Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tìm hiểu vấn đề lãi suất trong tài chính vi mô, giải pháp cho Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.58 KB, 26 trang )

Đề tài: Tìm hiểu vấn đề lãi suất trong tài chính vi mô, giải pháp cho Việt
Nam hiện nay.
Đặt vấn đề:
Tài chính vi mô được F.W Raiffeisen sáng lập và áp dụng đầu tiên ở Đức
vào những năm 1860 để đối phó với vấn đề tín dụng trong nông nghiệp, nghề thủ
công, công nghiệp nhỏ ở các vùng nông thôn. Đến cuối thập niên 90, tài chính vi
mô phát triển mạnh mẽ ở khắp các châu lục, đặc biệt là sau khi mô hình ngân
hàng người nghèo Grameen của giáo sư Muhammad Yunus (Bangladesh) ra đời.
Mô hình này hiện nay đang phục vụ hàng triệu lượt khách hàng. Theo Hội nghị
thượng đỉnh toàn cầu về Tin dụng vi mô tại Washington tháng 2 năm 1997: ‘’Tín
dụng vi mô là việc cung cấp các khoản vay quy mô nhỏ đến đối tượng người
nghèo, với mục đích giúp những người thụ hưởng thực hiện các dự án sản xuất
kinh doanh để tạo lợi nhuận từ đó nâng cao chất lượng đời sống cho cả người
vay vốn và gia đình của họ’’.
Theo quan điểm của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB): ‘’Tài chính vi
mô là việc cung cấp một phạm vi rộng các dịch vụ tài chính như tiền gửi, tài
khoản tiết kiệm, thanh toán, bảo hiểm, chuyển tiền cho người nghèo hoặc các hộ
gia đình có thu nhập thấp, cho những hoạt động kinh doanh cá thể hoặc doanh
nghiệp rất nhỏ’’. Nó được coi là công cụ hiệu quả trong công cuộc xóa đói giảm
nghèo của các quốc gia.
Trên thế giới và tại cả Việt Nam, các tổ chức tài chính vi mô thường áp
dụng lãi suất cho vay đối với khách hàng ở mức cao hơn lãi suất cho vay kinh
doanh của các ngân hàng thương mại. Hiện nay, với mức lãi suất cho vay tối đa
của các tổ chức tài chính vi mô đã có tác dụng tăng tính cạnh tranh giữa tổ chức,
giảm chi phí vay vốn của khách hàng, thể hiện rõ sự ưu tiên của chính phủ đối
với các khu vực ưu tiên. Nhưng đây cũng đang là vấn đề tranh luận của các nhà
phân tích. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu, số liệu có sẵn sẽ trình bày về
các nội dung sau:
• Một số chính sách lãi suất của các nước trên thế giới, và bài học cho Việt Nam.
• Thực trạng chính sách về lãi suất trong tài chính vi mô ở Việt Nam.
• Khuyến nghị một số giải pháp.


I. Một số chính sách lãi suất của các nước trên thế giới, và bài học cho Việt
Nam.
1
Hiện nay trên thế giới có hai trường phái ủng hộ cho hai chính sách lãi
suất khác nhau: Trợ cấp lãi suất và lãi suất thương mại.
1. Trường phái ủng hộ trợ cấp lãi suất
Trường phái thực hiện lãi suất bao cấp phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc
gia trên thế giới từ những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ trước. Minh chứng
cụ thể cho trường phái này đó là ‘’Cuộc cách mạng xanh’’ ở Ấn Độ. Bối cảnh
lúc này, cả ba châu lục đang phải đối mặt với nạn đói hoành hành. Với chính
sách trợ cấp lãi suất, cuộc cách mạng xanh là cuộc cách mạng trong nông
nghiệp, theo đó các nước cần cải tiến giống cây trồng, phương pháp canh tác và
ứng dụng các khoa học kỹ thuật mới nhất vào nông nghiệp nhằm thâm canh tăng
vụ, nâng cao sản lượng và chất lượng cây trồng. Kết quả, nạn đói đã được đẩy
lùi, nhiều hộ gia đình đã tự tạo thu nhập cho mình.
. Trong số tiền bơm vào chương trình này , một phần được chuyển thành
các khoản vay ưu đãi cho người dân nhằm giúp họ có đủ vốn để mua giống mới
và các tràng thiết bị trong nông nghiệp. Số tiền vay khá đa dạng theo mỗi nước
nhưng con số trung bình thì số tiền không dưới 100$. Lãi suất áp dụng với
những khoản vay này rất nhỏ, chỉ khoảng 1 đến 2% một năm.
2. Trường phái thực hiện lãi suất thương mại
Trên thế giới, các tổ chức tài chính vi mô thường áp dụng lãi suất cho vay
đối với khách hàng ở mức cao hơn lãi suất cho vay kinh doanh của các ngân
hàng thương mại, trong khoảng từ 20-40%, tùy từng quốc gia và tùy từng khu
vực (Morduch, 2008; Duflos, 2013), nhưng mức lãi suất này thường bằng hoặc
thấp hơn một chút mức lãi suất mà ngân hàng thương mại cho vay tiêu dùng, và
thấp hơn 10-25% so với mức lãi suất của người cho vay tư nhân (Morduch,
2008; Rosenberg, 2009; Duflos, 2013).
Bên cạnh đó, có một số tổ chức lại cho vay với một mức lãi suất rất là
cao. Ví dụ, tổ chức Compartamos ở Mexico cho vay với mức lãi suất 85%/năm.

Điều này đã đặt ra câu hỏi rằng: Tại sao các tổ chức tài chính vi mô chủ yếu hỗ
trợ cho người nghèo, lại đưa ra mức lãi suất cao như vậy?
Một trường hợp khác là Bancosol thành lập vào năm 1992 và hoạt động
chủ yếu trong lĩnh vực cho vay đối với các doanh nghiệp rất nhỏ thuộc khu vực
2
phi chính thức và các hộ gia đình sản xuất.
Lãi suất trung bình áp dụng cho các dịch vụ tín dụng là khoảng từ 12%
đến 24% một năm, trong năm 2008 mức lãi suất huy động phổ biến nhất được
các ngân hàng đưa ra có mức từ 17,2% đến 17,8%/năm. Trên thực tế, lãi suất
cho
vay trung bình của tổ chức này thương cao hơn lãi suất trung bình của thị
trường từ 4 đến 5%. Đối với các khoản tiết kiệm, để thu hút và khuyến khích
lượng vốn này, BancoSol thực hiện lãi suất huy động tương đương hoặc cao hơn
một chút so với lãi suất huy động trên thị trường.
Tính tới cuối năm, BancoSol có khoảng 85.000 tài khoản vay vốn, trong
đó, số tài khỏan cho vay với số dư dưới 300USD chiếm khoảng 67%. Tỷ lệ phụ
nữ vay vốn chiếm khoảng 48%.Tốc độ tăng trưởng dư nợ cũng như số lượng các
thành viên tham gia vay vốn tăng ổn định qua các năm (bảng 2.2)
Số liệu của bảng 2.2 được lấy từ các báo cáo hàng năm của BancoSol
qua các năm thuộc giai đoạn 2000 – 2005. Mặc dù luôn duy trì mức lãi suất cao
nhưng số lượng khách hàng đến với tổ chức này không hề giảm. Quy mô của các
khoản tín dụng và tiết kiệm liên tục tăng và số lượng khách hàng tới với tổ chức
ngày càng nhiều là một minh chứng rõ ràng nhất. Tỷ lệ thành viên mới tham
gia thường chiếm khoảng 1.2% tổng khách hàng trong năm của tổ chức.
Dư nợ qua các năm đều tăng, tuy có hơi chậm trong giai đoạn 2000 –
2002. Cũng trong giai đoạn này, số dư các tài khoản tiết kiệm giảm trong năm
2001. Điều này là tương đối dẽ hiểu bởi trong năm 2001 đến 2003, Bolivia phải
trải qua một cuộc khủng hoảnh kinh tế lớn, rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế
bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, tổ chức vẫn giữ được hoạt động của mình. Đặc biệt là
trong năm 2003, năm khó khăn nhất sau cuộc khủng hoảng, tổ chức đã có sự

tăng trưởng ấn tượng cả về số dư các tài khoản cho vay và tiết kiệm.
Cùng với vịêc thực hiện lãi suất cho vay cao và khả năng mở rộng hoạt
động qua các thời kỳ, BancoSol đã có một kết quả kinh doanh ấn tượng. Các số
liệu về lợi nhuận của BancoSol trong giai đoạn 2000 – 2005 đều có bước tiến triển
tốt. Đặc biệt là trong năm 2003, tổ chức đã có bước đột phá mạnh mẽ (bảng 2.3)
2000 2001 2002 2003 2004 2005
3
Tài sản 91,894,090 98,076,802 104,341,553 117,736,244 138,355,023 175,651,375
Lợi nhuận
ròng
3,491,976 431,538 1,794,675 15,305,711 29,926,192 39,267,598
ROE(%) 3.80 0.44 1.72 13.00 21.63 22.36
0.58 0.07 0.25 1.88 3.04 2.76
* Nguồn : Các báo cáo tài chính của BancoSol qua các thời kỳ
Không thể phủ nhận rằng, hệ số ROE cao tới trên 22% thật là một con
số ấn tượng BancoSol đã thích nghi và vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế
nhanh chóng trong khi rất nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế Bolivia phải mất
tới hơn 1 năm sau mới phục hồi và phát triển. Sự nhanh nhạy nắm bắt thì trường
để tạo ra sự đột phá với các khỏan vay nhỏ và thời hạn ngắn, chủ yếu dưới 6
tháng, có lẽ là một nguyên nhân quan trọng giúp BancoSol có sự đột phá thần kỳ
trong năm2003, ROE đạt 13% trong khi chỉ số này chỉ là 1.72% trong năm trước
đó. Dù thực hiện lãi suất cao nhưng với tỷ lệ hoàn trả lên tới trên 95% cùng với
những kết quả kinh doanh ấn tượng như thế này thực sự là một minh chứng cho
thành công của chính sách lãi suất thương mại. Rõ ràng là người nghèo cũng là
những khách hàng tiềm năm và cần được khai thác. Thị trường các dịch vụ tài
chính vi mô cho người nghèo và người có thu nhập thấp thức sự là một khoảng
trống hấp dẫn.
Từ ví dụ điển hình của tổ chức tài chính vi mô thực hiện theo chính
sách lãi suất thương mại, ta thấy một minh chứng cho những nhận định mới về
người nghèo là rất đúng đắn. Ngừơi nghèo vẫn thoát được nghèo mà không cần

tới lãi suất trợ cấp.
Chúng ta cũng có thể so sánh chi phí vay vốn của khách hàng từ ngân
hàng thương mại với tổ chức tài chính vi mô như sau:
4
Khoản
vay
Tổ chức
Lãi
suất
Lãi phải
trả
Chi phí giao
dịch
Chi phí cơ
hội
Tổng chi
phí
Lãi suất
thực
(%)
(triệu
VND) (triệu VND) (triệu VND)
(triệu
VND) (%)
30
triệu/12
tháng
NHTM 15 4.5 3 0.48 7.98 27
TCTCVM 23 6.9 0.05 0.12 7.07 24
20

triệu/12
tháng
NHTM 15 3 3 0.48 6.48 32
TCTCVM 23 4.6 0.05 0.12 4.77 24
10
triệu/12
tháng
NHTM 15 1.5 3 0.48 4.98 50
NHTM 23 2.3 0.05 0.12 2.47 25
Nguồn: (Lê Thanh Tâm, 2013)
Như vậy, có thể thấy dù lãi suất của tài chính vi mô đưa ra là cao hơn
ngân hàng thương mại nhưng xét cho cùng thì đi vay các tổ chức tài chính vi mô
có lợi hơn.
I. Thực trạng về chính sách lãi suất trong tài chính vi mô ở Việt Nam.
VN là nước có dân số và tỉ lệ hộ nghèo khá cao. Tỷ lệ hộ nghèo và cận
nghèo cả nước là 21.75% (2010). Các hộ nghèo thường tập trung ở nông thôn
(trên 70% và đang giảm) và rất khó tiếp cận được nguồn vốn.
Hình : Các Nhà cung cấp Dịch vụ TCVM
5
Hinh : Phân đoạn thị trường tài chính vi mô ở Việt Nam.
Vì là một loại hình TCTD nên lãi suất của các TCTCVM chính thức theo
chính sách của NHNN (33/2012/TT–NHNN), cho phép lãi suất trần của các
TCTCVM được phép cao hơn lãi suất trần của các TCTD khác 1%. Và hiện theo
thông tư 16/2013 tháng 6/2013 các TCTCVM áp dụng mức trần lãi suất ngắn hạn
10% đối với 5 lĩnh vực ưu tiên. Lãi suất cơ bản được giữ nguyên mức 9%. Như
vậy lãi suất tối đa cho các TCTCVM là 13,5%.
Lãi suất hiện hành của các TCTCVM khoảng 12-14%, theo phương thức
trả dần lãi và gốc. Như vậy về danh nghĩa lãi suất cao hơn trần 2% và so với mức
6
mà các NH đang cho vay 1-3%. Các TCTCVM bán chính thức vẫn nằm trong

trần cho phép.
Với NHCSXH, mức vay thấp nhất là 1 triệu đồng, tổng mức vay cao nhất
là 75 triệu đồng, tổng mức vay trung bình khoảng 15,6 triệu đồng. Trong số 345
khách hàng của NHCSXH có 25% vay không quá 8 triệu đồng; 25% vay từ 8 đến
11 triệu; 25% vay từ 11 đến 20 triệu và 25% còn lại vay trên 20 triệu. Mức lãi
vay trung bình của NHCSXH thấp nhất trong ba tổ chức khoảng 0,7%/tháng, lãi
vay cao nhất lên tới 9%/năm. Với TDND, tổng giá trị vốn vay lớn hơn rất nhiều
so với NHCSXH, mức vay cao nhất lên tới 570 triệu, thấp nhất là 2 triệu, mức
vay trung bình cũng vào khoảng 98,36 triệu – cao hơn hẳn so với mức vay tối đa
tại NHCSXH và TCVM. Và khoảng tứ phân vị cũng cho ta thấy trong số 263
quan sát, có 25% khách hàng vay không quá 25 triệu và có 25% vay trên 120
triệu. Mức lãi vay trung bình tại TDND cũng khá cao, cao nhất trong ba tổ chức,
7
lãi suất thấp nhất là 0,56%/tháng, lãi suất cao nhất là 2.18%/tháng, trung bình là
1,56%/tháng.
Với nhóm TCVM, tổng mức vay thấp hơn hẳn. Mức vay thấp nhất cũng là
1 triệu đồng, nhưng cao nhất chỉ đạt 34 triệu đồng, trung bình vào khoảng 6,74
triệu đồng. Điều này cũng dễ hiểu khi quy mô vốn của nhóm TCVM nhỏ, hạn
mức của từng khoản vay cũng thấp. mức lãi suất trung bình khoảng 1,14%/tháng.
Chủ yếu các khoản vay nhằm mục đích sản xuất là chiếm tỷ lệ cao nhất tới
56,72% trong tổng số khoản vay, tương ứng với tổng nguồn vốn lên tới 13428
triệu đồng – khoảng 40,43% trên tổng giá trị vốn vay. Như vậy, hầu như khách
hàng vay vốn cho mục đích tự phát triển sản xuất của gia đình. Họ đều là các
khách hàng thu nhập thấp, hoặc hộ kinh doanh siêu nhỏ. Điều này hoàn toàn
đúng với giả thuyết H3 đưa ra ở trên, và phù hợp với dữ liệu thứ cấp về khách
hàng tài chính vi mô
8
9
Khó khăn trong hoàn trả là điều đáng lo lắng cho NHCSXH. Lý do chính
của vấn đề này là: Thứ nhất, các khách hàng của NHCSXH thường trong diện hộ

nghèo có sổ, có. “văn hóa”. nhận đồ miễn phí hơn là vay mượn có trả lại do
nhiều chương trình tài trợ cho không đã được nhận từ trước. Thứ hai, chính sách
lãi suất thấp, gần như cho không, kèm với các chính sách hỗ trợ việc sử dụng vốn
hầu như không có, đã khiến cho các khách hàng của NHCSXH sử dụng vốn
thường không hiệu quả, dẫn tới sự khó khăn tất yếu khi đến kỳ trả nợ. Thứ ba, kỳ
hạn trả nợ gốc và lãi hiện tại còn chưa hợp lý, đôi khi quá dài, dẫn đến khoản thu
nợ khi đến hạn thường quá lớn. Điều này không phù hợp với dòng tiền của khách
hàng nghèo.
Trở lại kết quả một nghiên cứu được công bố mới đây của Nhóm Công tác
TCVM về mức độ bền vững của các TCTCVM tại Việt Nam: có tới trên 90% đối
tượng khảo sát cho biết họ hài lòng khi vay tại TCTCVM vì sự thuận tiện và phù
hợp; 95,30% người được hỏi cho biết muốn tiếp tục được vay vốn từ các tổ chức
này. Những con số ấy dù có thể chưa nói lên tất cả, nhưng cho thấy phần nào nhu
cầu rất lớn của nhiều người dân nghèo từ nguồn vốn vay của các TCTCVM. Và
thường các TCTCVM ở VN có lãi suất cao hơn 2-3 lần so với các tổ chức khác
trên thế giới (TS. Lê Thanh Tâm).
Trong 15 năm qua, VN là nước có tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhất thế giới
(Ajay Chhiber). Tỷ lệ nghèo ở VN (mức sống dưới 1USD/ngày) đã giảm từ 58%
10
năm 1993 còn 16% năm 2006 với khoảng 34 triệu người đã thoát nghèo. Tăng
trường nhanh và liên tục, mỗi năm khoảng từ 7-8% cũng là 1 yếu tố quan trọng
trong việc giảm nghèo. Chứng minh: 18.1% (2006) còn 14.75% (2007), 12.1%
(2008) và 11% (2009). Nhưng theo chuẩn trên vẫn có rất nhiều hộ thoát nghèo
nhưng vẫn không đủ sống và họ vẫn muốn trong diện nghèo để được hưởng các
trợ cấp, an sinh xã hội.
II. Chính sách và giải pháp ở Việt Nam
1. Giải pháp trước mắt, ngắn hạn.
Thời gian vừa qua,đặc biệt là sáu tháng đầu năm 2010, điều hành CSLS
cũng như CSTT nói chung của NHNN đã đưa lại những dấu hiệu tích cực trong
kinh tế vĩ mô. Lạm phát đang được kiềm chế, thanh khoản của hệ thống NHTM

tốt, tốc độ tăng trưởng huy động đến cuối tháng 6/2010 tiếp tục tăng cao hơn tốc
độ dư nợ; đồng thời NHNN đã có những động thái nhằm hạ dần mặt bằng lãi
suất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính Phủ để kích thích tăng trưởng và trả dần
lãi suất về với đúng giá trị thị trường của nó. Trong thời gian tới, tiếp tục hoàn
thiện cơ chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi suất và cơ cấu lại thị trường
tài chính nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế cũng như kiểm soát lạm phát
là nhiệm vụ trọng tâm của NHNN trong việc điều hành CSLS. Chúng tôi xin đưa
ra một vài kiến nghị với NHNN hướng tới mục tiêu nói trên.
Thứ nhất, cần tiếp tục duy trì trần lãi suất huy động trong thời điểm hiện
nay.CSLS cũng như CSTT nói chung phụ thuộc rất lớn vào thể trạng của hệ
thống NHTM. Cho đến thời điểm hiện nay, có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt
Nam đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, tuy nhiên, năng lực tài chính,
năng lực quản trị và khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài
chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao. Với một cấu trúc
thị trường có tồn tại nhiều các NHTM có vốn và thị phần thấp vậy thì những
hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh là khó tránh khỏi.
Tính đến hết quý II/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của
các NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng lên, điều đó cho thấy vốn
của các NHTM là không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà
NHNN đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội
11
Ngân hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo
một mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các
NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình
thức. Mặt khác, còn rất nhiều NHTM đang tìm cách lách luật trong việc sử dụng
nguồn vốn huy động bổ sung vào vốn điều lệ để đáp ứng con số 3.000 tỷ đồng
theo quy định của Nhà nước. Không chỉ thế, những NHTM nhỏ một mặt huy
động vốn với lãi suất cao, tìm cách bổ sung vào vốn điều lệ, mặt khác để duy trì
lợi nhuận buộc họ phải đẩy mạnh cho vay những dự án phiêu lưu mạo hiểm như
bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng với lãi suất cao, làm tăng rủi ro cho hoạt

động của hệ thống NHTM.
12
Do đó, nếu Ngân hàng Nhà nước dỡ trần lãi suất huy động trong thời
điểm này sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ chạy đua lãi suất huy động, có
thể lên tới 14 - 15% , khiến các NHTM lớn đang duy trì lãi suất tiền gửi ổn
định, vì không muốn mất khách hàng sẽ lao vào cuộc đua, nếu không sẽ bị khan
vốn và buộc NHNN tiếp tục bơm vốn vào. Thêm vào đó, lãi suất thực huy động
có thể làm cho lạm phát kỳ vọng gia tăng. Như vây, vô hình chung các động thái
này lại làm thổi bùng lên ngọn lửa lạm phát và kịch bản chạy đua lãi suất tồi tệ
năm 2008 có thể tái diễn. Tóm lại, việc duy trì lãi suất trần trong thời gian này là
cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
Tuy nhiên, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì
việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng cần được thực hiện nhằm tuân thủ các
nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất. Chúng tôi cho rằng, tiến tới dỡ bỏ
trần lãi suất huy động mà tránh không để xảy ra tình trạng chạy đua lãi suất,
cạnh tranh không lành mạnh ngoài việc chọn thời điểm nền kinh tế ổn định và đi
vào guồng quay, NHNN nên tiến hành những bước đệm nhằm minh bạch hoá
thông tin của các NHTM. Ví dụ như thành lập các tổ chức độc lập công khai xếp
hạng NHTM, đi kèm với đó là tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động
ngân hàng, hay nâng cao vai trò của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi nhằm dẫn dắt
hành vi người gửi tiền. Khi đó, người gửi tiền sẽ có sự cân nhắc không hoàn toàn
chỉ chạy theo bề mặt lãi suất huy động công bố của NHTM, cũng như các
NHTM thực sự phải cải thiện chất lượng dịch vụ, nâng cao uy tín nếu muốn thu
hút tiền gửi.
Thứ hai, tiếp tục tiến hành điều chỉnh hạ dần mặt bằng lãi suất và hướng
dòng vốn vào khu vực đầu tư sản xuất. Thực tế hiện nay, các nhân tố đều tác
động đến lãi suất theo xu hướng giảm. Trước hết, nền kinh tế vừa qua khỏi giai
đoạn suy thoái, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn
với lãi suất thấp để tiếp tục phục hồi và phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, lạm
phát có xu hướng đi xuống từ tháng 4 đến nay; tín dụng tăng trưởng thấp hơn so

với cùng kỳ năm trước và tốc độ tăng trưởng vốn huy động tiếp tục cao hơn dư
nợ; lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm do hỗ trợ thanh khoản của
NHNN và quy định về tỷ lệ an toàn hoạt động theo Thông tư 13/2010/TT-
13
NHNN; lãi suất trên thị trường quốc tế và lãi suất ngoại tệ tăng nhẹ, không có
ảnh hưởng đến tăng lãi suất trong nước; lãi suất trái phiếu chính phủ có xu
hướng giảm qua các phiên đầu thầu.
Trong thời gian này, NHNN cần tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với
NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông
qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTMQD giữ vai trò chủ
đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền
kinh tế.
Song song với đó, cần hướng dòng vốn cho khu vực sản suất thực, giảm
bớt đầu cơ quá mức. Khi dòng vốn ngân hàng đảm bảo tập trung vốn cho sản
xuất sẽ có sự chuyển dịch vốn theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách
hàng cho vay; hạn chế cho vay các nhu cầu phi sản xuất. Đặc biệt khi dòng vốn
được định hướng đúng đắn, tình trạng bong bóng (chứng khoán, nhà đất, ) sẽ
giảm và qua đó sẽ không gây áp lực lên khu vực ngân hàng, lãi suất sẽ ổn định.
Và theo đó, tình trạng dễ tổn thương của nền kinh tế nói chung hay khu vực tài
chính ngân hàng nói riêng sẽ được cải thiện.
Do vậy, NHNN cần tiếp tục chỉ đạo các NHTM, TCTD thực hiện cho vay
theo cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, cho vay ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, hạn
chế cho vay ngoại tệ để nhập khẩu những mặt hàng không khuyến khích. Đồng
thời, NHNN cũng cần tăng cường giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của
NHTM, đảm bảo dòng vốn tập trung đi vào khu vực đầu tư sản xuất.
Thứ ba, cần điều chỉnh cân đối lãi suất VND và USD. Việt Nam là một
nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Do đó, CSLS cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ
này nhằm ổn định thị trường tiền tệ và tránh tạo ra những áp lực lên tỷ giá.

Sáu tháng đầu năm 2010 ghi nhận tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đột biến
(khoảng 23 - 24%) trong khi huy động vốn bằng ngoại tệ trong 6 tháng đầu năm
lại chỉ tăng 3,09%. Nếu chênh lệch quá lớn này tiếp tục kéo dài sẽ dẫn đến mất
cân đối về đồng tiền và khả năng cân đối vốn trong thời gian tới ở khu vực ngân
hàng. Gần đây lãi suất huy động USD đã tăng nhanh chóng: trước đây, lãi suất
14
huy động USD phổ biến quanh 4,5%/năm, thì từ cuối tháng 6 nhiều ngân hàng
đã tiếp cận mốc 5%/năm2. Một số thành viên đã nâng lên tới 5,25 - 5,5%/năm.
Những dấu hiện này một mặt cho thấy, các NHTM đang cùng DN dẫn nhau đi
về hướng rủi ro tỷ giá cao hơn.
Do đó, một nhiệm vụ cấp bách trước mắt của NHNN là phải cân đối lại
lãi suất VND và USD, đảm bảo không có sự dịch chuyển đột biến giữa các dòng
tiền. Bên cạnh đó, trong bối cảnh TTTC quốc tế nói riêng và kinh tế thế giới nói
chung còn trong trạng thái phục hồi không thật sự chắc chắn, diễn biến của một
số đồng tiền chủ chốt như USD, EURO và Nhân dân tệ vẫn còn rất khó lường thì
NHNN cần phải theo dõi chặt chẽ để có những phản ứng chính sách kịp thời,
duy trì sự ổn định cho TTTT trong nước.
Thứ tư, cần hoàn thiện cơ chế hình thành LSCB,định hướng được lãi suất
thị trường. Với một nền kinh tế đang dần đi theo cơ chế thị trường như Việt Nam
thì vai trò của LSCB trong việc định hướng thị trường và phát đi tín hiệu của
CSLS nói riêng cũng như CSTT nói chung là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, từ
thực tế điều hành trong những giai đoạn vừa qua cho thấy, LSCB chúng ta đang
áp dụng hiện nay lại méo mó, không phản ánh quy luật cung cầu thị trường, làm
giảm hiệu quả chính sách, dẫn đến nhiều bất cập và hệ luỵ. Hơn thế nưã, việc
duy trì trần lãi suất huy động trong bối cảnh kinh tế trước mắt càng đặt ra yêu
cầu phải xây dựng được LSCB gắn với thị trường nhằm hài hòa lợi ích cho các
chủ thể trong nền kinh thần
2. Chính sách trong dài hạn
2.1 Nhóm giải pháp điều hành chính sách lãi suất ổn định và có tính dài hạn
Để có một chính sách lãi suất ổn định và mang tính dài hạn, việc duy trì

một mức lãi suất hợp lý vừa đảm bảo mục tiêu kích thích tăng trưởng kinh tế,
vừa duy trì một mức lạm phát mục tiêu là vô cùng cần thiết. Mức lãi suất thông
thường trong nền kinh tế bình thường luôn được khuyến nghị tuân theo bất
phương trình: L1<L2<L3<L4. Trong đó: L1: mức lạm phát; L2: lãi tiền gửi; L3:
lãi cho vay và L4: lợi nhuận bình quân xã hội trong cùng kỳ hạn lãi suất. Tuy
nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế đầy biến động như hiện nay, việc giữ cho lãi
suất thỏa mãn bất phương trình trên không phải là một công việc dễ dàng, đòi
15
hỏi nhiều giải pháp đồng bộ trong dài hạn bao gồm
2.1.1 Thứ nhất cần hạn chế những biến động quá mức về cung tiền.
Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện
thanh toán (M2) và lạm phát trong những năm vừa qua là tương đối chặt chẽ
(biểu đồ 16). Có ba nguyên nhân dẫn đến lạm phát là cầu kéo, chi phí đẩy và lạm
phát kỳ vọng trong đó lạm phát cầu kéo ở nước ta được xác định là do lượng tiền
cung ứng vào lưu thông nhiều hơn mức cần thiết và chủ yếu xuất phát từ chính
sách tài khoá và chính sách tiền tệ đã được nới lỏng từ nhiều năm trước dẫn đến
tăng nhu cầu, trong khi cung không tiến kịp. Chính vì vậy trong dài hạn, muốn
kiểm soát lạm phát phải hạn chế tối đa những biến động quá mức về cung tiền.
Về mặt lý thuyết M2 = k. MB (tiền cung ứng của NHTƯ), có nghĩa là
M2 tăng lên khi NHTƯ phát hành tiền cho nền kinh tế và / hoặc hệ số tạo tiền
tăng lên. Như vậy, trong dài hạn, để kiểm soát được lạm phát, NHTW cần phải
kiểm soát được lượng tiền cung ứng MB.
Tuy nhiên đối với nền kinh tế bị đôla hoá, M2 tăng lên còn do nguồn
ngoại tệ huy động trong dân tăng hoặc dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều.
Do vậy, việc kiểm soát M2 của NHTƯ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn đối với các
nước bị đôla hoá. Để khắc phục tình trạng này thì song song với việc kiểm soát
cung tiền của NHNN cần phải có sự phối hợp kiểm soát dòng vốn vào.
Trên thực tế, khi NHNN thực thi CSTT thắt chặt, hạn chế bớt lượng cung
tiền, thì Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch đầu tư vẫn tiếp tục huy động luồng vốn
nước ngoài đổ vào ồ ạt, gây áp lực buộc NHNN phải cung nội tệ ra mua ngoại tệ

để ổn định tỷ giá, ảnh hưởng lớn đến cung tiền và triệt tiêu tác động của CSLS.
Do đó, để hạn chế tối thiểu sự tác động từ bên ngoài thì việc phối hợp giữa các
biện pháp kiểm soát dòng vốn nước ngoài với các giải pháp điều hành CSLS
càng trở nên quan trọng hơn
Kiểm soát vốn là hạn chế những giao dịch vốn, những khoản thanh toán
liên quan đến giao dịch vốn nước ngoài vào Việt Nam bao gồm vốn FDI và FPI.
Đối với dòng vốn FDI, có thể thực hiện theo kinh nghiệm của Trung quốc, mở
cửa cán cân có chọn lọc và có lợi cho tăng trưởng bền vững thông qua việc
khuyến khích FDI vào các lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu, tạo ra các rào cản
16
kỹ thuật với các lĩnh vực không khuyến khích đầu tư cũng như đưa ra các yêu
cầu cao về môi trường. Đối với dòng vốn FPI, hiện nay, Chính phủ Việt Nam
đang giới hạn tỷ lệ nắm giữ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh
nghiệp trong nước (49% đối với công ty cổ phần và 30% đối với các NHTM); và
qui định đầu tư gián tiếp nước ngoài chỉ được thực hiện bằng VND thông qua tài
khoản VND tại tổ chức tín dụng được phép. Trong chừng mực nào đó hai biện
pháp kiểm soát trên đã hạn chế sự gia tăng ồ ạt ngoài tầm kiểm soát của dòng
vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Song song đó, để triệt tiêu tác động dòng vốn
vào, có thể tham khảo kinh nghiệm của hầu hết các nước lớn ở Đông Á đã nới
lỏng những hạn chế đối với dòng vốn ra nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp và
đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Tuy vậy, vẫn cần thận trọng trong việc dỡ bỏ
những hạn chế đối với dòng vốn ra, bởi có thể làm trầm trọng thêm ảnh hưởng
tiêu cực của việc dòng vốn đảo chiều.
Ngoài ra, để mở cửa có chọn lọc các luồng vốn có lợi cho phát triển bền
vững và phù hợp với khả năng sử dụng các công cụ lãi suất, thị trường mở và tỷ
giá để kiểm soát lạm phát, chính phủ cần có những giải pháp hạn chế tình trạng
đôla hóa. Thứ nhất cần có những quy định chặt chẽ về thanh toán hàng hóa, dịch
vụ trong nội địa bằng ngoại tệ.Thứ hai cần tạo điều kiện phát triển các giao dịch
ngoại hối phái sinh, tạo điều kiện cho các bên tham tự bảo vệ trước những biến
động rủi ro về tỷ giá. Cuối cùng cần từng bước thực hiện tự do hoá tỷ giá với

những lộ trình phù hợp với mức độ phát triển của thị trường ngoại hối và mức độ
tự do hoá thị trường tài chính.
2.1.2 Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa CSLS và các chính sách kinh tế vĩ
mô khác
Hiện nay việc thực hiện CSLS nói riêng, CSTT nói chung còn tồn tại
nhiều mâu thuẫn và thiếu đồng bộ với chính sách tài khóa gây cản trở lớn cho
việc thực hiện mục tiêu chung của các chính sách kinh tế vĩ mô là thúc đẩy tăng
trường kinh tế và kiềm chế lạm phát. Tình trạng CSLS thì thắt chặt trong khi
chính sách tài khóa lại nới lỏng như đã từng xảy ra không những làm tính hiệu
quả của công tác điều hành mà thậm chí còn gây nên những hiệu ứng tiêu cực
đối với nền kinh tế.Các giải pháp thực thi chính sách tài khóa nếu được cân nhắc
17
và phối hợp kịp thời với CSTT nói chung, CSLS nói riêng thì các mục tiêu chính
sách tài khóa đạt được sẽ là bước đệm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho việc thực
thi CSLS.Vấn đề quan trọng hiện nay, để tăng cường hiệu quả phối hợp của các
chính sách là:
Thứ nhất: Thu, chi ngân sách và tín dụng nhà nước phải gắn chặt với
nguyên tắc giữ ổn định tiền tệ NHNN. Chính phủ cần đẩy nhanh tiến trình cải
cách hệ thống thuế theo hướng sửa đổi, bổ sung các luật thuế hiện hành theo
hướng mở rộng đối tượng nộp thuế, giảm thuế suất và nghiên cứu soạn thảo các
luật thuế mới để góp phần tăng thu ngân sách, đồng thời có biện pháp cắt giảm
bội chi.Trong đó, chính sách tài khóa cần phải cắt giảm các khoản chi tiêu công
theo hướng tiếp tục cắt giảm các khoản chi thường xuyên, tỷ lệ vốn chi đầu tư
xây dựng cơ bản từ NSNN phải được cắt giảm qua từng năm theo hướng “nhà
nước và nhà đầu tư cùng làm” bằng cách kêu gọi đầu tư hoặc đổi đất dự án cho
các tập đoàn nước ngoài để lấy hạ tầng cơ sở nhằm giảm bớt gánh nặng nợ công.
Thứ hai: Thiết lập mối quan hệ thường xuyên, liên tục trong quá trình
hoạch định và thực thi CSTT, CSLS và chính sách tài khóa giữa Bộ Tài chính và
NHNN. NHNN phải được cung cấp những thông tin chính xác và kịp thời từ
phía Bộ Tài chính về tồn quỹ tiền mặt tại Kho bạc Nhà nước để tính toán lượng

tiền cơ sở, số lượng huy động vốn và cho vay của các quỹ ngoài ngân sách để
kiểm soát được TPTTT của toàn bộ nền kinh tế. Số liệu thống kê, báo cáo về các
vấn đề tài chính công, nhất là kế hoạch về huy động vốn để bù đắp thâm hụt
NSNN, biến động tài khoản ngân sách tại NHNN phải được Bộ Tài chính cung
cấp kịp thời cho NHNN. Ngược lại, NHNN phải cung cấp các thông tin về lãi
suất, tỷ giá, lạm phát, phát hành tiền và khả năng vốn khả dụng của hệ thống
NHTM cho Bộ Tài chính.
Thứ ba: Tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về NSNN và
NHNN theo hướng đảm bảo tính độc lập của từng chính sách. Khoản tiền
NHNN cho NSNN vay hàng năm phải được khống chế bởi một hạn mức cụ thể
do Quốc hội quy định trên cơ sở ưu tiên các mục tiêu dự kiến của CSTT như chỉ
tiêu cung ứng tiền và lạm phát và sẽ được điều chỉnh lại nếu các chỉ tiêu này có
những biến động mạnh. Lãi suất NHNN cho NSNN vay phải đảm bảo cao hơn
18
lãi suất đấu thầu trên thị trường mở ở phiên giao dịch gần nhất nhằm làm giảm
lạm phát tín dụng của NHNN, đồng thời khuyến khích việc sử dụng phương
thức tài trợ thiếu hụt phi lạm phát qua phát hành trái phiếu, tín phiếu làm cơ sở
phát triển thị trường mở và các công cụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN.
Nhóm giải pháp từ phía chính phủ.
Ngân hàng trung ương nên điều hành một chính sách tiền tệ ổn định và
hiệu quả. Sự ổn định của chính sách này thể hiện rõ rệt nhất qua các số liệu về
lạm phát. Một mức lạm phát có thể dự báo được và ổn định có tác động tích cức
đối với họat động tài chính nói chung và hoạt động tài chính vi mô nói riêng.
Với những số liệu về lạm phát có thể dự tính được khiến cho các tổ chức tín
dụng tránh khỏi những rủi ro lãi suất trong kinh doanh.
Bên cạnh đó, ngân hàng nhà nước nên nâng cao hiệu quả của lãi suất
cơ bản. Nên tìm ra phương pháp tính mới và mô hình dự báo mới sao cho đưa ra
được một mức lãi suất cơ bản hợp lý, phản ánh đúng tình trạng lãi suất thị
trường. Theo như chúng tôi thấy, lãi suất cơ bản được ban hành hiện nay là mức
lãi suất mà chính phủ mong muốn chứ không phải lãi suất phản ánhđúng thực

trạng thị trường. Sự xa rời giữa thực tế và mong muốn của chính phủ khiến cho
lãi suất cơ bản trở nên không có tác dụng và hoàn toàn không thể là lãi suất tham
khảo cho các tổ chức tín dụng.
Nâng cao sự hiểu biết của Chính phủ đối với hoạt động tài chính vi mô.
Trong quá trình ban hành và soạn thảo luật cũng như các chính sách của chính
phủ, mặc dù đã có sự đóng góp ý kíên từ phía những người thực hành tài chính
vi mô nhưng các chính sách của chính phủ đưa ra vẫn không thực sự phù hợp
với thực tế và mang lại nhiều hạn chế cho hoạt động này. Điều này có thể hiểu là
do những định kiến cố hữu của chính phủ về tài chính vi mô và việc thiếu hiểu
biết về hoạt động tài chính vi mô mới. Tại nhiều nước trên thế giới, một số tổ
chức đã mở những buổi trao đổi thông tin về tài chính vi mô cho những người
tạo lập chính sách. Thành công của những chương trình này là việc tiến lại gần
hơn giữa chính phủ và những người họat động tài chính vi mô. Tại Việt Nam,
chưa có một chương trình nào tương tự như vậy. Do đó, việc thiếu hiểu biết của
các nhà soạn
19
lập chính sách đối với tài chính vi mô là một điều hoàn toàn dễ hiểu
Chỉnh phủ nên đưa ra những chính sách có tác dụng gián tiếp tới lãi
suất của các tổ chức. Điều mà chính phủ Việt Nam không hài lòng đối với các
hoạt động tài chính vi mô hiện đại tại Việt Nam là lãi suất. Ta có thể thấy rằng
lãi suất trần không phải là giải pháp tốt cho vấn đề này. Khi đã hiểu rõ về hoạt
động tài chính vi mô, những nhà soạn lập chính sách của chính phủ sẽ hiểu rằng
lãi suất cao cho họat động này phát sinh một phần là do chi phí họat động rất
cao. Chi phí họat động này bao gồm chi phí cho họat động tiếp cận khách hàng
và phục vụ khách hàng (chi phí này đặc biệt cao ở những vùng có nhiều khó
khăn); chi phí cho nhân viên… Do đó, chính phủ nên thực hiện các biện pháp
sau:
- Mở rộng xây dựng cơ sở hạ tầng. Khi đường xá được nâng cấp hay
phương tiện liên lạc được phát triển thì một điều dễ hiểu là khả năng tiếp cận các
khách hàng của tổ chức sẽ được nâng cao. Điều này có thể nhìn thấy qua chỉ tiêu

số khách hàng được phục vụ trên một nhân viêc sẽ cao hơn ở những vùng giao
thông và thông tin liên lạc kém phát triển.
- Nâng cao dân trí. Họat động này có tác động rất lớn đối với tổ chức ở
hai khía cạnh. Tổ chức thường tuyển nhân viên ở ngay tại địa phương, với tình
hình dân trí cao hơn thì xác suất tìm được những người có năng lực cao
hơn,thêm vào đó, tổ chức tiết kiệm được chi phí đào tạo cho những người
mới.Đối với những khách hàng có trình độ cao hơn sẽ dễ dàng cho tổ chức trong
việc cung cấp các dịch vụ tài chính.
Như vậy sẽ đảm bảo khả năng sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn đã vay
được của khách hàng.
- Ban hành các chính sách khuyến khích họat động của các tổ chức tài chính vi
mô. Chính sách này sẽ khuyến khích việc mở rộng hoạt động và tham gia vào
thị trường của các tổ chức tài chính vi mô. Một trong những nguyên nhân khiến
cho lãi suất cho vay cao ở các tổ chức trong thời gian qua là thiếu tính cạnh
tranh giữa các tổ chức. Khi các chính sách được ban hành,tính cạnh tranh trong
thị trường tài chính cho người nghèo tăng lên. Để đảm bảo giữ chân được khách
hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới thì tổ chức tài chính vi mô bắt buộc
20
phải nâng cao chất lượng sản phẩm và đi kèm với nó là hạ giá thành. Trong
cuộc cạnh tranh này, rõ ràng người nghèo có lợi bởi họ có cơ hội được lựa chọn
các dịch vụ được cung cấp và cả tổ chức cung cấp sao cho phù hợp nhất với yêu
cầu của họ.
Chính phủ và ngân hàng chính sách xã hội nên tập trung đầu tư có
trọng điểm vào những khu vực thực sự khó khăn mà việc tiếp cận của các tổ
chức tài chính vi mô là hết sức khó khăn. Những khu vực này bao gồm những
vùng núi cao hẻo lánh, người dân chia thành các bản làng nhỏ lẻ và sống cách
biệt. Các chương trình cho vay ở đây cần kèm theo các hỗ trợ về kỹ thuật mới
trong sản xuất để nâng cao năng lực sản suất và kinh doanh của ngừơi dân tại
các vùng này. Có như vậy, dù hoạt động của tổ chức này có lỗ và cần phải bù lỗ
thì xét trên phương diện xã hội thì vẫn cao hơn so với những gì mà tổ chức này

đang thể hiện. Tuy nhiên, trong quá trình cung cấp dịch vụ tín dụng, hạn chế sử
dụng chính sách lãi suất trợ cấp quá lâu hoặc trên một quy mô quá rộng, đặc biệt
là ở những khu vực đủ điều kiện phát triển các hình thức tín dụng khác. Sở dĩ
như vậy vì sử dụng lãi suất bao cấp quá lâu sẽ tạo ra tinh thần ỷ lại trong người
dân. Bên cạnh đó, cũng cần có biện pháp mạnh tay hơn với những người không
có tư tưởng trả nợ.
Sở dĩ chúng tôi đưa ra việc phân chia thị trường như vậy vì như chúng
ta đều thấy, trong thời gian qua Ngân hàng Chính sách xã hội với số vốn lớn và
lãi suất trợ cấp đã là đối thủ cạnh tranh tương đối khó chịu đối với nhiều tổ chức
tài chính vi mô. Tại nhiều địa bàn, tồn tại cả ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, ngân hàng chính sách xã hội, qũy tín dụng nhân dân và quỹ
TYM. Kết quả là gây ra một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ (trên thực tế, các tổ chức
tài chính vi mô tại những khu vực như vậy lại tiếp cận nhiều hơn tới người
nghèo). Trong khi đó,những vùng lại hoàn toàn không có tổ chức nào tới để họat
động.
Nhóm giải pháp từ phía các tổ chức
Nâng cao khả năng quản lý vốn và điều hành của tổ chức. Đây là một
giải pháp các tác động to lớn tới khả năng phát triển trong dài hạn của một tổ
chức.Về khả năng quản lý vốn, ta nên hiểu là khả năng quản lý nguồn vốn huy
21
động và việc sử dụng vốn. Các tổ chức nên tìm kiếm những nguồn vốn với lãi
suất thấp và phù hợp để nâng cao hiệu quả huy động mà giảm thiểu các chi phí
huy động. Bên cạnh đó, tính tương hợp giữa vốn cho vay và vốn huy động của tổ
chức cũng cần được lưu ý. Trên thực tế, trong giai đoạn đầu họat động thì tỷ
trọng của các khoản cho vay ngắn hạn ở mức áp đảo thì đây không phải là một
vấn đề quá lớn đối với tổ chức. Nhưng sau một thời gian họat động, các khoản
cho vay dài hạn bắt đầu tăng lên, trong khi khả năng huy động vốn dài hạn của
tổ chức là không cao thì rủi ro kỳ hạn trong họat động của tổ chức sẽ xảy ra.
Trong việc sử dụng vốn, tổ chức nên tìm ra nhiều phương án đầu tư và cho vay
sao cho khách hàng và bản thân to chức đa dạng hóa được lựa chọn của mình.

Đây là một yếu tố thu hút khách hàng quan trọng.
Về năng lực quản lý tổ chức, nhiều ý kiến cho rằng các tổ chức họat
động trong lĩnh vực tài chính vi mô nên có mô hình gọn nhẹ, giảm thiểu những
chi phí gián tiếp. Để làm được như vậy, những nhà xây dựng chương trình cần
căn cứ vào tình hình họat động và môi trường họat động cụ thể của các tổ chức
để thiết kế các mô hình quản lý và mô hình tiếp cận khách hàng phù hợp. Có
như vậy, tổ chức sẽ tiết kiệm được một khoản chi rất lớn cho các chi phí trung
gian.
Nâng cao tính liên kết giữa các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài
chính vi mô và các tổ chức tín dụng khác, nhằm nâng cao khả năng tiếp cận
nguồn vốn và đa dạng hóa lựa chọn huy động đối với các tổ chức tài chính vi
mô. Theo đó, tổ chức sẽ tìm được nguồn vốn hợp lý nhất và giảm được chi phí
giao dịch. Đối với những tổ chức cung cấp các dịch vụ cho những doanh nghiệp
nhỏ thì việc liên kết được với các tổ chức tín dụng khác có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Thông thường những tổ
chức này cung cấp thêm những dịch vụ như thanh toán và có thể là cả bảo lãnh
cho những khách hàng của mình. Bằng việc liên kết này, những chi phí phát sinh
cho khách hàng và bản than tổ chức được giảm thiểu mà khả năng phục vụ vẫn
không đổi. Tại nhiều nước có họat động tài chính vi mô phát triển, các ngân
hàng thương mại có thể trở thành cổ đông của một tổ chức tài chính vi mô. Đây
có thể là một hướng cho những tổ chức tài chính vi mô đang, đã và sẽ được
22
thành lập ở Việt Nam.
Nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân viên. Trên thực tế, chất lượng
đội ngũ nhân viên là một vấn đề lớn đối với nhiều tổ chức họat động tỏng lĩnh
vực tài chính vi mô. Hầu hết các tổ chức khi tuyển dụng nhân viên đều phải có
những khóa đào tạo chuyên sâu cho họ để họ làm quen với công việc. Khi có
thêm những sản phẩm dịch vụ mới thì đồng nghĩa với việc tổ chức phải tổ chức
những khóa đào tạo mới cho nhân viên của mình. Thực tế thì các họat động này
được diễn ra thường xuyên ở nhiều tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam. Tuy

nhiên, hàm chứa trong nó là một rủi ro rất lớn cho tổ chức khi những nhân viên
có kinh nghiệm và những người có năng lực có thể bị thu hút tới các tổ chức tín
dụng thương mại bởi các điều kiện làm việc tốt hơn và, tất nhiên, lương cao hơn.
Nghị định 28 ra đời đòi hỏi mỗi tổ chức tài chính vi mô phải có một
giám đốc điều hành có năng lực. Có nhiều tranh cãi về đỉều khoản này nhưng
trên góc nhìn của chúng tôi đây là một quy định là dù luật không nói thì bản thân
các tổ chức cũng phải thực hiện. Kinh nghiệm từ những thành công kinh điển
trong họat động tài chính vi mô cho thấy các tổ chức đều có những người lãnh
đạo xuất sắc. Để thu hút ngừơi có năng lực thì không còn cách nào khác các tổ
chức phải có những chính sách đãi ngộ và tuyển dụng hợp lý, sao cho tìm được
những nhà điều hành giỏi cho tổ chức của mình
III. Khuyến nghị
Đối với TCTCVM:
- Giải pháp chung: phát huy hơn nữa sức mạnh gắn kết giữa các thành
viên, cân bằng giữa mục tiêu phát triển xã hội và bền vững. Nâng cao nhận thức
của các tổ chức tài chính vi mô về mô
hình tổ chức, quản trị, điều hành theo thông lệ tốt nhất. Định hướng các tổ
chức hoạt động TCVM theo mô hình tổ chức và hoạt động an toàn, minh bạch và
bền vững, tiến tới áp dụng công nghệ hiện đại tạo tiện ích trong cung cấp các sản
phẩm dịch vụ TCVM.
- Giải pháp đối với các TCTCVM được NHNN cấp Giấy phép: Hoàn
thiện cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành và xây dựng cơ chế kiểm soát, kiểm toán
nội bộ hiệu quả nhằm đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh; tăng cường công
23
tác tìm nguồn vốn rẻ, đặc biệt từ các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ TCTCVM nâng
cao năng lực tổ chức, đặc biệt trong giai đoạn mới thành lập.
- Giải pháp đối với chương trình, dự án TCVM tại khu vực phi chính phủ:
Phối hợp với Hiệp hội TCVM và các cơ quan chức năng liên quan triển khai các
chương trình đào tạo nhằm hướng
các chương trình, dự án TCVM của khu vực các tổ chức phi chính phủ tới

hoạt động bền vững, áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong việc cung cấp sản
phẩm, dịch vụ TCVM. Tìm nguồn
tài trợ nhằm giúp các chương trình, dự án TCVM của khu vực các tổ chức
phi chính phủ nâng cao năng lực thể chế, năng lực tài chính đáp ứng được các
yêu cầu chuyển đổi thành TCTCVM
theo Luật các tổ chức tín dụng.
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước
• Quan tâm hơn nữa đến việc quản lý vấn đề chồng nợ
Có thể thực hiện chia sẻ thông tin về khách hàng giữa các tổ chức cung
cấp tài chính vi mô trên cùng một địa bàn. Điều này giúp giảm thiểu tình trạng
chồng nợ của khách hàng, giảm rủi ro tín dụng cho các tổ chức. Chi phí đánh giá
- thẩm định khách hàng sẽ được giảm xuống. Cần sử dụng tối đa các công nghệ
và nhân sự của Trung tâm thông tin tín dụng CIC thuộc NHNN trong công việc
này, vì đơn vị này hiện đang thực hiện quản lý và chia sẻ thông tin với các tổ
chức tín dụng. Chính quyền địa phương, đặc biệt là ủy ban nhân dân và các cơ
quan đoàn thể, cần đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc giám sát sự chồng nợ
này, cũng như cung cấp các thông tin kiểm tra chéo khi cần thiết. Các trung tâm
chia sẻ thông tin có thể được thực hiện ở cấp huyện/liên huyện, tỉnh do số lượng
giao dịch tài chính vi mô rất lớn và mang tính chất địa phương.
• Kết hợp tài chính vi mô với các chương trình đào tạo, nâng cao
năng lực lớn và các chương trình tạo việc làm đa dạng. Để có sự
thay đổi về cơ cấu thu nhập, tài chính vi mô cần đi kèm với các
chương trình đào tạo, nâng cao năng lực lớn và các chương trình
tạo việc làm đa dạng. Hơn nữa, sự thay đổi cơ cấu thu nhập còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố kinh tế khách quan. Do vậy, các chương trình này là rất cần thiết
24
nhằm giúp khách hàng tài chính vi mô có thể sử dụng vốn hiệu quả hơn với chi
phí thấp hơn. Đây cũng chính là cơ hội để các khách hàng nâng cao năng lực
thông qua đào tạo, tăng cường vị thế của người nghèo, người thu nhập thấp trong
xã hội, giảm bất bình đẳng. Hoạt động này cần sự hợp tác của nhiều đơn vị, đặc

biệt là Bộ Lao động thương binh và xã hội, Tổng cục dạy nghề, Hội Liên hiêp
Phụ nữ Việt nam.
25

×