
vấn đề chứ chưa khắc phục được ngun nhân, thậm chí cịn làm vấn đề trở
nên trầm trọng hơn. Bên cạnh đó, nhiều chính sách khơng tính đến các tác
động ngược chiều. Ví dụ, bên cạnh những thành cơng và kết quả đáng kể thì
chính sách khai hoang, xây dựng kinh tế mới đã vơ tình làm cho tình trạng tàn
phá rừng trở nên nghiêm trọng; hoặc chính sách cải cách giáo dục làm cho
việc học trở nên quá tải với học sinh và làm gia tăng tình trạng dạy thêm, học
thêm…
Ba là, thiếu sự tham gia của người dân và các nhóm lợi ích trong q
trình hình thành chính sách. Chính sách là cơng cụ quản lý của Nhà nước,
được ban hành để giải quyết các vấn đề phát sinh trong xã hội. Mỗi chính
sách khi ban hành sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các nhóm người khác nhau
14


theo hướng làm tăng chi phí (hoặc lợi ích) của mỗi nhóm. Vì vậy, mỗi nhóm
lợi ích, đặc biệt là các nhóm đặc thù đều mong muốn có sự tác động vào q
trình hoạch định chính sách theo hướng có lợi cho tổ chức mình. Tuy nhiên,
quá trình hoạch định chính sách hiện nay cịn thiếu sự tham gia của các nhóm
lợi ích, hoặc nếu có thì sự tham gia mang nặng tính hình thức dẫn đến chính
sách khi ban hành có mục tiêu khơng phù hợp và thiếu tính khả thi.
Bốn là, thiếu kênh thông tin đối thoại giữa Chính phủ với các tổ chức,
cá nhân. Q trình hoạch định chính sách cơng hiện nay chưa tạo được kênh
thơng tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân, đặc

biệt là những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. Trong khi đó, chính
sách khơng thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng khơng phải là
ý chí áp đặt của cá nhân người có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực
khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các
vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội và có các phương án giải quyết
phù hợp với thực tế. Quá trình đó địi hỏi sự đóng góp tích cực từ phía người
dân, đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách.
1.4.Nội dung, phương tiện và phương thức truyền thông trong hoạch
định chính sách
1.4.1. Nội dung truyền thơng trong hoạch định chính sách
Nội dung truyền thơng trong giai đoạn hoạch định chính sách tốt nhất là
phổ biến kiến thức và vấn đề chính sách. Nội dung về thực trạng vấn đề chính
sách với những mẫu thuẫn, những khó khăn những trở ngại mà chính sách gây
nên. Truyền thơng cần làm rõ ngun nhân mức độ của vấn đề chính sách.
Hơn nữa, nội dung truyền thơng khâu này cần rõ hậu quả có thể có nếu khơng
giải quyết vấn đề chính sách.
1.4.2. Phương tiện truyền thơng trong hoạch định chính sách
Phương tiện truyền thông tốt nhất là các phương tiện truyền thông đại
chúng. Thông tin là chức năng cơ bản nhất của truyền thông đại chúng bởi
15


truyền thông đại chúng ra đời và phát triển là nhằm thoả mãn ngày càng cao
nhu cầu thông tin của con người và xã hội. Thông tin là nhu cầu sống còn,
nhu cầu phát triển của con người và xã hội và khi xã hội càng phát triển thì
nhu cầu thông tin càng cao. Khi xã hội càng phức tạp, kinh tế thị trường càng
phát triển thì tính chất thơng tin cũng ngày càng đa dạng và phức tạp. Số
lượng, chất lượng và tính chất các sản phẩm truyền thơng phản ánh chính
sách cịn hạn chế. Việc để thực hiện chức năng thơng tin truyền thơng chính
sách trên các kênh truyền thơng đại chúng đạt hiệu quả cao, thì thơng tin về

vấn đề chính sách phải đầy đủ, nhanh chóng, hợp thời, phong phú, đa dạng,
trung thực; thông tin phải phù hợp với các quy tắc xã hội, các giá trị văn hoá
và đạo lý của dân tộc; phù hợp với phát triển và phục vụ sự phát triển; thông
tin cần phải phục vụ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.4.3. Phương thức truyền thông trong hoạch định chính sách
Phương thức truyền thơng hướng vào giúp các chủ thể nhận thức vấn
đề chính sách, quy mơ và tình trạng vấn đề, nguyên nhân của vấn đề chính
sách để có quyết định phù hợp tạo sự đồng thuận xã hội trong giai đoạn hoạch
định chính sách. Khi Đảng ra quyết định, chính sách sẽ nhận được sự đồng
thuận cao của xã hội, tạo điều kiện cho lãnh đạo thực hiện chính sách.
Truyền thơng chính sách đóng vai trị quan trọng đối với mỗi khâu của
chu trình chính sách cơng. Khâu hoạch định chính sách, truyền thơng chính
sách giúp xác định được đúng và trúng vấn đề chính sách, bảo đảm sự đồng
thuận xã hội. Trong khâu xây dựng chính sách, truyền thơng chính sách giúp
q trình lựa chọn giải pháp cơng cụ chính sách phù hợp. Trong khâu thực
hiện chính sách, truyền thơng chính sách giúp việc giám sát chính sách cơng
được thực hiện với sự tham gia của cả xã hội. Khâu đánh giá truyền thơng
chính sách giúp làm rõ được kết quả chính sách, đồng thời tuyên truyền cho
kết quả chính sách, giúp sửa đổi, bổ sung, hồn thiện chính sách. Hoạch định
chính sách có thể xem là một giai đoạn quan trọng trong chu trình chính sách
16


cơng nói chung. Đây cũng là một vấn đề cốt lõi mà khoa học chính sách quan
tâm. Về thực chất, hoạch định chính sách cơng chính là q trình hình thành
chính sách, có nghĩa là từ việc phân tích vấn đề chính sách để hình thành nên
các phương án giải quyết vấn đề chính sách, cho tới khi thơng qua phương án
chính sách hay hợp pháp hóa chính sách.
CHƯƠNG II: VAI TRỊ TRUYỀN THƠNG CỦA BÁO CHÍ TRONG
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT

RA VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Vai trị truyền thơng của báo chí trong hoạch định chính sách ở Việt
nam hiện nay
Ở Việt Nam, Luật Báo chí xác định báo chí là cơ quan ngôn luận của
Đảng, Nhà nước, của các tổ chức xã hội, khơng có báo chí tư nhân. Báo chí
cịn là diễn đàn của nhân dân. Báo chí khơng chỉ có chức năng thơng tin, giáo
dục, mà cịn có chức năng tổ chức và quản lí xã hội.
Thơng qua việc thực hiện các chức năng này được thể hiện ở chính tơn
chỉ, mục đích của mỗi cơ quan báo chí - báo chí tham gia tuyên truyền chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong chiến lược phát triển đất
nước nói chung, cũng như trong từng lĩnh vực đời sống xã hội thơng qua sự
quản lí của các bộ, ngành…
Trong xây dựng, hoạch định chính sách, báo chí thể hiện vai trò bằng
việc tham gia lấy ý kiến của người dân, của chính các cơ quan báo chí, đóng
góp vào những dự thảo hoạch định chính sách, dự thảo chính sách cụ thể, cho
đến khi chính sách được các cơ quan cơng quyền ban hành.
Báo chí có vai trị quan trọng tác động tới việc hoạch định chính sách.
Những vấn đề dư luận quan tâm được thể hiện trên báo chí, đã tạo ra áp lực
đến q trình xây dựng chính sách của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành.
Báo chí có ảnh hưởng gián tiếp xây dựng chính sách. Chẳng hạn, nhiều đại
17



×