Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Khoá luận Quản trị rủi ro Logistics và chuỗi cung ứng. Thực trạng tại Việt nam và xu hướng trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 132 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
MỤC LỤC
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
1
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
MỞ ĐẦU
Suy thoái kinh tế toàn cầu đã thay đổi bản chất, tầm vóc và độ phức tạp của rủi ro
logistics và chuỗi cung ứng. Đồng thời, kinh doanh mở rộng đi đôi với hoạt động
logistics và chuỗi cung ứng phát triển phức tạp hơn bao giờ hết. Những điều này đòi hỏi
các nhà lãnh đạo cần xem xét những nguy cơ nghiêm trọng nhất đối với công ty của mình
và khả năng tái cân bằng các yếu tố giữa tối ưu hóa chi phí và quản lý rủi ro hiệu quả. Vì
vậy, để tìm hiểu tầm quan trọng của hoạt động quản trị rủi ro trong logistics và chuỗi
cung ứng tôi quyết định chọn đề tài “ Quản trị rủi ro logistics và chuỗi cung ứng – Thực
trạng tại Việt Nam và xu hướng trên thế giới”.
Mục đích của luận văn là cung cấp cho những người có nhu cầu tìm hiểu về quản
trị rủi ro logistics và chuỗi cung ứng những kiến thức cơ bản về quá trình quản trị rủi ro,
những vấn đề trọng tâm trong hoạt động quản trị rủi ro logistics và chuỗi cung ứng.
Thông qua đó, liên hệ với thực trạng quản trị logistics và chuỗi cung ứng tại Việt Nam và
một số nước trên thế giới. Luận văn cũng đưa ra một số xu hướng chính trong quản trị mà
các nhà cung cấp dịch vụ sử dụng để đối phó với những rủi ro có thể xảy ra đối với chuỗi
cung ứng. Cuối cùng, đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng hiệu quả hoạt động
quản trị rủi ro cho logistics và chuỗi cung ứng tại Việt Nam.
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp phân tích và tổng hợp: Các phần của
hoạt động quản trị rủi ro sẽ được phân tích thành các bộ phận riêng biệt, vận dụng
phương pháp đánh giá tổng hợp kết hợp với hệ thống hóa để có thể nhận định đầy đủ về
tình hình hoạt động chung và nêu ra các điểm mạnh, điểm yếu trong việc quản trị rủi ro
tại Việt Nam. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp đối chiếu: đối chiếu giữa lý luận và
thực tiễn; giữa thực trạng quản trị rủi ro trên thế giới và Việt Nam để tìm ra và giải quyết
những khó khăn thách thức trong hoạt động quản trị rủi ro logistics và chuỗi cung ứng tại


Việt Nam.
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
2
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Có thể thấy, Việt Nam có nhiều tiềm năng trong phát triển logistics và cung ứng
song các doanh nghiệp Việt Nam ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng bởi nền kinh tế thế giới.
Trong khi đó, các doanh nghiệp logistics và cung ứng Việt Nam hoàn toàn chưa nhận
thức rõ ràng về những nguy cơ có thể làm sụp đổ toàn bộ hệ thống logistics và chuỗi
cung ứng. Do đó, luận văn một phần góp phần khẳng định rằng “quản trị rủi ro là một
hợp đồng bảo hiểm mà chúng ta chưa nhìn thấy ngay lợi ích của nó cho đến khi rủi ro xảy
ra” và cung cấp nền tảng cho hoạt động quản trị rủi ro logistics và chuỗi cung ứng của
doanh nghiệp Việt Nam. .
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn sẽ được
trình bày thành 3 chương như sau :
Chương I: Những lý luận cơ bản về quản trị rủi ro logistics và chuỗi cung ứng.
Chương II: Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro logistics và chuỗi cung ứng tại
Việt Nam.
Chương III: Xu hướng quản trị rủi ro trong logistics và chuỗi cung ứng trên thế
giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Để hoàn thành bài luận văn, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý
nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Ngoại thương Hà Nội. Đặc biệt, tôi xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Phạm Thanh Hà đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng
dẫn và giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn
của mình tới các anh chị sinh viên khóa trước đã tạo điều kiện và góp ý các dữ liệu cần
thiết cho bài luận văn thêm hoàn thiện.
Mặc dù tôi đã cố gắng hoàn thành luận văn với sự cố gắng và năng lực của mình,
tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp quý báu từ
quý thầy cô và các bạn.
NỘI DUNG

Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
3
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO
LOGISTICS VÀ CHUỖI CUNG ỨNG.
I. Tổng quan về quản trị trong logistics và chuỗi cung ứng.
1. Khái niệm logistics và chuỗi cung ứng.
1.1 Khái niệm.
Logistics và chuỗi cung ứng là hai khái niệm không còn quá mới mẻ trong hoàn
cảnh kinh kế mà thị trường toàn cầu ngày càng mở rộng và phát triển. Theo quan điểm
của các nhà quản trị thì chuỗi cung ứng chính là giai đoạn phát triển cao hơn của
logistics. Bởi lẽ, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và quản lý cuối thế
kỷ 20 đã đưa logistics lên một tầm cao mới. Hơn nữa, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt
ở thị trường toàn cầu hiện nay, việc giới thiệu sản phẩm mới với chu kỳ sống ngày càng
ngắn hơn, cùng với mức độ kỳ vọng ngày càng cao của khách hàng đã thúc đẩy các
doanh nghiệp phải đầu tư, và tập trung nhiều vào chuỗi cung ứng của nó. Điều này, cùng
với những tiến bộ liên tục trong công nghệ truyền thông và vận tải, đã thúc đẩy sự phát
triển không ngừng của chuỗi cung ứng và những kỹ thuật để quản lý nó.
Khởi đầu, Logistics có nguồn gốc xuất phát từ Hilạp - logistikos - phản ánh môn
khoa học nghiên cứu tính quy luật của các hoạt động cung ứng và đảm bảo các yếu tố tổ
chức, vật chất và kỹ thuật (do vậy, một số từ điển định nghĩa là hậu cần) để cho quá trình
chính yếu được tiến hành đúng mục tiêu. Và Napoleon đã từng định nghĩa: Hậu cần là
hoạt động để duy trì lực lượng quân đội, nhưng cũng chính do hoạt động hậu cần sơ sài
đã dẫn đến sự thất bại của vị tướng tài ba này trên đường tới Moscow vì đã căng hết mức
đường dây cung ứng của mình.
Cuốn sách đầu tiên về logistics ra đời năm 1961, bằng tiếng Anh với tựa đề
“Physical distribution management”, từ đó đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau
được đưa ra để khái quát về lĩnh vực này, mỗi khái niệm thể hiện một góc độ tiếp cận và
nội dung khác nhau.

Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
4
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Trên thế giới, khái niệm logistics được đề cập bởi nhiều tổ chức khác nhau với các
khía cạnh khác nhau gồm:
Liên Hợp Quốc: Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật
liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu
của khách hàng.
Ủy ban Quản lý Logistics của Hoa Kỳ: Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn
phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu
quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và
thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi
hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Theo Luật Thương mại Việt Nam, logistics là một hoạt động thương mại do các
thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận
chuyển, lưu kho bãi, làm thủ tục hải quan và các loại giấy tờ, tư vấn khách hàng, đóng
gói, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa để hưởng phí thù lao.
Hoặc hiểu một cách đơn giản, logistics là việc thực hiện và kiểm soát toàn bộ hàng hóa
cùng những thông tin có liên quan từ nơi hình thành nên hàng hóa cho đến điểm tiêu thụ
cuối cùng.
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
5
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Hình 1.1: Các giai đoạn phát triển của logistics
Có thể thấy rằng, khái niệm và hoạt động chuỗi cung ứng ra đời vào những năm
1980s. Thời kì này các doanh nghiệp bắt đầu nhận thấy rằng phải coi các khách hàng và
các nhà cung ứng như là đồng minh chiến lược, những đơn vị cộng tác kinh doanh. Chính
sự hợp tác, liên kết giữa các bên là cơ sở để hoạt động logistics đạt được hiệu quả ngày

càng cao, giảm sự chồng chéo, hao phí không cần thiết, tập trung vào việc kinh doanh,
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
1950 1960 1970 1980 1990 2000
Worplac
Worplac
e
e
logistics
logistics
Worplac
Worplac
e
e
logistics
logistics
Facility
Facility
logistics
logistics
Facility
Facility
logistics
logistics
Corporate
Corporate
logistics
logistics
Corporate
Corporate
logistics

logistics
Supply
Supply
chain
chain
logistics
logistics
Supply
Supply
chain
chain
logistics
logistics


Global
Global


logistics
logistics


Global
Global


logistics
logistics
Ph¹m vi vµ ¶nh h ëng

6
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
thúc đẩy thắng lợi chung. Chuỗi cung ứng ra đời. Đó là một mạng lưới các cơ sở hạ tầng
(nhà máy, kho hàng, cầu cảng, cửa hàng…), các phương tiện (xe tải, tàu hoả, máy bay,
tàu biển…) cùng với hệ thống thông tin được kết nối với nhau giữa các nhà cung ứng của
một công ty và các khách hàng của công ty đó. Các hoạt động logistics (dịch vụ khách
hàng, quản trị dự trữ, vận chuyển và bảo quản hàng hoá…) được liên kết với nhau để
thực hiện các mục tiêu trong chuỗi cung ứng.
Ngoài ra dựa trên quan điểm về các dòng vận chuyển, chuỗi cung ứng được hiểu
là "Quá trình tối ưu hoá về vị trí, vận chuyển và dự trữ các nguồn tài nguyên từ điểm
đầu tiên của dây chuyền cung ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua
hàng loạt các hoạt động kinh tế ”.
Cho đến ngày nay, chuỗi cung ứng được xem xét một cách hoàn thiện hơn. Chuỗi
cung ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, một cách trực tiếp hay gián tiếp,
trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ bao gồm nhà sản
xuất và nhà cung cấp, mà còn công ty vận tải, nhà kho, nhà bán lẻ và khách hàng của nó.
Hình 1.2: Sơ đồ một chuỗi cung ứng điển hình
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
7
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
1.2 Cấu trúc chuỗi cung ứng.
Trong chuỗi cung ứng có sự kết hợp của một số công ty thực hiện những chức
năng khác nhau. Những công ty đó là nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán sỉ, nhà bán lẻ
và khách hàng cá nhân hay khách hàng là tổ chức.
• Nhà sản xuất
Nhà sản xuất là các tổ chức sản xuất ra sản phẩm. Nhà sản xuất bao gồm những
công ty sản xuất nguyên vật liệu và công ty sản xuất thành phẩm. Các nhà sản xuất
nguyên vật liệu như khai thác khoáng sản, khoan tìm dầu khí, cưa gỗ. . . và cũng bao gồm

những tổ chức trồng trọt, chăn nuôi hay đánh bắt thuỷ hải sản. Các nhà sản xuất thành
phẩm sử dụng nguyên vật liệu và các bộ phận lắp ráp được sản xuất ra từ các công ty
khác.
• Nhà phân phối
Nhà phân phối là những công ty tồn trữ hàng với số lượng lớn từ nhà sản xuất và
phân phối sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối bán sản phẩm cho những nhà kinh
doanh khác với số lượng lớn hơn so với khách hàng mua lẻ. Do sự biến động nhu cầu về
sản phẩm, nhà phân phối tồn trữ hàng hóa, thực hiện bán hàng và phục vụ khách hàng.
Một nhà phân phối điển hình là một tổ chức sở hữu nhiều sản phẩm tồn kho mua từ nhà
sản xuất và bán lại cho người tiêu dùng. Có những chức năng khác mà nhà phân phối
phải thực hiện là quản lý tồn kho, vận hành cửa hàng, vận chuyển sản phẩm cũng như
chăm sóc khách hàng. Nhà phân phối cũng là một tổ chức chỉ đại diện bán hàng giữa nhà
sản xuất và khách hàng, không bao giờ sở hữu sản phẩm đó. Loại nhà phân phối này thực
hiện chức năng chính yếu là khuyến mãi và bán sản phẩm. Với cả hai trường hợp này,
nhà phân phối là đại lý nắm bắt liên tục nhu cầu của khách hàng, làm cho khách hàng
mua sản phẩm từ các công ty sản xuất.
• Nhà bán lẻ
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
8
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Nhà bán lẻ tồn trữ sản phẩm và bán cho khách hàng với số lượng nhỏ hơn. Nhà
bán lẻ trong khi bán hàng cũng nắm bắt ý kiến và nhu cầu của khách hàng rất chi tiết. Do
nỗ lực chính là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mình bán, nhà bán lẻ thường
quảng cáo và sử dụng một số kỹ thuật kết hợp về giá cả, sự lựa chọn và sự tiện dụng của
sản phẩm.
• Khách hàng
Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mua và sử dụng
sản phẩm. Khách hàng là tổ chức có thể mua một sản phẩm để kết hợp với sản phẩm khác
rồi bán chúng cho khách hàng khác là người sử dụng sản phẩm sau/ mua sản phẩm về

tiêu dùng.
• Nhà cung cấp dịch vụ
Đó là những tổ chức cung cấp dịch vụ cho nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ
và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có những chuyên môn và kỹ năng đặc biệt ở một
hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung ứng. Chính vì thế, họ có thể thực hiện những dịch
vụ này hiệu quả hơn và với mức giá tốt hơn so với chính các nhà sản xuất, nhà phân phối,
nhà bán lẻ hay người tiêu dùng làm điều này. Trong bất kỳ chuỗi cung ứng nào, nhà
cung cấp phổ biến nhất là cung cấp dịch vụ vận tải và dịch vụ nhà kho. Đây là các công
ty xe tải và công ty kho hàng và thường được biết đến là nhà cung cấp hậu cần.
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
9
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Hình 1.3: Cấu trúc chuỗi cung ứng
Trong thực tế có rất nhiều sự biến động trong những mô hình cơ bản này. Một vài
chuỗi cung ứng có nhiều cấp bậc cho khách hàng và cho cả những nhà phân phối, trong
khi mặt khác có nhiều chuỗi lại có sự lưu thông nguyên liệu đơn giản, trong khi đó có
những chuỗi khác thì có hệ thống rắc rối và phức tạp.
Những chiến lược khác nhau cũng dẫn đến các chuỗi cung ứng khác nhau, vì thế
một công ty cần tập trung vào sự nhanh chóng trong phân phối điều này sẽ xây dựng một
chuỗi khác tập trung vào việc hạ thấp chi phí. Những nhân tố này cũng ảnh hưởng đến
cấu trúc của chuỗi cung ứng là: yêu cầu của khách hàng, xu hướng chung của nền kinh tế,
sự sẵn sàng của dịch vụ hậu cần, yếu tố văn hóa, tốc độ đổi mới, sự cạnh tranh, thị
trường, sự sắp xếp về tài chính.
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
10
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Điểm nhấn trong cấu trúc chuỗi cung ứng là tính tương tác và sự kết nối giữa các
chủ thể trong chuỗi thông qua 3 dòng liên kết:

- Dòng thông tin: Dòng giao và nhận của các đơn đặt hàng, theo dõi quá trình dịch
chuyển của hàng hoá và chứng từ giữa người gửi và người nhận
- Dòng sản phẩm: Con đường dịch chuyển của hàng hoá và dịch vụ từ nhà cung
cấp tới khách hàng, đảm bảo đúng đủ về số lượng và chất lượng
- Dòng tài chính: Chỉ dòng tiền bạc và chứng từ thanh toán giữa các khách hàng
và nhà cung cấp, thể hiện hiệu quả kinh doanh.
1.3. Vai trò – ý nghĩa của logistics và chuỗi cung ứng trong hoạt động kinh doanh
Ngành logistics - chuỗi cung ứng có vị trí ngày càng quan trọng trong các nền kinh
tế hiện đại và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia và toàn cầu.
Phần giá trị gia tăng do ngành logistics và chuỗi cung ứng tạo ra ngày càng lớn và tác
động của nó thể hiện rõ dưới những khía cạnh dưới đây:
Logistics - chuỗi cung ứng là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế trong một
quốc gia và toàn cầu qua việc cung cấp nguyên liệu, sản xuất, lưu thông phân phối,
mở rộng thị trường. Trong nền kinh tế hiện đại, sự tăng trưởng về số lượng của khách
hàng đã thúc đẩy sự gia tăng hàng nghìn sản phẩm và dịch vụ mới và giới thiệu, bán ra và
phân phối chúng hàng ngày đến các ngõ ngách của thế giới trong thập kỷ vừa qua. Để
giải quyết các thách thức do thị trường mở rộng và sự tăng nhanh của hàng hóa và dịch
vụ, các hãng kinh doanh phải mở rộng quy mô và tính phức tạp, phát triển các nhà máy
liên hợp thay thế cho những nhà máy đơn. Chuỗi cung ứng hiện đại đã giúp các hãng làm
chủ được toàn bộ năng lực cung ứng của mình qua việc liên kết các hoạt động cung cấp
đầu vào, sản xuất, lưu thông, phân phối kịp thời chính xác. Nhờ đó mà đáp ứng được
những cơ hội kinh doanh trong phạm vi toàn cầu.
Tiết kiệm và giảm chi phi phí trong lưu thông phân phối. Với tư cách là các tổ
chức kinh doanh cung cấp các dịch vụ logistics và chuỗi cung ứng chuyên nghiệp, các
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
11
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
doanh nghiệp logistics cung như quản lý chuỗi cung ứng mang lại đầy đủ các lợi ích cho
các ngành sản xuất và kinh doanh khác. Từ đó mà mang lại hiệu quả cao không chỉ ở chất

lượng dịch vụ cung cấp mà còn tiết kiệm tối đa về thời gian và tiền bạc cho các quá trình
lưu thông phân phối trong nền kinh tế.
Mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế, góp phần giảm chi phí, hoàn thiện
và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và vận tải quốc
tế. Trong thời đại toàn cầu hóa, thương mại quốc tế là sự lựa chọn tất yếu cho mọi quốc
gia trong tiến trình phát triển đất nước. Các giao dịch quốc tế chỉ thực hiện được và mang
lại hiệu quả cho quốc gia khi dựa trên một hệ thống logistics – chuỗi cung ứng giá cả hợp
lý và chất lượng cao. Hệ thống này giúp cho mọi dòng hàng hóa được lưu chuyển thuận
lợi, suôn sẻ từ quốc gia này đến quốc gia khác nhờ việc cung ứng kịp thời, phân phối
chính xác, chứng từ tiêu chuẩn, thông tin rõ ràng…
Là một bộ phận trong GDP, logistics - chuỗi cung ứng ảnh hưởng đáng kể đến
tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ lãi xuất, năng suất, chi phí, chất lượng và hiệu quả, cũng như các
khía cạnh khác của nền kinh tế. Một nghiên cứu chỉ ra rằng bình quân một tổ chức của
Mỹ có thể mở rộng năng suất logistics 20% hoặc hơn trong 1 năm. Một cách để chỉ ra vai
trò của logistics là so sánh phí tổn của nó với các hoạt động xã hội khác. Tại Mỹ chi phí
kinh doanh logstics lớn gấp 10 lần quảng cáo, gấp đôi so với chi phí bảo vệ quốc gia và
ngang bằng với chi phí chăm sóc sức khỏe con người hàng năm. Marketing coi logistics
là việc phân phối vật lý hàng hóa. Cơ sở cho quan niệm này là hoạt động dự trữ thành
phẩm hoặc cung cấp các yếu tố đầu vào do logistics và chuỗi cung ứng đảm nhiệm cũng
là nhiệm vụ của biến số phân phối (Place) trong marketing - mix và được gọi là phân
phối vận động vật lý. Hiểu đơn giản là khả năng đưa 1 sản phẩm đến đúng thời điểm,
đúng số lượng, đúng khách hàng. Sản xuất coi logistics và hoạt động chuỗi cung ứng là
việc lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy, chọn nguồn cung ứng tốt và phân phối
hàng hóa thuận tiện, thông suốt…Bởi lẽ các hoạt động này ảnh hưởng và liên quan chặt
chẽ đến thời gian điều hành sản xuất, kế họach sản xuất, khả năng cung cấp nguyên vật
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
12
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
liệu, tính thời vụ của sản xuất, chi phí sản xuất, thậm chí ngay cả vấn đề bao bì đóng gói

sản phẩm trong sản xuất công nghiệp hiện đại.
Logistics và chuỗi cung ứng giúp nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí
sản trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Quan
điểm marketing cho rằng, kinh doanh tồn tại dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu khách hàng và
cho thấy 3 thành phần chủ yếu của khái niệm này là sự phối hợp các nỗ lực marketing,
thỏa mãn khách hàng và lợi nhuận công ty. Logistics và chuỗi cung ứng đóng vai trò
quan trọng với các thành phần này theo cách thức khác nhau. Nó giúp phối hợp các biến
số marketing –mix, gia tăng sự hài lòng của khách hàng, trực tiếp làm giảm chi phí, gián
tiếp làm tăng lợi nhuận trong dài hạn.
Logistics và chuỗi cung ứng cho phép doanh nghiệp di chuyển hàng hóa và
dịch vụ hiệu quả đến khách hàng: Logistics không chỉ góp phần tối ưu hóa về vị trí mà
còn tối ưu hóa các dòng hàng hóa và dịch vụ tại doanh nghiệp nhờ vào việc phân bố
mạng lưới các cơ sở kinh doanh và điều kiện phục vụ phù hợp với yêu cầu vận động
hàng hóa. Hơn thế nữa, các mô hình quản trị và phương án tối ưu trong dự trữ, vận
chuyển, mua hàng…và hệ thống thông tin hiện đại sẽ tạo điều kiện để đưa hàng hóa đến
nơi khách hàng yêu cầu nhanh nhất với chi phí thấp, cho phép doanh nghiệp thực hiện
hiệu quả các hoạt động của mình
Logistics và chuỗi cung ứng có vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính
xác trong hoạt động sản xuất kinh doanh, là một nguồn lợi tiềm tàng cho doanh
nghiệp: Một hệ thống logistics và chuỗi cung ứng hiệu quả và kinh tế cũng tương tự như
một tài sản vô hình cho công ty. Nếu một công ty có thể huy động nhanh nguồn đầu vào
và cung cấp sản phẩm cho khách hàng của mình một cách nhanh chóng với chi phí thấp
thì có thể thu được lợi thế về thị phần so với đối thủ cạnh tranh. Điều này có thể giúp cho
việc bán hàng ở mức chi phí thấp hơn nhờ vào hệ thống logistics và chuỗi cung ứng hiệu
quả hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng với trình độ cao hơn do dó tạo ra uy tín
2. Quản trị logistics và chuỗi cung ứng
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
13
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương

2.1 Sự cần thiết của hoạt động quản trị logistics và chuỗi cung ứng.
2.1.1 Nguồn gốc của quản trị logistics và chuỗi cung ứng.
Trong thập niên 1980, các công ty phát hiện ra rằng các chiến lược và công nghệ
sản xuất mới cho phép họ giảm chi phí và cạnh tranh tốt hơn ở các thị trường khác nhau.
Nhiều trong số các công ty này đang khám phá rằng quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả là
bước kế tiếp họ cần phải thực hiện để gia tăng lợi nhuận và thị phần.
Thực ra, trong năm 1988 các công ty Mỹ đã tiêu tốn 898 tỷ USD, hoặc khoảng
10% của tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ, chi cho các hoạt động liên quan đến logitics và
cung ứng. Trong năm 2000, chi phí này tăng lên 1006 tỷ USD. Con số này kết luận rằng
chi phí vận chuyển, lưu trữ và kiểm soát sản phẩm trong chuỗi cung ứng, cả trong các
nhà máy sản xuất, nhà kho và giữa các cấu thành khác nhau của chuỗi cung ứng. Không
may mắn là mức đầu tư khổng lồ này điển hình bao gồm nhiều cấu thành chi phí không
cần thiết do tồn kho thừa, các chiến lược vận tải không hiệu quả và các hoạt động lãng
phí khác trong chuỗi cung ứng. Ví dụ, các chuyên gia tin rằng ngành buôn bán tạp hóa có
thể tiết kiệm khoảng 30 tỷ USD, hoặc 10% chi phí hoạt động thường niên của nó bằng
việc sử dụng các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả hơn.
Vì vậy nhiều cơ hội hiện có để cắt giảm chi phí trong chuỗi cung ứng. Không có gì
đáng ngạc nhiên là có khá nhiều công ty có thể gia tăng sản lượng một cách đáng kể hoặc
giảm chi phí thông qua việc quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả. P&G ước tính rằng nó tiết
kiệm 65 triệu USD từ khách hàng bán lẻ thông qua một sáng kiến về chuỗi cung ứng
trong vòng 18 tháng gần đây. Ví dụ này gợi ý rằng đối tác chiến lược giữa nhà cung cấp
và người sản xuất có tác động quan trọng đến thành tích hiệu quả của chuỗi cung ứng.
Vào năm 1979, Wal-Mart chỉ là một nhà bản lẻ nhỏ ở miền Nam chỉ với 229 cửa
hiệu và doanh thu bình quân khoảng một nửa so với cửa hàng của Kmart. Trong 10 năm,
Wal-Mart đã thay đổi chính bản thân mình; vào năm 1992, Wal-Mart đạt kỷ lục về doanh
số cao nhất cho mỗi mét vuông diện tích cửa hàng, vòng quay tồn kho lớn nhất và lợi
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
14
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương

nhuận hoạt động lớn nhất trong cửa hàng bán lẻ chiết khấu. Ngày nay Wal-Mart là nhà
bán lẻ lớn nhất và lợi nhuận cao nhất trên toàn thế giới. Thực ra, vào năm 1999, Wal-
Mart chiếm gần 5% chi tiêu về bán lẻ của toàn nước Mỹ. Wal-Mart đã thực hiện được
điều đó như thế nào? Khởi điểm chính là nhờ tập trung thường xuyên vào việc thỏa mãn
nhu cầu của khách hàng; mục tiêu của Wal-Mart là đảm bảo cho khách hàng có được
hàng hóa bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu họ muốn và xây dựng cấu trúc chi phí cho
phép có một mức giá cạnh tranh. Yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu này là tạo ra cách
thức giúp công ty bổ sung tồn kho trên cơ sở chiến lược về tồn kho.
Các ví dụ trên mô tả nhiều câu chuyện thành công về quản trị chuỗi cung ứng.
Chúng gợi ý rằng trong một số ngành, quản trị chuỗi cung ứng có lẽ là một nhân tố quan
trọng nhất quyết định thành công của doanh nghiệp. Các ví dụ cũng nêu bật một câu hỏi
quan trọng. Nếu các công ty này cải thiện hiệu quả chuỗi cung ứng bằng cách tập trung
vào sự hợp tác chiến lược, sử dụng các kho hàng tập trung hoặc sử dụng chiến lược dịch
chuyển chéo, điều gì ngăn cản công ty khác trong việc áp dụng các kỹ thuật giống nhau
để thiện hiệu quả chuỗi cung ứng của họ?
2.1.2 Quan điểm chung về quản trị chuỗi cung ứng.
Thuật ngữ quản trị chuỗi cung ứng - SCM ra đời sau quản trị logistics và đang trở
thành “mốt thời thượng” trong các hoạt động kinh doanh hiện đại. Người ta bàn về việc
thiết lập các giải pháp SCM, mạng lưới SCM, các bộ phần mềm SCM, nhưng vẫn băn
khoăn tự hỏi: Thực chất SCM là gì ? Ứng dụng SCM ra sao?
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về quản trị logitics và chuỗi cung ứng.
Theo định nghĩa của Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng
(Council of Supply Chain Management Professionals - CSCMP): “Quản trị logistics là
một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát
việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những thông tin liên quan
từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Hoạt động của quản
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
15
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương

trị logistics cơ bản bao gồm quản trị vận tải hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho
bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế mạng lưới logistics, quản trị tồn kho,
hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba.”
“Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên
quan đến tìm nguồn cung, mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị logistics. Ở
mức độ quan trọng, quản trị chuỗi cung ứng bao gồm sự phối hợp và cộng tác của các đối
tác trên cùng một kênh như nhà cung cấp, bên trung gian, các nhà cung cấp dịch vụ,
khách hàng. Về cơ bản, quản trị chuỗi cung ứng sẽ tích hợp vấn đề quản trị cung cầu bên
trong và giữa các công ty với nhau. Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những hoạt
động quản trị logistics đã nêu cũng như những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối
hợp về qui trình và hoạt động của các bộ phận marketing, kinh doanh, thiết kế sản phẩm,
tài chính, công nghệ thông tin.
Theo hội đồng quản trị hậu cần, một tổ chức phi lợi nhuận thì quản trị chuỗi cung
ứng là “sự phối hợp chiến lược và hệ thống các chức năng kinh doanh truyền thống và
các sách lược xuyên suốt các chức năng này trong một công ty cụ thể và giữa các doanh
nghiệp trong chuỗi cung ứng với mục đích cải thiện thành tích dài hạn của các công ty
đơn lẻ và của cả chuỗi cung ứng”.
Tính nhất quán thể hiện trong các định nghĩa này đó chính là ý tưởng của sự phối
hợp và hợp nhất số lượng lớn các hoạt động liên quan đến sản phẩm trong số các thành
viên của chuỗi cung cấp nhằm cải thiện năng suất hoạt động, chất lượng, và dịch vụ
khách hàng nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững cho tất cả các tổ chức liên quan
đến việc cộng tác này.
Thực tế trên thế giới cho thấy rằng, một số nhà nghiên cứu thường đồng nhất hoạt
động quản trị logistics và chuỗi cung ứng thành một hoạt động quản trị. Bởi vì việc phân
biết hai hoạt động này lệ thuộc vào ai đang đánh giá vấn đề này, nên từ phần này sẽ
không phân biệt giữa quản trị logistics và quản trị chuỗi cung ứng và coi quản trị logistics
là một bộ phần cấu thành của quản trị chuỗi cung ứng.
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
16
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại

thương
2.1.3 Vai trò của SCM đối với hoạt động kinh doanh
Đối với các công ty, SCM có vai trò rất to lớn, bởi có không ít công ty đã gặt hái
thành công lớn nhờ biết soạn thảo chiến lược và giải pháp SCM thích hợp, ngược lại, có
nhiều công ty gặp khó khăn, thất bại do đưa ra các quyết định sai lầm như chọn sai nguồn
cung cấp nguyên vật liệu, chọn sai vị trí kho bãi, tính toán lượng dự trữ không phù hợp,
tổ chức vận chuyển rắc rối, chồng chéo
Ngoài ra, SCM còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, đặc biệt là marketing
mix (4P: Product, Price, Promotion, Place). Chính SCM đóng vai trò then chốt trong việc
đưa sản phẩm đến đúng nơi cần đến và vào đúng thời điểm thích hợp. Mục tiêu lớn nhất
của SCM là cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất.
Điểm đáng lưu ý là các chuyên gia kinh tế đã nhìn nhận rằng hệ thống SCM hứa
hẹn từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất của công ty và tạo điều kiện cho
chiến lược thương mại điện tử phát triển. Đây chính là chìa khoá thành công cho B2B.
Tuy nhiên, như không ít các nhà phân tích kinh doanh đã cảnh báo, chiếc chìa khoá này
chỉ thực sự phục vụ cho việc nhận biết các chiến lược dựa trên hệ thống sản xuất, khi
chúng tạo ra một trong những mối liên kết trọng yếu nhất trong dây chuyền cung ứng.
Trong một công ty sản xuất luôn tồn tại ba yếu tố chính của dây chuyền cung ứng:
thứ nhất là các bước khởi đầu và chuẩn bị cho quá trình sản xuất, hướng tới những thông
tin tập trung vào khách hàng và yêu cầu của họ; thứ hai là bản thân chức năng sản xuất,
tập trung vào những phương tiện, thiết bị, nhân lực, nguyên vật liệu và chính quá trình
sản xuất; thứ ba là tập trung vào sản phẩm cuối cùng, phân phối và một lần nữa hướng tới
những thông tin tập trung vào khách hàng và yêu cầu của họ.
Trong dây chuyên cung ứng ba nhân tố này, SCM sẽ điều phối khả năng sản xuất
có giới hạn và thực hiện việc lên kế hoạch sản xuất - những công việc đòi hỏi tính dữ liệu
chính xác về hoạt động tại các nhà máy, nhằm làm cho kế hoạch sản xuất đạt hiệu quả
cao nhất. Khu vực nhà máy sản xuất trong công ty của bạn phải là một môi trường năng
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
17
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại

thương
động, trong đó sự vật được chuyển hoá liên tục, đồng thời thông tin cần được cập nhật và
phổ biến tới tất cả các cấp quản lý công ty để cùng đưa ra quyết định nhanh chóng và
chính xác. SCM cung cấp khả năng trực quan hoá đối với các dữ liệu liên quan đến sản
xuất và khép kín dây chuyền cung cấp, tạo điều kiện cho việc tối ưu hoá sản xuất đúng
lúc bằng các hệ thống sắp xếp và lên kế hoạch. Nó cũng mang lại hiệu quả tối đa cho việc
dự trù số lượng nguyên vật liệu, quản lý nguồn tài nguyên, lập kế hoạch đầu tư và sắp
xếp hoạt động sản xuất của công ty.
Một tác dụng khác của việc ứng dụng giải pháp SCM là phân tích dữ liệu thu thập
được và lưu trữ hồ sơ với chi phí thấp. Hoạt động này nhằm phục vụ cho những mục đích
liên quan đến hoạt động sản xuất (như dữ liệu về thông tin sản phẩm, dữ liệu về nhu cầu
thị trường…) để đáp ứng đòi hỏi của khách hàng. Có thể nói, SCM là nền tảng của một
chương trình cải tiến và quản lý chất lượng - Bạn không thể cải tiến được những gì bạn
không thể nhìn thấy.
2.2 Các vấn đề chính trong quản trị logistics và chuỗi cung ứng.
Hình 1.5: Sơ đồ khái quát về quản trị logistics/chuỗi cung ứng
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
18
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Theo đó, các vấn đề trong quản trị logitics/chuỗi cung ứng thường được đề cập
đến, bao gồm:
2.2.1. Cấu hình mạng lưới phân phối.
Nhà quản trị nên lựa chọn vị trí và công suất của nhà kho như thế nào, quyết định
về sản lượng sản xuất cho mối sản phẩm tại mỗi nhà máy như thế nào, và thiết đặt dòng
dịch chuyển giữa các đơn vị, hoặc từ nhà máy đến kho hàng hoặc từ kho hàng đến người
bán lẻ, theo cách thức tối thiểu hóa tổg chi phí sản xuất, tồn kho và vận chuyển và thỏa
mãn mức độ dịch vụ yêu cầu? Đây là một bài toán tối ưu phức tạp và đòi hỏi công nghệ
tân tiến và cách tiếp cận đổi mới để giải quyết.
2.2.2. Kiểm soát tồn kho

Hãy xem xét trường hợp một người bán lẻ duy trì tồn kho một sản phẩm cụ thể. Vì
nhu cầu khách hàng thay đổi theo thời gian, nhà bán lẻ có thể sử dụng những dữ liệu quá
khứ để dự báo nhu cầu. Mục tiêu của nhà bán lẻ là phải quyết định điểm đặt hàng lại và
mức đặt hàng để tối thiểu chi phí đặt hàng và chi phí tồn kho sản phẩm. Về cơ bản, tại
sao người bán lẻ nên giữ tồn kho ở vị trí đầu tiên? Điều này có phải do sự không chắc
chắn về nhu cầu khách hàng, hay quy trình cung ứng, hoặc do lý do nào khác? Nếu do sự
không chắc chắn về nhu cầu khách hàng, thế có điều gì để giảm thiểu việc này không?
Tác động của các công cụ dự báo được sử dụng trong việc dự báo nhu cầu khách hàng là
gì? Nhà bán lẻ có nên đặt hàng nhiều hơn, ít hơn hay chính xác nhu cầu dự báo? Và cuối
cùng, vòng quay tồn kho nào nên được sử dụng? Điều này có thay đổi giữa các ngành
khác nhau không?
2.2.3. Các hợp đồng cung ứng
Trong các chiến lược chuỗi cung ứng truyền thống, mỗi bên trong chuỗi tập trung
vào lợi nhuận riêng và vì thế ra các quyết định ít quan tâm đến tác động của chúng đến
các đối tác khác trong chuỗi cung ứng. Mối quan hệ giữa nhà cung cấp và người mua
được thiết lập thông qua phương tiện là các hợp đồng cung cấp cụ thể hóa về giá cả và
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
19
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
chiết khấu số lượng, thời hạn giao hàng, chất lượng, hàng hóa gởi trả lại và Dĩ nhiên
câu hỏi là liệu có hợp đồng cung ứng nào có thể được sử dụng để thay thế chiến luợc
chuỗi cung ứng truyền thống với một chiến lược khác nhằm tối ưu hóa hiệu quả chuỗi
cung ứng của toàn hệ thống? Cụ thể, tác động của chiết khấu số lượng và các hợp đồng
chia sẻ doanh số đến thành tích của chuỗi cung ứng là gì? Có chiến lược định giá nào mà
nhà cung ứng có thể sử dụng để khuyến khích khách hàng mua nhiều sản phẩm hơn trong
khi vẫn gia tăng lợi nhuận của nhà cung cấp?
2.2.4. Các chiến lược phân phối
Như đã đề cập ở phần trước, đây là chiến lược phân phối mà qua đó các cửa hàng
được cung cấp bởi các nhà kho trung tâm hoạt động như nhà điều phối quy trình cung

ứng và như điểm trung chuyển cho các đơn hàng đến từ các nhà buôn bán bên ngoài,
nhưng bản thân nó không giữ tồn kho. Chúng ta xem những nhà kho như vậy như là điểm
dịch chuyển. Xem xét các câu hỏi sau: Chiến lược nào một công ty cụ thể nên sử dụng:
chiến lược dịch chuyển chéo, chiến lược phân phối cổ điển ở đó tồn kho được giữ ở các
nhà kho, hoặc vận chuyển trực tiếp, chiến lược mà qua đó hàng hóa được vận chuyển trực
tiếp từ nhà cung ứng đến các cửa hàng?
Trong chiến lược phân phối, quản trị vận tải đóng vai trò quan trọng. Nếu sản
phẩm được đưa đến đúng vị trí mà khách hàng yêu cầu tức là giá trị của nó đã được tăng
thêm. Mặt khác việc sử dụng phương thức và cách thức tổ chức vận chuyển còn giúp cho
sản phẩm có đến đúng vào thời điểm khách hàng cần hay không? Điều này cũng tạo thêm
giá trị gia tăng cho sản phẩm. Như vậy bằng cách quản trị vận chuyển tốt sẽ góp phần
đưa sản phẩm đến đúng nơi và đúng lúc phù hợp với nhu cầu của khách hàng
2.2.5. Tích hợp chuỗi cung ứng và cộng tác chiến lược
Các câu chuyện kinh doanh thành công của National Semiconductor, Wal-Mart và
Quản trị chuỗi cung ứng P&G minh họa rằng chuỗi cung ứng tối ưu toàn bộ và tích hợp
không những có thể thực hiện được mà nó còn có tác động rất lớn đến thành tích và thị
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
20
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
phần của doanh nghiệp. Trong thị trường cạnh tranh ngày nay, hầu hết các công ty không
có sự lựa chọn; họ bị thúc ép phải tích hợp chuỗi cung ứng của họ và tham gia vào cộng
tác chiến lược. Áp lực này xuất phát từ cả khách hàng và đối tác trong chuỗi cung ứng
của họ. Sự tích hợp này có thể đạt được thành công như thế nào? Rõ ràng việc chia sẻ
thông tin và hoạch định tác nghiệp là chìa khóa cho chuỗi cung ứng tích hợp thành công.
Nhưng thông tin nào nên được chia sẻ? Nó được sử dụng như thế nào? Thông tin tác
động đến việc thiết kế và vận hành chuỗi cung ứng như thế nào? Mức độ tích hợp nào là
cần thiết trong nội bộ tổ chức và với các đối tác bên ngoài? Cuối cùng, loại cộng tác nào
có thể được sử dụng và loại nào nên được vận dụng cho một tình huống cụ thể?
2.2.6. Chiến lược sử dụng ngoại lực và thu mua

Suy nghĩ đến chiến lược chuỗi cung ứng của bạn không chỉ liên quan đến việc
phối hợp các hoạt động khác nhau trong chuỗi, mà còn quyết định điều gì được thực hiện
trong nội bộ và điều gì nên thuê ngoài. Làm thế nào công ty có thể xác định các hoạt
động sản xuất nào thuộc các năng lực cốt lõi và vì vậy nên được hoàn tất ở nội bộ, và
những sản phẩm hoặc bộ phận nào nên được mua từ nguồn cung cấp bên ngoài, bởi vì
các hoạt động sản xuất này không phải là năng lực cốt lõi? Công ty nên sử dụng việc trao
đổi riêng hoặc cộng đồng khi xử lý với các đối tác thương mại?
2.2.7. Thiết kế sản phẩm
Thiết kế hữu hiệu đóng vai trò then chốt trong chuỗi cung ứng. Hiển nhiên là việc
thiết kế sản phẩm có thể gia tăng chi phí tồn kho hoặc chi phí vận tải liên quan đến các
thiết kế khác, trong khi các phác thảo khác có thể tạo điều kiện thuận lợi nhằm làm giảm
chu kỳ sản xuất.
Việc thiết kế sản phẩm thường rất tốn kém. Khi nào thì nên thực hiện việc tái thiết
kế sản phẩm để giảm chi phí hậu cần hoặc giảm thời gian giao hàng trong chuỗi cung
ứng? Những thay đổi nào nên được thực hiện trong chuỗi cung ứng nhằm tận dụng ưu thế
của việc thiết kế sản phẩm mới?
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
21
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
2.2.8. Công nghệ thông tin và hệ thống hỗ trợ ra quyết định
Công nghệ thông tin là một công cụ then chốt trong việc quản trị chuỗi cung ứng
hiệu quả. Thực ra, rất nhiều quan tâm hiện tại về quản trị chuỗi cung ứng được cỗ vũ nhờ
những cơ hội có đuợc từ sự xuất hiện khối lượng lớn những dữ liệu và các khoản tiết
kiệm có được từ việc phân tích những dữ liệu này. Vấn đề then chốt trong quản trị chuỗi
cung ứng là dữ liệu nào là quan trọng đối với quản trị chuỗi cung ứng và dữ liệu nào có
thể được bỏ qua? Dữ liệu nên được phân tích và sử dụng như thế nào? Vai trò của thương
mại điện tử là gì? Cơ sở hạ tầng nào cần thiết đối với các đối tác bên trong chuỗi cung
ứng? Cuối cùng, vì cả công nghệ thông tin và hệ thống hỗ trợ ra quyết định là có thể mua
được, thế những công nghệ này có thể được nhìn nhận như là các công cụ chính được sử

dụng để đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị trường hay không?
2.2.9. Giá trị khách hàng
Giá trị khách hàng là phương thức để đánh giá những đóng góp của công ty cho
khách hàng, dựa trên những sản phẩm, dịch vụ và những sản phẩm vô hình cống hiến. Là
thước đo chất lượng toàn bộ hệ thống logistics của doanh nghiệp, đánh giá đúng giá trị
khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến thị phần, đến tổng chi phí bỏ ra và cuối cùng đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Trong vài năm gần đây, tiêu thức này thay thế cho các tiêu thức
đánh giá khác chẳng hạn như chất lượng và sự thỏa mãn của khách hàng. Hiển nhiên
quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả là then chốt nếu công ty muốn đáp ứng nhu cầu khách
hàng và cung cấp giá trị. Giá trị khách hàng được đo lường như thế nào? Công nghệ
thông tin được sử dụng để gia tăng giá trị khách hàng trong chuỗi cung ứng như thế nào?
Quản trị chuỗi cung ứng đóng góp vào giá trị khách hàng như thế nào? Mối quan hệ giữa
giá của sản phẩm với nhãn hiệu sản phẩm trong thế giới truyền thống và thế giới trực
tuyến là gì?
II. Quản trị rủi ro trong logistics và chuỗi cung ứng.
1. Khái niệm rủi ro trong logistics và chuỗi cung ứng.
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
22
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Rủi ro là không thể tránh khỏi trong việc ra quyết định. Rủi ro tiềm ẩn trong mọi
lĩnh vực kinh tế, hoạt động logistics và chuỗi cung ứng càng không phải là một ngoại lệ.
Rủi ro trong logistics và chuỗi cung ứng hiện tại đang là một vấn đề quan trọng
trong quản trị logistics và chuỗi cung ứng. Rủi ro là do các sự kiện không chắc chắn xảy
ra trong tương lai. Các sự kiện này không dự đoán trước được, tiềm ẩn trong mỗi chuỗi
cung ứng; sự không ổn định; sự kiện bất thường hoặc ngoài tầm kiểm soát của doanh
nghiệp gây ra đứt quãng và gián đoạn trong chuỗi cung ứng dẫn đến tổn thất cho doanh
nghiệp. Rủi ro trong chuỗi cung ứng có thể phát sinh từ mọi sự kiện bất kể bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi nhà cung cấp giao nguyên vật liệu tới khách
hàng của họ, sẽ luôn có rủi ro rằng nguyên vật liệu có thể bị giao chậm hơn dự tính, hàng

hóa bị hư hỏng hoặc tổn thất, giao sai số lượng hoặc chủng loại, hoạc giao hàng sai địa
điểm, hóa đơn có sai sót, khách hàng vì thế sẽ không thanh toán tiền hàng và nhiều vấn
đề khác phát sinh. Các sự kiện không dự đoán này có thể gây ảnh hưởng lớn tới toàn
chuỗi logistics và cung ứng.
Rủi ro rất dễ dàng tác động tới chuỗi cung ứng do ranh giới giữa các mắt xích
trong logistics và các chuỗi cung ứng tích hợp rất linh động. Chỉ một tác động nhỏ cũng
có thể gây ra gián đoạn một khâu của chuỗi cung ứng hay toàn bộ chuỗi cung ứng hay
làm phá vỡ dòng vận chuyển vật chất, thông tin… như đã được thiết lập.
2. Phân loại rủi ro trong Logistics và chuỗi cung ứng.
Rủi ro trong logistics và chuỗi cung ứng có thể phát sinh từ nhiều sự kiện khác
nhau. Có rủi ro chỉ gây tác động nhỏ, cũng có những rủi ro gây tác động lớn tới chuỗi
cung ứng, thậm chí phá hủy toàn bộ chu trình của chuỗi. Và cũng có những rủi ro xuất
hiện thường xuyên trong quá trình vận hành thông thường và có những rủi ro chỉ xảy ra
với tần xuất rất nhỏ như thảm họa thiên nhiên. Song tóm lại có thể phân loại rủi ro trong
logistics và chuỗi cung ứng thành 2 loại sau:
2.1. Rủi ro bên trong.
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
23
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
Là những rủi ro nằm trong sự kiểm soát của doanh nghiệp như rủi ro tài chính,
lượng tồn kho quá lớn, lỗi và sai sót từ hệ thống công nghệ thông tin, thiết bị, máy móc,
phương tiện kho bãi,.v v, Rủi ro bên trong là loại rủi ro doanh nghiệp kiểm soát dễ dàng
hơn so với rủi ro bên ngoài. Bởi vì chúng xuất phát trong quá trình vận hành và hoạt động
của một doanh nghiệp. Các loại rủi ro thuộc bên trong doanh nghiệp thường bao gồm:
• Rủi ro sản xuất: Rủi ro phát sinh trong quá trình vận hành sản xuất hay gián
đoạn trong một hay nhiều khâu sản xuất của doanh nghiệp, rủi ro do lượng hàng tồn kho
quá mức, thiếu hụt nguyên vật liệu…
• Rủi ro kinh doanh: Gây ra do sự thay đổi trong cơ cấu nhân sự, cơ cấu quản
lý trong quá trình kinh doanh, ví dụ như sự thiếu hụt nguồn nhân lực có kĩ năng, rủi ro tài

chính.Những yếu tố này có thể gây ra rủi ro và hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp
cung ứng nhưng nhiều khi không được đánh giá một cách đầy đủ.
• Rủi ro hoạch định và kiểm soát: Phát sinh do việc đánh giá không đầy đủ và
hoạch định kế hoạch không hợp lý, những vấn đề dẫn tới việc quản lý không hiệu quả
trong doanh nghiệp, rủi ro do xác định sai cầu sản phẩm và nguồn cung nguyên vật liệu,
do các chính sách đều chỉnh không đúng chỗ, đúng thời điểm và sai lầm trong việc ra
quyết định.
• Rủi ro liên quan đến cơ sở hạ tầng: Chẳng hạn như hệ thống nhà kho, kho
bãi, phương tiện vận tải, hệ thống bảo quản hàng tồn kho, các yếu tố này trực tiếp tác
động tới chuỗi logistics và cung ứng.
2.2. Rủi ro bên ngoài.
Là loại rủi ro nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp như rủi ro do sự lên xuống
của tỉ giá hối đoái, biến động chính trị, khan hiếm nguyên vật liệu và các nguồn đầu vào
khác, biến động của khí hậu, môi trường…
Các loại rủi ro bên ngoài có thể gây ảnh hưởng cùng chiều hoặc ngược chiều đến
chuỗi cung ứng. Rủi ro bên ngoài bao gồm 5 loại chính:
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
24
Khóa luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại
thương
• Rủi ro do cầu: Loại rủi ro này có thể do sự biến động của nhu cầu của
khách hàng và thị trường về hàng hóa, rủi ro do xuất hiện nhiều loại hàng thay thế,
• Rủi ro do cung: gây ra do sự không liên tục dòng sản phẩm trong chuỗi
cung ứng hay sự gián đoạn trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào cho quy trình sản
xuất, chi phí nguyên vật liệu biến động,…
• Rủi ro môi trường: Xuất phát từ những biến động và đột biến xảy ra bên
ngoài chuỗi cung ứng. Điển hình là các thay đổi liên quan đến kinh tế, xã hội, chính trị và
khí hậu. Rủi ro này bao gồm hính sách thuế, tỉ giá hối đoái, và cả các sự kiện bạo động,
dân biến, khủng bố, động đất và lũ lụt,v v
• Rủi ro kinh doanh: Cá nhân tố gây rủi ro xuất phát từ sự không ổn định

trong vấn đề tài chính và quản lý của nhà cung cấp, hoạt động sát nhập, chia tách và
chuyển đổi doanh nghiệp cung cấp đều có thể gây ra rủi ro trong chuỗi cung ứng. Ngoài
ra còn do nhà cung cấp không có chương trình đối phó với các mối đe dọa trong quá trình
kinh doanh.
• Rủi ro liên quan đến cơ sở hạ tầng: xuất phát từ yếu tố hạ tầng công nghệ,
hệ thống vật chất, hệ thống giao thong vận tải, hệ thống xử lý chất thải công nghiệp của
nhà cung cấp. Những yếu kém trong cơ sở hạ tầng của nhà cung ứng cũng gây ảnh hưởng
đến logistics và chuỗi cung ứng giống như ảnh hưởng của chính hệ thống vật chất của
doanh nghiệp. Khác biệt là doanh nghiệp không kiểm soát được hệ thống này của nhà
cung ứng.
3. Vị trí của quản trị rủi ro logistics và chuỗi cung ứng trong hệ thống quản trị.
Quản trị rủi ro là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình quản trị chuỗi cung
ứng và hoạt động logitics của doanh nghiệp. Quản lý rủi ro là một phần trong việc lập kế
hoạch dự án nhằm xác định những nguy cơ chủ yếu, từ đó xây dựng các kế hoạch phòng
chống hay giảm thiểu những tác động bất lợi. Như đã biết, chuỗi logistics và cung ứng là
một dây chuyền các yếu tố, liên kết với nhau một cách chặt chẽ để thực hiện chức năng
Hồ Thị Huyền Trang Kinh tế đối ngoại K45A
25

×