Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Khoá luận Thực trạng quốc tế hóa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.05 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 1
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUỐC TẾ HÓA CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM 37
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIÚP CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM THỰC HIỆN QUỐC TẾ HÓA
70
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHLB
CIEM
DN
GTGT
JICA
JBIC
NHNN
R&D
SMEs
SNV
TNHH
UNDP
Vốn ĐK
WEF
Cộng hòa liên bang
Viện Nghiên cứu Kinh tế quản lý trung ương
Doanh nghiệp


Giá trị gia tăng
Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
Ngân hàng Nhà nước
Nghiên cứu và Phát triển
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tổ chức phát triển Hà Lan.
Trách nhiệm hữu hạn
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
Vốn đăng ký
Diễn đàn Kinh tế Thế giới
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số lượng và vốn đăng ký của SMEs giai đoạn 2004 – 2009 48
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2008 49
Bảng 2.3: Xếp hạng về công nghệ của Việt Nam năm 2008 - 2009 52
Bảng 2.4: Độ tuổi của chủ doanh nghiệp Việt Nam năm 2007 55
Bảng 2.5: Trình độ học vấn của chủ SMEs 56
Bảng 2.6: Số nước có quan hệ buôn bán và thị phần phân theo khu vực địa lý
60
Bảng 2.7: Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đã được cấp từ 2004 - 2009 62
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) có vai trò rất to lớn trong việc phát triển
kinh tế xã hội của các nước. Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo thêm
nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
giảm bớt chênh lệch giàu nghèo, hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn,
duy trì và phát triển ngành nghề truyền thống…
Đối với Việt Nam, một đất nước đang phát triển, chưa có nhiều doanh nghiệp
lớn thì vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng quan trọng hơn nữa. Thống
kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, tính đến hết năm 2009, SMEs Việt Nam

hiện chiếm 97% tổng số doanh nghiệp cả nước, đóng góp hơn 40% vào GDP và
đang ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu của mình trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nước
1
.
Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay, quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa đã bước
sang một giai đoạn phát triển mới với tốc độ hết sức nhanh chóng và sâu sắc, nền
kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra không ít
cơ hội cho các doanh nghiệp nói chung và những doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng, mặt khác lại đặt các doanh nghiệp vào tình thế phải cạnh tranh khốc liệt hơn.
Là thành phần kinh tế chủ yếu của nước ta, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần ý
thức được tầm quan trọng của việc quốc tế hóa đối với bản thân họ nói riêng và đối
với đất nước nói chung, cũng như những cơ hội và thách thức mà họ phải đối mặt
trong quá trình quốc tế hóa. Việc quốc tế hóa và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ
đòi hỏi có sự thay đổi mạnh mẽ từ phía chính phủ, mà còn đòi hỏi có sự thay đổi cơ
bản trong chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình, nhằm tận dụng các cơ hội và giảm thiểu các thách thức có thể xảy ra.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài “Thực trạng quốc tế hóa của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam” cho bài khóa luận của mình.
1
Báo Đảng Cộng sản Việt Nam: />co_id=30066&cn_id=372691#tgdkLvQqQliT
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận phân tích tình hình quốc tế hóa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Việt Nam trong thời gian qua, trên cơ sở đó tập hợp và đề xuất một số kiến nghị
nhằm tiếp tục khuyến khích và thúc đẩy quá trình quốc tế hóa của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của khóa luận là lý luận và thực trạng quốc tế hóa
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc

tế. Đồng thời khóa luận cũng nghiên cứu quá trình quốc tế hóa của doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại một số nước Châu Á khác: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái
Lan.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận giới hạn nghiên cứu quá trình quốc tế hóa của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2004
đến nay, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các công cụ phân tích, tổng hợp, so sánh từ dãy số liệu thống
kê thu thập được. Bên cạnh đó, khóa luận còn tham vấn ý kiến của các nhà doanh
nghiệp, các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia trong lĩnh vực phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và phần kết luận,
khóa luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ và vấn đề quốc tế hóa
Chương 2: Phân tích thực trạng quốc tế hóa của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và một số kiến nghị tạo thuận lợi, giúp các doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thực hiện quốc tế hóa
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ
VẤN ĐỀ QUỐC TẾ HÓA
1.1. Lý luận về doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)
1.1.1. Khái niệm
Ngày nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) có mặt ở rất nhiều nền kinh tế, tuy
nhiên hiện chưa có một khái niệm chung nào thống nhất trên thế giới về doanh
nghiệp vừa và nhỏ hay những gì cấu thành nên một SME. Sở dĩ không thể có sự
thống nhất này là do các quốc gia có những hoàn cảnh lịch sử, điều kiện chính trị,
kinh tế xã hội cũng như các chính sách kinh tế khác nhau.
Ở Việt Nam, theo Nghị định 90/2001/CP-NĐ ngày 23/11/2001 của Thủ tướng

Chính phủ về trợ giúp và phát triển SMEs quy định SMEs là “Những đơn vị sản
xuất, kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có mức
vốn đăng ký không quá 10 tỷ VND và/hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người”.
Theo Nghị định này, đối tượng được xác định là SME bao gồm các doanh
nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, các hợp tác xã thành lập và
hoạt động theo luật hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số
109/2004/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. Như vậy, tất cả các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thỏa mãn một trong
hai tiêu thức về lao động hoặc vốn được đưa ra trong Nghị định này đều được coi là
SME.
Tuy nhiên, ngày 30 tháng 6 năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thay thế Nghị định
số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ với hai điểm mới
nổi bật: một là Nghị định đưa ra định nghĩa mới về SMEs, hai là việc thành lập Quỹ
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Điều 3 của Nghị định định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: “doanh
nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định
pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn
vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối
3
kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là
tiêu chí ưu tiên). Cụ thể như sau:
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao

động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và thủy
sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II. Công nghiệp
và xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10

người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
III. Thương
mại và dịch vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến 100
người
Kết hợp với bảng phân loại, có thể thấy theo Nghị định, doanh nghiệp nhỏ và
vừa được phân chia dựa theo các tiêu chí: quy mô về vốn, quy mô về số lao động và
khu vực, trong đó quy mô về nguồn vốn được chú trọng hơn. Đây cũng chính là sự
bất hợp lý trong phân loại bởi lẽ tổng nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn
của chủ sở hữu và vốn huy động dưới các hình thức khác nhau, trong khi vốn chủ
sở hữu là tương đối ổn định, được ghi nhận trong điều lệ doanh nghiệp và giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh thì vốn huy động lại thường xuyên biến động. Do

đó, tổng nguồn vốn này của doanh nghiệp cũng thường xuyên biến động. Vì vậy
một doanh nghiệp được xếp vào loại doanh nghiệp nhỏ hôm nay nhưng ngay ngày
mai có thể đã trở thành doanh nghiệp vừa và ngược lại. Ví dụ, một doanh nghiệp
trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp có vốn điều lệ là 18 tỉ đồng. Ngày 1-10 trong năm,
doanh nghiệp vay 7 tỉ đồng vốn lưu động với thời hạn sáu tháng và tổng nguồn vốn
của doanh nghiệp là 25 tỉ đồng. Căn cứ vào bảng cân đối kế toán doanh nghiệp vào
ngày 31-12 của năm, doanh nghiệp này được coi là doanh nghiệp vừa. Song, hết quí
4
1 năm sau, doanh nghiệp trả hết tiền vay và tổng nguồn vốn của doanh nghiệp chỉ
còn lại 18 tỉ đồng, ngay lập tức, doanh nghiệp lại trở thành doanh nghiệp nhỏ.
Do định nghĩa này về SMEs còn mới nên các số liệu thống kê trong khóa luận
đều dựa trên định nghĩa về SMEs trong Nghị định số 90/2001/NĐ-CP.
1.1.2. Tiêu chí xác định SMEs
1.1.2.1. Tiêu chí xác định SMEs của một số nước trên thế giới
Nhìn chung, trên thế giới, việc xác định SME chủ yếu căn cứ vào hai nhóm tiêu
chí phổ biến là tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu chí định tính được xây dựng dựa trên các đặc trưng cơ bản của SMEs như
trình độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý
thấp… Ưu điểm của các tiêu chí này là phản ánh đúng bản chất của SMEs, tuy
nhiên chúng lại thường khó xác định. Vì thế, chúng chỉ được sử dụng để tham khảo
hoặc kiểm chứng mà ít được sử dụng để xác định quy mô doanh nghiệp.
Tiêu chí định lượng bao gồm các chỉ tiêu như số lượng lao động, tổng giá trị tài
sản (hay tổng vốn), doanh thu hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhìn chung, vốn
và số lao động là những tiêu chí được sử dụng nhiều nhất để xác định SMEs. Số lao
động có thể là số lao động trung bình trong danh sách hoặc số lao động thường
xuyên thực tế của doanh nghiệp. Tài sản hoặc vốn có thể bao gồm tổng giá trị tài
sản (hay vốn) cố định hoặc giá trị tài sản (hay vốn) còn lại của doanh nghiệp.
Các tiêu chí định lượng có vai trò hết sức quan trọng trong việc xác định quy mô
của doanh nghiệp. Vào những thời điểm khác nhau, giữa các ngành nghề khác nhau
và tùy thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế, các tiêu chí này lại rất khác

nhau, tuy nhiên chúng vẫn có những yếu tố chung nhất định.
Các nước trên thế giới có các tiêu chí khác nhau để xác định SMEs. Các tiêu chí
đó thường không cố định mà cũng thay đổi tùy theo ngành nghề và trình độ phát
triển trong từng thời kỳ. Ví dụ như ở Đài Loan: Các doanh nghiệp trong lĩnh vực
sản xuất, chế tạo có từ 1 tới 200 lao động được coi là SME, trong khi các doanh
nghiệp trong ngành thương mại – dịch vụ có từ 1 tới 50 lao động. Ở Nhật Bản,
SMEs trong ngành sản xuất chế tạo có từ 1 đến 300 lao động và số vốn kinh doanh
không vượt quá 300 triệu Yên, còn SMEs trong ngành thương mại dịch vụ có số lao
5
động không quá 100 người với số vốn kinh doanh không quá 100 triệu Yên. Ngược
lại ở Mỹ, chỉ có một tiêu chí xác định chung cho SMEs là số lao động không quá
500 người.
1.1.2.2. Tiêu chí xác định SMEs của Việt Nam
Trước năm 1998, Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào quy
định tiêu chuẩn cụ thể của SMEs. Giai đoạn này, mỗi một tổ chức đưa ra một quan
niệm riêng về SME nhằm định hướng mục tiêu và đối tượng hỗ trợ hoạt động của tổ
chức mình. Chẳng hạn, tiêu chuẩn SMEs mà Ngân hàng Công thương Việt Nam
đưa ra là những doanh nghiệp có giá trị tài sản dưới 10 tỉ đồng, vốn lưu động dưới 8
tỉ đồng, doanh thu dưới 8 tỉ đồng và số lao động thường xuyên dưới 500 người, tồn
tại dưới bất kỳ hình thức sở hữu nào. Thành phố Hồ Chí Minh lại phân các doanh
nghiệp ra thành doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ, trong đó những doanh
nghiệp có vốn pháp định trên 1 tỉ đồng, doanh thu hàng năm trên 10 tỉ đồng và lao
động thường xuyên có trên 100 người là những doanh nghiệp có quy mô vừa.
Những doanh nghiệp dưới mức tiêu chuẩn đó là các doanh nghiệp nhỏ. Tổ chức
UNIDO tại Việt Nam lại xác định doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 50
lao động, tổng số vốn và doanh thu dưới 1 tỉ đồng, doanh nghiệp vừa là các doanh
nghiệp có số lao động từ 51 đến 200 người, tổng số vốn và doanh thu từ 1 tỉ đến 5
tỉ.
Với định nghĩa về SME được đề cập trong Nghị định 90, Việt Nam đã đưa ra hai
tiêu chí quan trọng nhất là lao động và vốn đăng ký để xác định SMEs, tuy nhiên

nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng định nghĩa này sẽ hoàn chỉnh hơn nếu nó bao
hàm cả tiêu chí về doanh thu và tổng tài sản. Ý kiến này xuất phát từ thực tế rằng
các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại và dịch thường có doanh thu cao hơn
nhưng vốn đăng ký nhỏ hơn so với các doanh nghiệp sản xuất. Một vấn đề khác của
định nghĩa về SMEs trong Nghị định 90 là định nghĩa này không quy định các tiêu
chí để phân chia các SMEs thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh
nghiệp siêu nhỏ. Điều này gây khó khăn cho Chính phủ trong việc xác định trọng
tâm hỗ trợ dựa trên quy mô doanh nghiệp trong nội bộ khu vực SMEs.
1.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu chí xác định SME
6
Việc xác định quy mô SMEs cũng chỉ mang tính chất tương đối vì các tiêu chí
xác định SMEs chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như trình độ phát triển
của quốc gia, tính chất ngành nghề và điều kiện phát triển của mỗi vùng lãnh thổ
nhất định và trong từng thời kỳ nhất định:
Trình độ phát triển kinh tế của một nước: một nước có trình độ phát triển càng
cao thì trị số các tiêu chí SMEs của nước này càng tăng lên. Ví dụ như một doanh
nghiệp có 400 lao động ở Việt Nam không được coi là SME nhưng lại được tính là
SME ở CHLB Đức. Ngược lại, ở những nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì
các chỉ số về lao động, vốn để phân loại SME sẽ thấp hơn so với các nước phát
triển.
Tính chất ngành nghề: mỗi ngành đều có đặc điểm riêng, có ngành sử dụng
nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn như
hóa chất, điện Do đó các tiêu chí phân loại SMEs cần tính đến tính chất này để có
sự so sánh đối chứng trong phân loại các SME giữa các ngành với nhau. Trong thực
tế, ở nhiều nước, các tiêu chí phân loại SMEs thường được chia thành hai đến ba
nhóm tương ứng với hai đến ba nhóm ngành mang những đặc điểm tính chất khác
nhau.
Vùng lãnh thổ: Trong cùng một nước song do trình độ phát triển khác nhau giữa
các khu vực, các vùng lãnh thổ khác nhau nên số lượng và quy mô doanh nghiệp ở
những vùng này cũng khác nhau. Do đó tiêu chí phân loại cần tính đến sự khác biệt

giữa các vùng lãnh thổ để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô
doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau.
Tính lịch sử: Trải qua các thời kỳ khác nhau, nền kinh tế của các quốc gia cùng
có những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn khác nhau. Một doanh nghiệp lớn trước
đây có thể được coi là vừa hoặc nhỏ trong hiện tại hoặc tương lai và ngược lại. Như
vậy, các tiêu chí phân loại SMEs cũng cần thay đổi theo thời gian cho phù hợp.
1.2. Đặc điểm chung và vai trò của SMEs
1.2.1. Đặc điểm chung của các SMEs [4] ,[10]
Qua việc phân tích các quan niệm về SME của các nước trên thế giới ở trên,
chúng ta có thể thấy hầu hết các nước coi SME là một loại hình doanh nghiệp được
7
phân biệt trên khía cạnh quy mô nhiều hơn mà không phải theo hình thức sở hữu.
Hầu hết SMEs hoạt động trong các ngành thương mại, dịch vụ sử dụng nhiều lao
động. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, SMEs có những đặc điểm nhất
định trong quá trình hình thành và phát triển. Nhìn chung, SMEs có một số đặc
điểm cơ bản sau:
* Về các điểm mạnh:
- SME dễ khởi sự: Chỉ với một số vốn ít, số lao động không nhiều, diện tích mặt
bằng nhỏ, các điều kiện làm việc đơn giản và một ý tưởng kinh doanh khả thi, hầu
hết SMEs đều có thể dễ dàng bắt đầu. Việc tạo nguồn vốn kinh doanh thường là
một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp,tuy nhiên để khởi nghiệp, SMEs gần
như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu; do đặc tính
tốc độ quay vòng vốn nhanh nên SMEs có thể huy động vốn từ nhiều nguồn không
chính thức khác nhau như bạn bè, người thân để nhanh chóng biến ý tưởng kinh
doanh thành hiện thực.
- SMEs rất năng động và linh hoạt: Với quy mô vừa và nhỏ, hầu hết SMEs đều
rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh
doanh. Trong một số trường hợp nhất định, SMEs còn có thể đón đầu những thay
đổi của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội, hay các dao động đột biến trên
thị trường. Tính năng động này tạo cho SMEs khả năng tìm kiếm những thị trường

ngách và dễ dàng gia nhập thị trường này khi thấy việc kinh doanh có thể thu nhiều
lợi nhuận hay rút khỏi các thị trường này khi công việc kinh doanh trở nên khó khăn
và kém hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang chuyển
đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển trong việc tìm ra hướng phát triển bền vững
cho mình.
- Lợi thế so sánh trong cạnh tranh: SMEs có khả năng duy trì và phát triển các
ngành nghề truyền thống, khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn
lực đầu vào như lao động, tài nguyên hay vốn tại chỗ của từng địa phương tốt hơn
so với các doanh nghiệp lớn. Có rất nhiều SMEs của Việt Nam cũng như thế giới đã
từng bước trưởng thành và lớn mạnh khi khai thác các nguồn lực sẵn có của địa
phương. Bên cạnh đó, SMEs còn có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp lớn trong
8
việc nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu thường xuyên thay đổi của người tiêu
dùng, qua đó tạo ra nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của người tiêu dùng. Theo khía cạnh này, SMEs có lợi thế trong việc định
hướng và làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới từ phía người tiêu dùng. Nhờ sự phát
triển của SMEs mà nhiều loại sản phẩm và dịch vụ mới đã ra đời.
- SMEs sử dụng nhiều lao động: Với khả năng khai thác các nguồn lực sẵn có
của địa phương,SMEs nói chung và đặc biệt là SMEs hoạt động trong những ngành
sử dụng nhiều lao động đã góp phần tạo rao một số lượng không nhỏ việc làm cho
lao động địa phương cũng như nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư
tại địa phương và duy trì, bảo vệ các giá trị văn hóa của các làng nghề truyền thống.
Nhờ đó, SMEs cũng giúp thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo,
giảm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn; đồng thời góp phần làm giảm các tệ
nạn xã hội và giúp chính phủ giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội khác.
Mặt khác, với quy mô lao động không nhiều, sự phân công lao động trong doanh
nghiệp chưa quá mức rõ rệt, so với các doanh nghiệp lớn thì quan hệ lao động trong
SMEs thường có tính chất thân thiết gần gũi hơn so với các doanh nghiệp lớn và
nếu có xung đột hay mâu thuẫn xảy ra thì cũng dễ dàn xếp hơn. Do đó, người lao
động thường dễ dàng được quan tâm, động viên, khuyến khích hơn trong công việc

và hiệu quả đạt được trong công việc cũng được nâng cao. Đặc biệt là mối quan hệ
gần gũi, thân thiện đó rất phù hợp với văn hóa của người Châu Á nói chung và của
người Việt Nam nói riêng.
- SMEs dễ dàng đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp.
Do nguồn vốn kinh doanh ít nên SMEs thường đầu tư vào các tài sản cố định
cũng ít, vì thế việc tiến hành đổi mới trang thiết bị cũng dễ thực hiện hơn so với các
doanh nghiệp có quy mô lớn với nhiều tài sản cố định. Tuy nhiên, điều kiện cơ sở
vật chất hạn chế không có nghĩa là hoạt động kém hiệu quả. Với chiến lược phát
triển, đầu tư đúng đắn, sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vẫn có thể đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, cũng như sản xuất
được hàng hóa chất lượng tốt và có sức cạnh tranh cao trên thị trường.
9
- SMEs thường sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới hoặc những lĩnh vực có
mức độ rủi ro cao.
So với những doanh nghiệp lớn, SMEs có quy mô nguồn vốn nhỏ, lượng lao
động sử dụng ít nên có khả năng mạo hiểm hơn. Vì trong trường hợp thất bại thì
thiệt hại đối với SMEs cũng không quá nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể
khôi phục dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, với quy mô nhỏ hơn, nếu SMEs hoạt động
trong cùng lĩnh vực với các doanh nghiệp lớn thì rất khó có thể cạnh tranh được,
nhất là trong sản xuất dây chuyền hàng loạt; do vậy SMEs sẽ dễ dàng chấp nhận
đầu tư vào những lĩnh vực mới. Ở những lĩnh vực đó, SMEs sẽ có cơ hội để cạnh
tranh và phát triển hơn.
* Về các điểm yếu:
Bên cạnh các điểm mạnh được nêu ra ở trên, SMEs cũng có các điểm yếu nhất
định:
- Với quy mô nguồn vốn và lao động nhỏ, SMEs chỉ có thể thực hiện những hoạt
động kinh doanh nhỏ mà thiếu nguồn lực để thực hiện các ý tưởng kinh doanh lớn
hoặc các dự án đầu tư lớn hay mở rộng thị trường.
- Mặc dù quy mô nhỏ và tài sản cố định ít phần nào giúp cho việc đổi mới công
nghệ của SMEs được tiến hành dễ dàng hơn, nhưng việc đầu tư công nghệ mới hoặc

đổi mới các công nghệ đòi hỏi vốn lớn vẫn là một khó khăn đối với SMEs. Đồng
thời, SMEs cũng còn nhiều hạn chế trong việc đào tạo công nhân và chủ doanh
nghiệp, thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản
phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,… Nói cách khác là SMEs không
đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được
năng suất, hiệu quả kinh doanh và tính cạnh tranh trên thị trường.
- SMEs không có các lợi thế kinh tế theo quy mô và đây cũng là lý do mà ở một
số nước, loại hình doanh nghiệp này thường bị yếu thế trong các mối quan hệ với
ngân hàng, với Chính phủ và giới báo chí cũng như thiếu sự ủng hộ của quần chúng
nhân dân. Hơn nữa, để phát triển, nhiều SMEs bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh
nghiệp lớn như về thương hiệu hàng hóa, thị trường, công nghệ, tài chính…
10
- SMEs rất dễ khởi nghiệp nhưng đồng thời cũng phải chịu nhiều loại rủi ro
trong kinh doanh. Kinh nghiệm ở các nước trên thế giới cho thấy, càng nhiều SMEs
ra đời thì cũng có càng nhiều SMEs bị phá sản, thậm chí có những doanh nghiệp
phá sản chỉ sau một thời gian hoạt động rất ngắn. Theo kết quả nghiên cứu thực
nghiệm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới thì hầu hết việc phá sản của SMEs
diễn ra trong năm hoạt động thứ tư; và các doanh nghiệp có quản lý là nam giới
thường có tỉ lệ thất bại cao hơn so với các doanh nghiệp được điều hành và quản lý
bởi các chủ doanh nghiệp nữ.
- Bên cạnh các tác động ngoại lai tích cực đã nêu thì SME cũng gây ra không ít
những ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực trong nền kinh tế. Việc ít vốn khiến hầu hết các
doanh nghiệp không quan tâm một cách đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường hoặc
khi nhiều SMEs bị phá sản do hoạt động không hiệu quả đã gây ra sự thiếu tin
tưởng của dân chúng với loại hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho người tiêu
dùng khi chọn các sản phẩm tiêu dùng cũng như khi chọn các nhà cung cấp dịch vụ.
Điều này làm giảm uy tín của loại hình SME đối với công chúng và người lao động.
1.2.2. Vai trò của SMEs [5],[10]
SMEs chiếm phần lớn trong số các doanh nghiệp Việt Nam và đóng vai trò rất
quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo ra việc làm với chi phí thấp,

cung cấp cho xã hội một khối lượng đáng kể hàng hóa và dịch vụ, làm tăng GDP cả
nước, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập trong xã hội, xóa đói giảm nghèo,
tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương, làm cho nền kinh tế năng
động và hiệu quả hơn. Mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia của
SMEs được thể hiện ở mức độ thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng
trong nền kinh tế.
Hiện nay, vai trò của SMEs được thể hiện ở cả khía cạnh kinh tế và xã hội.
1.2.2.1. Về khía cạnh kinh tế
- SMEs đóng góp vào kết quả hoạt động của nền kinh tế, góp phần làm tăng GDP.
SMEs hoạt động trong nhiều lĩnh vực, cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng
hóa và dịch vụ khác nhau, đáp ứng nhu cầu sản xuât và tiêu dùng trong nước. Theo
số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2009, SMEs đã đóng góp
11
trên 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của cả nước. Ngoài ra, SMEs Việt Nam
còn cung cấp hầu hết sản phẩm trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút
nhiều lao động như giày dép, chiếu cói, … Từ thực tế trên có thể thấy việc mở rộng
và phát triển SMEs sẽ góp phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP.
- SMEs giúp nền kinh tế phát triển ổn định và hiệu quả hơn.
Trong quá trình kinh doanh, nhiều SMEs có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn
kinh doanh một cách hiệu quả hơn như làm đại lý và vệ tinh cho các doanh nghiệp
lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp lớn
hoặc thâm nhập vào ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn khó có thể với tới
để phân phối các sản phẩm của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhờ hoạt động với quy mô
vừa và nhỏ, SMEs có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành
nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu quả hơn, thỏa mãn nhu cầu linh hoạt
của dân cư. Chính sự phát triển đó của SMEs đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh
hoạt và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.
- SMEs giúp thu hút vốn và khai thác các nguồn lực sẵn có trong dân cư.
Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, vốn giúp khai thác và phối hợp
các yếu tố sản xuất khác như lao động, đất đai, công nghệ và quản lý để tạo ra lợi

nhuận cho các chủ doanh nghiệp. Vốn đóng vai trò mấu chốt trong việc đầu tư trang
thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân
cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, một nghịch lý hiện nay
là trong khi có nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng thì vốn nhàn rỗi trong
dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi chính sách tài chính tín dụng
của Chính phủ và các ngân hàng chưa thực sự gây được niềm tin đối với những
người có vốn nhàn rỗi trong tầng lớp dân cư thì nhiều SMEs đã tiếp xúc trực tiếp
với người dân và huy động được vốn để kinh doanh, hoặc bản thân chính người có
tiền đứng ra đầu tư kinh doanh, thành lập doanh nghiệp. Việc khởi sự doanh nghiệp
với số vốn nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh, tính chất phân tán rải rác đi sâu vào
nhiều vùng, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế như SMEs là cơ hội để huy động các
nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư vào sản xuất kinh doanh. Như
vậy, SMEs có vai trò to lớn trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế.
12
- SMEs góp phần tăng cường và phát triển các mối quan hệ kinh tế.
SMEs hình thành và phát triển với số lượng lớn trong những ngành nghề khác
nhau, luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các doanh
nghiệp lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ tinh
cung cấp các sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn. Mối quan hệ giữa SMEs và các
doanh nghiệp lớn cũng chính là nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật Bản
trong nhiều thập kỷ qua. Do đó, SMEs Việt Nam phát triển sẽ góp phần tăng cường
các mối quan hệ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa SMEs với nhau và giữa SMEs với các
doanh nghiệp lớn. Nhờ đó mà các rủi ro kinh doanh sẽ được chia sẻ và góp phần
tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung.
- SMEs góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ở Việt Nam cũng như các nước khác, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường
tập trung ở các thành phố, khu đô thị, trung tâm công nghiệp và thường hoạt động
trong những lĩnh vực có lợi nhuận cao. Xu hướng này chính là nguyên nhân gây
mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển giữa các vùng và các ngành, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia. SMEs hoạt

động trong nhiều lĩnh vực và ở những địa bàn khác nhau, do đó việc phát triển
SMEs sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tất cả các khía cạnh vùng kinh
tế, ngành kinh tế và thành phần kinh tế. Trước tiên, đó là sự thay đổi cơ cấu kinh tế
vùng nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn thông qua phát triển các ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xóa dần tình trạng thuần
nông và độc canh. Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực vùng sâu, vùng xa,
vùng kém phát triển vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi
thu được từ nơi khác, hay nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao. Tuy
nhiên đối với SMEs thì chi phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, hơn nữa
họ sẽ không phải cạnh tranh với những tập đoàn lớn như ở các khu đồng bằng, đô
thị. Vì vậy họ sẵn sàng làm việc ở đây nếu có các chính sách ưu đãi thích hợp của
chính quyền địa phương. Nhờ vậy, các doanh nghiệp được phân bổ đều hơn về lãnh
thổ ở cả nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng. Bên cạnh đó, sự phát triển
mạnh của SMEs còn có tác dụng làm cho cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi nhờ sự
13
tăng mạnh của các cơ sở ngoài quốc doanh và việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước. Sự phát triển SMEs cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế thông
qua sự đa dạng hóa các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Việc phát
triển SMEs còn có tác dụng duy trì và thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề
truyền thống và sản xuất ra các sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc, khai thác
thế mạnh của đất nước.
- SMEs là cơ sở để hình thành các doanh nghiệp lớn.
Phần lớn các công ty và tập đoàn kinh tế đa quốc gia trên thế giới đều trưởng
thành từ SMEs. Với cách xem xét đó, SMEs chính là nguồn tích lũy ban đầu và là
lồng ấp cho các doanh nghiệp lớn. Do còn thiếu kinh nghiệm và chưa thật hiểu biết
về thị trường nên hầu hết các cơ sở dân doanh ở Việt Nam khi mới ra đời thường
lựa chọn quy mô kinh doanh vừa và nhỏ để bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Sau một
thời gian tích lũy thêm vốn, kinh nghiệm và khẳng định được vị thế của mình trên
thị trường, họ mới tiến hành mở rộng kinh doanh và phát triển với quy mô lớn hơn.
Ngoài ra SMEs còn là lồng ấp, đào tạo tay nghề và trau dồi kinh nghiệm cho các

cán bộ quản lý của các doanh nghiệp lớn sau này vì xu hướng chung của người lao
động thường là chỉ làm trong SMEs một thời gian nhất định để tích lũy kinh nghiệm
và tự hoàn thiện mình, sau khi có đủ kinh nghiệm và khả năng họ sẽ chuyển sang
các doanh nghiệp lớn hơn để làm việc, hưởng thu nhập cao hơn và cơ hội lớn hơn
để thăng tiến. Như vậy, doanh nghiệp lớn tiết kiệm được nhiều chi phí đào tạo khi
tuyển được các nhân viên có tay nghề từ SMEs chuyển sang. Như vậy, SMEs còn
có thể là nơi đào tạo lao động cho các doanh nghiệp lớn.
1.2.2.2. Về khía cạnh xã hội
- SMEs tạo việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp.
Với đặc trưng ít vốn và hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao
động, SMEs ở tất cả các nước có thể tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn
người lao động. Ở nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển, SMEs là nơi
tạo ra nhiều việc làm nhất. Hơn nữa, SMEs thương phân tán ở nhiều địa bàn khác
nhau nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối
tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế,
14
và với các đối tượng lao động có trình độ tay nghề thấp. Nhờ vậy, SMEs vừa giải
quyết thất nghiệp, vừa góp phần giảm dòng người chuyển về thành phố tìm việc.
Khi SMEs phát triển sẽ tạo thêm ngày càng nhiều cơ hội tăng việc làm, thu hút lao
động và giảm tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế, qua đó góp phần giải quyết các vấn
đề xã hội mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư. Trong trường hợp có biến động
xảy ra, với tính chất sản xuất nhỏ, chi phí để tạo ra một chỗ làm việc thấp, tính chất
năng động và linh hoạt của SMEs giúp các doanh nghiệp này có thể nhanh chóng
thích ứng với sự thay đổi của thị trường mà không cần sa thải bớt lao động như các
doanh nghiệp lớn thường làm khi công ty gặp khó khăn hay thị trường có biến động
bất lợi.
- SMEs giúp nâng cao thu nhập của người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo và
thực hiện công bằng xã hội.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như
thu nhập của dân cư rất thấp. Thu nhập của người dân ở nông thôn chủ yếu dựa vào

nền nông nghiệp thuần nông. Việc phát triển SMEs ở nông thôn là một trong các
biện pháp cơ bản góp phần tăng nhanh thu nhập của các tầng lớp dân cư. Thông qua
việc phát triển SMEs, lao động ở nông thôn sẽ được thu hút vào các doanh nghiệp,
nhờ đó mà thu nhập của dân cư được đa dạng hóa và nâng cao hơn. Công việc ở
những doanh nghiệp này sẽ giúp cho cuộc sống của người dân nông thôn sẽ ổn định
hơn và mức sống của dân cư sẽ được nâng cao, góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm
khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và tăng mức độ công bằng trong
nền kinh tế. Hơn nữa, do có tính năng động và linh hoạt, khi SMEs phát triển sẽ tạo
điều kiện phát huy lợi thế của mỗi vùng, phát triển các ngành và các khu công
nghiệp tạo điều kiện giảm bớt khoảng cách kinh tế giữa các vùng trên toàn quốc,
xóa bỏ mức chênh lệch về thu nhập rất lớn giữa các vùng dân cư.
- SMEs tạo điều kiện phát triển các tài năng kinh doanh.
Ngoài các vai trò như đã nói ở trên, SMEs Việt Nam còn có vai trò trong việc
phát triển các tài năng kinh doanh. Trong nhiều năm qua, đội ngũ cán bộ kinh doanh
đã gắn với cơ chế bao cấp, chưa có kinh nghiệm làm việc nhiều trong nền kinh tế thị
trường. Với quy mô nhỏ, tính cạnh tranh chưa cao SMEs có tác dụng đào tạo, chọn
15
lọc và thử thách đội ngũ doanh nhân. Sự ra đời của SMEs làm xuất hiện nhiều tài
năng trong kinh doanh, đó là các doanh nhân thành đạt biết cách làm giàu cho bản
thân mình và cho xã hội. Bằng sự tôn vinh những doanh nhân giỏi, kinh nghiệm
quản lý của họ sẽ được nhân ra và truyền bá tới những doanh nhân khác trong xã
hội dưới nhiều kênh thông tin khác nhau, qua đó sẽ tạo ra thêm nhiều tài năng mới
cho đất nước. Như vậy, SMEs có vai trò không nhỏ trong việc đào tạo lớp doanh
nhân mới ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới.
- SMEs giúp giữ gìn, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, bảo vệ
bản sắc dân tộc.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các ngành nghề truyền thống
đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệu của những sản phẩm được sản xuất
hàng loạt. Để có thể cạnh tranh được với những xí nghiệp sản xuất hàng loạt, những
người thợ thủ công không thể đương đầu một cách riêng lẻ, thay vào đó, họ phải

được tập hợp lại thành một tập thể có tổ chức, để những sản phẩm thủ công truyền
thống sản xuất ra có một thương hiệu. Rất nhiều SMEs hiện đang hoạt động trong
những ngành nghề này sẽ làm tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm thủ công
truyền thống, góp phần giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, bảo vệ
bản sắc dân tộc.
1.3. Lý luận về quốc tế hóa
1.3.1. Tổng quan về quốc tế hóa
1.3.1.1. Khái niệm quốc tế hóa và xu hướng quốc tế hóa hiện nay [20],[21]
Nhìn từ khía cạnh lịch sử, sự quốc tế hóa của các công ty bắt nguồn từ khi con
người bắt đầu có khả năng vượt biển và ra ngoài ranh giới quốc gia. Các học giả đã
thử định nghĩa cụm từ “quốc tế hóa” trong nhiều trường hợp và dưới nhiều góc độ
khác nhau. Welch và Luostarinen (1988) định nghĩa quốc tế hóa là quá trình một
doanh nghiệp tham gia ngày càng sâu vào các hoạt động quốc tế. Johanson và
Vahlne (1977) đã nêu ra ý kiến tương tự về quốc tế hóa. Một số học giả khác cũng
định nghĩa quốc tế hóa là quá trình mà thông qua đó các doanh nghiệp ngày càng ý
thức được những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của thương mại quốc tế đối với
tương lai của họ, từ đó xây dựng và tiến hành các giao dịch với nước khác. Sau đó,
16
Calof và Beamish (1995) đã đưa ra định nghĩa về quốc tế hóa là “quá trình doanh
nghiệp thay đổi cách thức điều hành (chiến lược, cơ cấu, nguồn lực,…) để thích
nghi với môi trường quốc tế”.
Như vậy, có thể định nghĩa quốc tế hóa là quá trình doanh nghiệp thay đổi về
mọi mặt như chiến lược, cơ cấu, nguồn lực, chính sách, mục tiêu,… để dần thích
nghi và từng bước tham gia vào môi trường kinh tế quốc tế.
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu hướng vận động khách quan
của thế giới. Trải qua quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi, với kết
quả tổng hợp của nhiều yếu tố từ nhiều lĩnh vực mà con người hoạt động, xã hội
đang ngày càng tiến gần đến việc hình thành nền kinh tế thế giới.
Hiện nay, lực lượng sản xuất của thế giới đã có bước phát triển vượt bậc. Từ
người lao động đến công cụ sản xuất và vật liệu đều có bước phát triển mới, khiến

cho năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế được nâng cao rõ rệt. Thế kỷ 20, sản
xuất vật chất tạo ra của cải gấp 15 lần thế kỷ 19, lớn hơn toàn bộ khối lượng của cải
vật chất của 2000 năm trước cộng lại. Điều này cho thấy hoạt động kinh tế trong
giai đoạn hiện nay phát triển mạnh mẽ và rộng lớn như thế nào. Tính chất và trình
độ xã hội hóa của lượng sản xuất ngày càng cao, đã và đang tiếp tục phá vỡ rào cản
giữa các quốc gia, giao lưu kinh tế đang mở rộng trên quy mô toàn cầu.
Nền kinh tế thế giới chỉ có thể hình thành và hoạt động hiệu quả trên cơ sở trình
độ dân trí và trình độ người lao động được nâng cao. Trình độ nhận thức và năng
lực tổ chức quản lý điều hành sản xuất, phân công lao động xã hội được mở rộng
trên quy mô toàn thế giới.
Nền kinh tế thế giới đang thay đổi nhanh chóng với một số đặc trưng cơ bản như
sau:
- Sự phát triển chưa từng có của phân công lao động quốc tế và các công ty
xuyên quốc gia. Một trong những lực lượng thúc đẩy quá trình phân công lao động
quốc tế theo chiều sâu là các công ty xuyên quốc gia. Để tồn tại và phát triển trong
sự cạnh tranh quốc tế, các công ty xuyên quốc gia đã thực hành phương châm kinh
doanh là lấy thế giới làm công xưởng, các nước làm kho hàng, thông qua việc phân
công quốc tế để phát huy ưu thế của mình.
17
- Tốc độ tăng trưởng của mậu dịch quốc tế cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Quy mô lưu động vốn quốc tế tăng lên nhanh chóng. Lưu thông quốc tế về
nguồn vốn đạt tới quy mô chưa từng có.
- Các lĩnh vực hợp tác kinh tế trên thế giới không ngừng được mở rộng. Hợp tác
kinh tế được mở rộng về mậu dịch, từ đầu tư đến việc chuyển nhượng và bảo hộ sở
hữu trí tuệ, chuyển dịch sức lao động đều trở thành những nội dung được quan tâm
trong hợp tác kinh tế thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu
hết các lĩnh vực, thúc đẩy sự hợp tác và tăng sức cạnh tranh giữa các nước. Để có
thể tồn tại và phát triển được trong môi trường quốc tế với quy mô lớn và tính cạnh
tranh cao, các quốc gia nói chung và các doanh nghiệp nói riêng cần thiết phải tiến

hành quốc tế hóa. Quốc tế hóa là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu
tranh rất phức tạp, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển cần bảo vệ lợi ích
của mình vì một trật tự kinh tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các
cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia. Đối với Việt Nam, quá trình quốc
tế hóa trong thời gian tới được nâng lên một bước mới, gắn với việc thực hiện các
cam kết quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh
tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân
công lao động quốc tế.
Quá trình quốc tế hóa đòi hỏi chính phủ phải chủ động đổi mới phương pháp
lãnh đạo, điều hành, đổi mới toàn diện nền hành chính quốc gia nhằm xây dựng một
môi trường thể chế thông thoáng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các doanh nghiệp
cần chủ động đổi mới quy trình công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực để nâng cao khả
năng cạnh tranh, tận dụng các cơ hội do quá trình hội nhập tạo ra. Đồng thời, các
doanh nghiệp cũng cần chú trọng phát huy lợi thế, không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế với
các nước.
Quốc tế hóa là quá trình không thể tránh khỏi của các quốc gia và các doanh
nghiệp. Quá trình này vừa tạo điều kiện thuận lợi, vừa đòi hỏi sự cải cách nhất định,
trước hết là các chính sách và phương thức quản lý kinh tế vĩ mô, qua đó phát triển
18
và hoàn thiện mình, nhanh chóng thích ứng với các đổi thay của nền kinh tế thế
giới, nâng cao sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Quốc tế hóa cũng là tạo dựng
các nhân tố và điều kiện mới cho sự phát triển của từng doanh nghiệp và của toàn
quốc gia, khơi dậy nguồn lực bên trong và thu hút nguồn lực bên ngoài, nhằm mở
rộng thị trường, chuyển giao công nghệ, thu hút vốn đầu tư và kinh nghiệm quản lý.
Các quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng cần chuẩn bị sẵn sàng để theo
kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới.
1.3.1.2. Đặc trưng của quốc tế hóa
a. Mở rộng nguồn vốn doanh nghiệp
Vốn là nhân tố cơ bản trong quá trình sản xuất, có vai trò quan trọng trong phát

triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như của doanh nghiệp nói
riêng. Vốn là yếu tố tiền đề để từ đó có thể kết hợp các yếu tố khác như lao động,
đất đai, công nghệ, quản lý. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải
tiến công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động và mở rộng quy mô sản xuất.
Bởi vậy, khi doanh nghiệp tiến hành quốc tế hóa thì yếu tố cần được quan tâm đầu
tiên là vốn. Để tiến hành quốc tế hóa, doanh nghiệp cần có một lượng vốn đáng kể
để cải tiến công nghệ, cải tiến sản phẩm cũ và sáng tạo ra các sản phẩm mới sao cho
phù hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế chứ không chỉ riêng thị trường nội địa
như trước. Hơn nữa, sau khi sản xuất sản phẩm, doanh nghiệp sẽ mất một lượng vốn
lớn để xúc tiến, quảng cáo sản phẩm của mình tại thị trường ngoài nước.
Bởi vậy, một khi tiến hành quốc tế hóa, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu
kỹ lưỡng nhau cầu vốn cần có và tăng cường đầu tư vốn. Tuy nhiên khó khăn về
vốn vẫn là tình trạng chung của các doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là các SMEs.
Điều này không có gì là mới mẻ và cũng không xa lạ với các nước đang phát triển
như nước ta. Để có thể có đủ vốn cho quá trình quốc tế hóa, các doanh nghiệp cần
phải tiếp cận các nguồn tín dụng. Song đối với một nền kinh tế có khu vực tài chính
còn nhiều hạn chế như Việt Nam thì đó là một vấn đề không dễ giải quyết.
b. Tăng cường đổi mới công nghệ
Tiến bộ khoa học công nghệ đang dần trở thành yếu tố quan trọng nhất trong các
yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế quốc tế hóa,
19
toàn cầu hóa. Từ năm 2000, Diễn đàn kinh tế thế giới đã nâng trọng số cho yếu tố
khoa học công nghệ và sáng tạo kinh tế từ 1/9 lên 1/3, thể hiện ý nghĩa quan trọng
của yếu tố này
2
. Khoa học công nghệ quyết định phẩm cấp của sản phẩm, cũng như
năng suất lao động.
Một doanh nghiệp có năng lực công nghệ cao không chỉ là doanh nghiệp được
trang bị thiết bị máy móc hiện đại mà còn là doanh nghiệp có một đội ngũ cán bộ kỹ
thuật cũng như công nhân giỏi, doanh nghiệp có thể nhanh chóng nắm bắt và làm

chủ các công nghệ mới và có thể cải tiến công nghệ nhập sao cho phù hợp với điều
kiện của doanh nghiệp mình. Một doanh nghiệp có năng lực công nghệ thấp thường
gặp khó khăn khi áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hiệu quả của việc đổi mới
công nghệ sẽ thấp.
Quá trình quốc tế hóa đưa doanh nghiệp đến một thị trường mới rộng lớn hơn,
cạnh tranh hơn, khó tính hơn. Sản phẩm của doanh nghiệp cần phải phong phú hơn,
có tính cạnh tranh hơn, chất lượng tốt hơn thì mới có thể tồn tại và cạnh tranh được
với sản phẩm cùng loại của những doanh nghiệp từ các quốc gia khác trong thị
trường này. Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải tiến hành cải tiến công nghệ lên ngang
tầm với phần đa các doanh nghiệp trong thị trường quốc tế, hoặc ít nhất là rút ngắn
khoảng cách đến tối thiểu, có như vậy doanh nghiệp mới không bị đào thải khỏi thị
trường quốc tế.
c. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực
Như chúng ta đều biết, yếu tố giữ vai trò chi phối quyết định các hoạt động và
phát triển doanh nghiệp chính là lực lượng lao động. Lực lượng sản xuất bao gồm
sức lao động và tư liệu sản xuất, hay nói cách khác bao gồm yếu tố người và yếu tố
vật chất sử dụng trong quá trình sản xuất. Trong đó yếu tố quan trọng nhất giữ vai
trò quyết định trong lực lượng sản xuất là con người, bởi tư liệu sản xuất sẽ không
có ý nghĩa nếu không có con người sử dụng, hơn nữa cũng không có tư liệu sản
xuất nếu con người không sáng tạo ra chúng. Người lao động với tri thức của mình,
với sự hiểu biết, năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi, kỹ năng lao động của mình
sẽ làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
2
Trang web của Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế: />20
Doanh nghiệp nào có được nguồn cán bộ quản lý, kỹ sư, công nhân giỏi sẽ có lợi
thế lớn trong cạnh tranh. Ngược lại, một doanh nghiệp không có được nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu phát triển thì sẽ rất khó chèo chống và dễ dàng bị đào thải khỏi
vòng phát triển như vũ bão của quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa. Như vậy, nâng
cao trình độ nguồn nhân lực là yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp nói chung
và SMEs nói riêng để thực hiện quốc tế hóa thành công.

d. Tiếp cận và tạo lập thương hiệu tại thị trường mới
Thương hiệu của doanh nghiệp là cảm nhận tổng thể về chất lượng, môi trường,
uy tín và giá trị đăng sau một cái tên, một cái logo của doanh nghiệp. Thương hiệu
cũng có thể coi như một phát ngôn viên của doanh nghiệp. Phát ngôn viên này đại
diện cho những gì đặc trưng, tinh túy của doanh nghiệp. Gắn với thương hiệu phải
là chất lượng, là uy tín. Thương hiệu là tài sản vô cùng giá trị và lâu bền của người
sở hữu. Nó là kinh nghiệm tích lũy mà người tiêu dùng nhận thức được về một công
ty, những con người tạo nên công ty đó và sản phẩm của nó. Tóm lại thương hiệu
không chỉ là cái tên doanh nghiệp, thương hiệu nói lên tất cả các yếu tố của doanh
nghiệp mà người ta cảm nhận được và ghi nhớ. Tạo dựng được thương hiệu, hình
ảnh của doanh nghiệp trong lòng người tiêu dùng là một vũ khí mạnh hơn bất kỳ
một phương pháp quảng cáo nào. Để có thể tồn tại và tồn tại một cách bền vững
trên thị trường quốc tế thì doanh nghiệp cần coi trọng việc duy trì và bảo vệ thương
hiệu của mình trên thị trường hiện tại, tiếp cận và tạo lập thương hiệu doanh nghiệp
trong lòng người tiêu dùng ở những thị trường ngoài nước.
1.3.2. Tác động của quốc tế hóa
Ngày nay, quốc tế hóa đã trở thành xu hướng tất yếu, là con đường mà Việt
Nam nói riêng và các doanh nghiệp nói chung đang hướng tới. Quá trình này sẽ có
tác động rất phức tạp đến nền kinh tế của nước ta cũng như tới các doanh nghiệp, có
cả những tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực, mang lại cả thời cơ lẫn thách thức
cho chúng ta. Vì thế chúng ta cần nắm bắt rõ con đường này sẽ thay đổi chúng ta
như thế nào để có thể thích nghi và phát triển tốt.
21
1.3.2.1. Đối với nền kinh tế nói chung
Quốc tế hóa sẽ thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa của các
lực lượng sản xuất, quá trình đó có thể đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao do hoạt
động giao thương diễn ra trên quy mô rộng hơn, cách thức và hàng hóa cũng đa
dạng hơn. Nó sẽ góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế của quốc gia. Quốc tế
hóa sẽ giúp truyền bá, chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành quả mới
mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về

sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các nước, các doanh
nghiệp, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Như vậy, các nước sẽ
rút ngắn được thời gian để đạt đến trình độ công nghệ tiên tiến thế giới.
Quốc tế hóa sẽ tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn
lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các doanh nghiệp nói chung và SMEs nước ta
nói riêng, từ nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh nghiệm về xây dựng
chiến lược cũng như tổ chức tiến hành, cả ở tầm vĩ mô của quốc gia lẫn tầm vi mô
của từng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, quốc tế hóa cũng làm mọi mặt hoạt động và đời sống của con người
thêm phần kém an toàn, từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn
của quốc gia và an toàn của hệ thống kinh tế, tài chính, tiền tệ.
Quốc tế hóa làm thu hẹp quyền lực, phạm vi và hiệu quả tác động của Nhà nước
– một nền tảng cực kỳ quan trọng của các quốc gia, đặt ra một vấn đề rất nhạy cảm
và gây nên những phản ứng quyết liệt. Trong trường hợp chính sách quốc gia phạm
sai lầm, thì tác hại của sự tranh chấp và xung đột quyền lực lại càng nặng nề và
nghiêm trọng.
1.3.2.2. Đối với SMEs
Với vai trò là thành phần chủ chốt trong nền kinh tế nước ta, SMEs là những
người sẽ chịu tác động trực tiếp của quá trình quốc tế hóa, bởi vậy họ càng phải ý
thức cao hơn nữa về vai trò của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia
cũng như vai trò của quốc tế hóa đối với sự phát triển của họ.
Quốc tế hóa sẽ giúp các doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận được với những
thành quả khoa học công nghệ tiên tiến, những tri thức và kinh nghiệm quản lý
22

×