Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Cac nen van minh dong nam a

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.21 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

DẪN LUẬN...........................................................................2
I.ĐỊA LÍ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á.........................................3
II. NHỮNG TRANH LUẬN VÀ KHẢO CỨU VỀ NỀN VĂN
MINH ĐNA...............................................................................4
1.VĂN HÓA HÒA BÌNH..................................................5
2.NHỮNG BẰNG CHỨNG KHẢO CỔ HỌC.....................9
KẾT LUẬN..........................................................................22

DẪN LUẬN

1


Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông
Nam Á là một vùng nước đọng của lịch sử nhân loại, nơi mà
các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay
thậm chí Đông Âu, đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một
quan điểm gần như “chính thống” của đại đa số giới học giả
Tây phương là văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn
văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á
chẳng có phát kiến gì đáng kể
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy người Đông Nam Á
có lẽ là một tộc người cổ nhất thế giới, và là tổ tiên của
người miền Nam Trung Quốc ngày nay. Qua những dữ kiện dồi
dào được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên
cứu khác nhau được trình bày trong sách, bạn đọc sẽ nhận thức
rằng Đông Nam Á là nơi phát triển nền nông nghiệp sớm
nhất, và có thể là quê hương của kỹ nghệ kim loại đầu tiên
trên thế giới. Những kỹ thuật này đã được truyền đi khắp


thế giới qua làn sóng di cư vó đại xuất phát từ Đông Nam Á.
Những khám phá mà nói theo nhà khảo cổ học danh tiếng
người Mỹ, Wilhelm G. Solheim II, làm cho người ta phải suy nghó lại
vai trò và vị trí của người phương Tây trong quá trình tiến hóa
của văn hóa thế giới, bởi vì có nhiều bằng chứng cho thấy
một cách hùng hồn rằng Đông Nam Á (chứ không phải Trung
Quốc hay Ấn Độ) có thể là nơi đã đặt một số nền tảng đầu
tiên cho văn minh của nhân loại.

2


I.ĐỊA LÍ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á:
Trước đây, Đông Nam Á là một lục địa nhỏ chạy dài từ
miền Nam Trung Quốc và một phần đất của Ấn Độ ngày nay
đến gần châu Úc. Vào thời đó, biển Đông, vịnh Thái Lan và
biển Java là một vùng đất khô nối liền các khu vực của lục
địa. Nói cách khác, phần đất phía Nam sông Dương Tử thuộc
Trung Quốc ngày nay cũng được xem là một phần đất của
Đông Nam Á cổ. Sau khi kỷ Băng hà chấm dứt khoảng 10.000
năm về trước, Đông Nam Á bị ngập bởi nước biển. Những
vùng đất thấp của lục địa trở thành đáy biển Đông ngày nay,
và những vùng cao phía Nam lục địa nay là các quần đảo
thuộc Indonesia. Những vùng đất liền hiện nay thuộc Việt Nam,
Campuchia, Lào, Myanmar , Thái Lan và Malaysia. Do đó, Địa đàng
ở phương Đông bắt đầu bằng một giả thuyết rằng nền văn
minh Đông Nam Á cổ hiện nay đang nằm dưới lòng biển.
Người Tây phương, dẫn đầu là người Bồ Đào Nha, bắt đầu
biết đến Đông Nam Á từ thế kỷ 16, khi họ đến đây và thành
lập những trạm tìm kiếm hương liệu hiếm để buôn bán. Người

Bồ Đào Nha trở thành độc quyền trong việc mua bán hương
liệu (như hạt nhục đậu khấu, cây đinh hương, cây chùy... ) cả
trăm năm liền. Đến đầu thế kỷ 17, Anh và Hà Lan dùng lực
lượng hải quân của họ đẩy lui người Bồ Đào Nha, và lập các
trang trại để bành trướng khai thác hương liệu sang khai thác cao
su, trà và thiếc. Các đế quốc lần lượt xâm chiếm Đông Nam
Á: Anh chiếm Ấn Độ và Miến Điện, Hà Lan chiếm đóng Java
và Sumatra ở Indonesia, Pháp thì chiếm đóng Việt Nam,
Campuchia và Lào, một vùng đất mà họ đặt tên là
“Indochina”. (Qua cách đặt tên của thực dân Pháp, chúng ta
cũng có thể thấy định kiến của người Pháp lúc đó xem ba
nước Việt, Miên, Lào chỉ là phần phụ của văn minh Ấn Độ

3


và Trung Hoa) Chỉ có một phần đất duy nhất không bị thuộc
địa hóa là Siam hay Thái Lan ngày nay.

II. NHỮNG TRANH LUẬN VÀ KHẢO CỨU VỀ NỀN VĂN
MINH ĐÔNG NAM Á:
Năm 1858, trong khi người Pháp đã thiết lập ảnh hưởng
của họ tại Đông Nam Á, một học giả tên là Henri Moubot tiến
hành một cuộc thám hiểm khoa học vào các vùng đất liền
Đông Nam Á. Những ghi chép trong cuộc hành trình này được
ông sắp xếp cho xuất bản vào năm 1864 (sau khi ông qua đời)
làm cho thế giới bắt đầu chú ý đến những di tích lịch sử quan
trọng như đền Angkor phía Bắc Biển Hồ (Tonle Sap), lúc đó đang
bị bỏ hoang và bị cây rừng bao phủ, nhưng qua kiến trúc
hoành tráng và nghệ thuật điêu khắc độc đáo nó nói lên sự

thịnh vượng của một nền văn minh tiên tiến. Song, Moubot chỉ
ghi lại chi tiết và đề nghị nghiên cứu thêm, chứ không diễn
dịch, những gì ông thấy.
Bốn thập niên sau chuyến thám hiểm của Moubot, năm
1898, Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp cho thành lập trường
Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Franỗaise dExtreõme Orient, hay EFEO)
vaứ nhieu cuoọc nghieõn cửựu về văn minh và văn hóa Đông
Nam Á được tiến hành. Qua nhiều nghiên cứu khảo cổ, các
học giả thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ mới phát hiện ra
một số thành phố Khmer bị chôn vùi trong rừng, và Angkor
từng là thủ đô của đế quốc hùng mạnh Khmer vào đầu thiên
niên kỷ (khoảng 2000 năm về trước). Họ còn phát hiện thêm
rằng một nền văn minh rực rỡ khác, Văn minh Chăm, cũng
hiện hữu cùng thời với nền Văn minh Khmer.
4


Một trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges
Coedès, giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên
1920 đến 1950, bỏ ra nhiều năm để phiên dịch những văn bia
tiếng Phạn mà ông tìm thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam.
Coedès và nhiều đồng nghiệp của ông thời đó tin rằng văn
minh nhân loại khởi nguồn từ vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia)
đến Ai Cập, rồi lan sang Hy Lạp và La Mã. Niên đại của các
tượng đài tại Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy đây là hai nền
văn minh phát triển sau nền văn minh Lưỡng Hà. Coedès từ
đó suy luận rằng Đông Nam Á chỉ là hậu thân của hai nền
văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc mà thôi. Năm 1966,
Coedès còn viết: người Đông Nam Á “có vẻ thiếu thiên tư
sáng tạo và năng khiếu tiến bộ”.

Mãi đến năm 1971, nhà sử học người Anh Grahame Clark
vẫn đánh giá thấp văn minh Đông Nam Á. Ông cho rằng
người tiền sử Đông Nam Á chưa bao giờ thoát khỏi Thời đại
Đồ đá (Stone Age) để tiến lên Thời đại Đồ đồng như các nền
văn minh khác. Clark viết rằng không như văn minh Lưỡng Hà
hay Trung Hoa, “người Đông Nam Á vẫn tiếp tục sử dụng công
cụ bằng đá cho đến thời đại Kitô giáo”. Từ năm 1879, trước
một số di vật được sản xuất bằng đồng và một số đồ gốm
thuộc thời tiền sử được tìm thấy ở Đông Nam Á, Clark vẫn
bác bỏ sự hiện hữu của một nền văn minh Đông Nam Á:
ông cho rằng đó chỉ là những phát hiện “khác thường” và tin
rằng đó là những công cụ do các nền văn minh khác đem lại
cho Việt Nam mà thôi.
1.VĂN HÓA HÒA BÌNH:
Vào thập niên 1920, Nhà khảo cổ học người Pháp
Madeleine Colani bắt đầu khảo cứu các vùng duyên hải Việt
Nam và qua các di vật thu thập được, bà chứng minh rằng tại
đây đã có cư dân sống qua từ Thời đại Đồ đá. Tiếp theo phát
hiện đó, bà Colani tiến hành khai quật quanh vùng Hòa Bình và

5


phát hiện một nền văn hóa săn bắt cá biệt mà bà gọi là
“Văn hóa Hòa Bình”.
Về giả thuyết người Hòa Bình tràn lan về phía Nam
(Indonesia), lên hướng Bắc (Trung Hoa) và sang hướng Tây (Thái
Lan), tác giả Nguyễn Quang Trọng, tuy không bác hẳn, nhưng tỏ
vẻ không đồng ý với quan điểm này vì có hàm ý văn hóa
Hòa Bình còn trẻ hơn các văn hóa kể trên.

Dụng cụ đá ở Hòa Bình có niên đại trẻ hơn dụng cụ đá ở
Úc, và "Người Hòa Bình ? dùng cho các di tích ở nơi khác
không có nghóa là người Hòa Bình vào thời điểm đó (7.000
đến 12.000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như
Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa". Thực ra, niên đại văn hóa
Hòa Bình là một vấn đề đương đại, vì cho đến nay các nhà
nghiên cứu vẫn chưa nhất trí. Cụm từ"Văn hóa Hòa Bình" được
giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30-01-1932, do
đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà
Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi thủy, cụm
từ này được dùng để nóiđến nền văn hóa cuội được ghè
đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ
thời đá cũ đến thời đá mới (Choppers, hay chopping tools). Qua
thời gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những
tên khác nhau và có những ý nghóa cũng khác nhau. Lúc
đầu, nó chỉ nói về nền văn hóa có khoảng không gian là
Bắc phần Việt Nam, vàkhoảng thời gian không quá 5.000 năm
trước đây. Nhưng khoảng không gian lẫn thời gian trên được nới
rộng dần. T. M. Matthews có lẽ là người đầu tiên đã đem Văn
hóa Hòa Bình vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam đến các vùng
Đông Nam Á, và rồi người ta nói đến Văn hóa Hòa Bình ở
Miến Điện, Campuchia, Lào, Mã Lai Á, Sumatra, Thái Lan, Ấn Độ,
Tứ Xuyên ... Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của
Văn hóa Hòa Bình bằng Gs. W. G. Solheim II. Về không gian, ông
đã đưa Văn hóa Hòa Bình, phía Đông Bắc đến Philippin, Nhật
Bản, phía Tây đến Thái Lan, phía Nam đến tận Úc và phía Bắc
6


bao trùm cả hai nền văn hóa cổ của Trung Hoa là Ngưỡng

Thiều (Yan Shao) và Long Sơn .Về thời gian, ông không định rõ,
nhưng tuyên bố không ngạc nhiên nếu thấy việc thuần hóa
cây lúa nước đã có tại Hòa Bình từ 15.000 năm trước Công
Nguyên, và những dụng cụ đá mài có lưỡi bén tìm thấy ở
Bắc Úc Châu có tuổi khoảng 20.000 năm trước Công Nguyên
đo bằng C14 có nguồn gốc từ nền Văn hóa Hòa Bình. Đấy là
chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa Bình lên đến
50.000 năm trước khi ông viết "Đông Nam Á và tiền sử học
thế giới" đăng trong Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970 .
Riêng trong phạm vi nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình
được khoa học khảo cổ phân chia thành ba thời kỳ:
- Hòa Bình sớm hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di
chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên
(TrCN)), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN). - Hòa
Bình giữa hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm
Trại (18.000 ± 150 BC), Làng Vành (16.470 ± 80 TrCN).
- Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ±
175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).
Tính cách rộng lớn và phức tạp của Văn hóa Hòa Bình
đã đến độ có đề nghị đổi tên Văn hóa Hòa Bình thành Phức
hợp Kỹ thuật Hòa Bình . Chúng tôi đồng ý cụm từ "Văn hóa
Hòa Bình" nay được dùng để chỉ nền văn hóa đá mới có đặc
tính chung rộng khắp tại Đông Nam Á, Bắc lên đến Nhật Bản,
Nam xuống tận Úc , và không nhất thiết nó phải phát xuất
từ Hòa Bình, Việt Nam. Nhưng văn hóa thiên di theo con người,
và gần đây đã có dữ kiện di truyền học cho thấy có lẽ
người Đông Nam Á, gần gốc Phi Châu hơn Đông Bắc Á và
người Việt Nam có lẽ là sắc dân cổ nhất của Đông Nam Á
(chúng tôi sẽ bàn thêm về điểm này trong phần sau). Thứ hai,
có phải kỹ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư

dân Đông Sơn có trình độ cao nhất, nhì thế giới? Tác giả
Nguyễn Quang Trọng cho rằng trình độ đúc đồng của cư daân
7


Đông Sơn (từ 700 năm trước CN về sau) quả rất cao, nhưng
khôngthể nói là cao hơn các nơi khác, nhất là những nơi này
đã có kỹ thuật đúc đồng xưa hơn Đông Sơn rất nhiều. Tác
giả nêu một thí dụ về kỹ thuật đúc đồng ở Sanxingdai (Bắc
Trung Hoa) cổ hơn Đông Sơn mấy ngàn năm, Thái Lan, xưa hơn
Đông Sơn 1.000 năm, và ở các nơi khác như Irak, Ai Cập, vùng
Cận Đông cũng sớm hơn Đông Sơn rất nhiều. Rất tiếc là tác
giả không dẫn chứng được những niên đại chính xác ("mấy
ngàn năm" là mấy ngàn? Sớm hơn là sớm như thế nào?), và
nguồn gốc của những dữ kiện được nêu ra.Nhưng chúng ta cứ
giả thiết kỹ thuật đồng của những nơi này đã có trước mấy
ngàn năm, cái niên đại 700 năm trước CN (mà ông gắn cho là
niên đại của văn minh Đông Sơn) đi nữa, thì cũng không chắc
đã có trước kỹ thuật của văn minh Đông Sơn, bởi một lẽ
giản dị, niên đại 700 trước CN chỉ là niên đại của Đông Sơn
trễ, Đông Sơn trẻ nhất. Như sẽ được dẫn chứng dưới đây, Văn
hóa Đông Sơn kể từ thời Phùng Nguyên cho đến nay, vẫn có
thể coi là nền văn hóa đồng thau có niên đại xưa nhất so với
niên đại văn hóa đồng thau ở các nơi khác trong vùng Đông
Nam Á và Đông Bắc Á. Bốn nhà nghiên cứu có uy tín khác
viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V.
Gouloubew, R.H.Geldern, B. Karlgrenvà O. Jansé, đều lầm khi cho
nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc ngoại lai, từ nơi
khác truyền đến. Người thì cho nó bắt nguồn từ Trung Hoa;
người đi xa hơn, cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Ấu

Châu, truyền qua vùng thảo nguyên Ấu Á, đến Trung Hoa
trước khi truyền vào Đông Sơn .Có người lại dựng lên một
nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycèle Hi Lạp và theo một hành
trình rất nhiêu khê qua trung gian các nền văn minh Trung Ấu,
rồi Trung Á, đến đây mới chia hai ngả, một theo đường Tế
Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, và một theo lưu vực
sông Hà, sinh ra văn hóa đồng thau đời nhà Thương ở Trung
Hoa . Những nhận xét này tuy có tính ngạo mạn, nhưng có thể
8


hiểu được, bởi lúc đó chưa phát hiện được những nền văn
hóa đồng thau nội địa xưa hơn và là tiền thân của văn hóa
đồng thau ở Đông Sơn, kể từ Phùng Nguyên, nên các nhà
nghiên cứu trên cứ nghó, văn hóa đồng thau tìm thấy ở Đông
Sơn, là văn hóa đồng thau duy nhất tại Việt Nam.Thực ra, đồng
thau tìm thấy ở Đông Sơn chỉ là giai đoạn chót của một nền
văn hóa đồ đồng đã có lâu đời ở Việt Nam kể từ Phùng
Nguyên. Hơn nữa, thời đó khoa học chính xác chưa tiến bộ, văn
minh Tây phương đang hồi cực thịnh, văn minh đồng thau Đông
Sơn lại quá rực rỡ, chứng tỏ nó phát xuất từ một nền văn
minh tối cổ cực kỳ cao. Những nhà nghiên cứu gốc Tây phương
này, có thể do niềm tự tôn làm lu mờ sự khách quan của
mình, nên không thể ngờ một nền văn minh lớn, đã để lại
những di vật hoành tráng như vậy lại do tổ tiên những người
mà dưới mắt họ, thấy đang bị ngoại bang đô hộ, sống lam lũ,
nghèo khổ, thiếu văn minh - đã sáng chế ra.
Nhưng sự hiểu lầm đó đến nay đã thuộc về qúa khứ, ít
nhất là sau Hội nghị Quốc tế họp ở Berkeley bàn về Nguồn
gốc văn minh Trung Hoa năm 1978, mà các bản tham luận, sau

khi các dữ kiện được kiểm nghiệm, so sánh với ý kiến của
các học giả khác, đã được xuất bản năm 1980 .Cho đến lúc
này (tức 1980), người ta thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại
xưa nhất (đồ đồng tìm thấy được ở Tràng Kênh thuộc Văn
hóa Phùng Nguyên có niên đại C14 = 1425 ± 100BC [BLn -891] so
với đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa ở Anyang có niên ñaïi C14
= 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi),đồ đồng Đông Sơn
cũng có kỹ thuật cao nhất vì đã biết pha với chì khiến hợp kim
có độ dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều nơi
khác có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông
Sơn nhưng không có chì) Tuy đồ đồng tìm thấy ở đây đầu tiên,
nhưng tuổi của nó không phải sớm nhất mà trẻ nhất trong
nền văn hóa mang tên Đông Sơn. Người ta đã chứng minh được
nó là hậu duệ của những sản phẩm đồng từ Phùng Nguyên,
9


Đồng Đậu, Gò Mun trước khi đến vùng Đông Sơn, Thanh Hóa.
Bốn nền văn hóa này, mỗi nền văn hóa có những nét độc
đáo riêng, nhưng cùng thuộc một chủng tộc làm chủ. Chúng
kế thừa nhau một cách chặt chẽ, liên hệ với nhau một cách
khắng khít. Bởi vậy khoa học ngày nay gọi chúng một tên chung
là Văn hóa Đông Sơn. Như trên đã nói, Đông Sơn là nơi tìm ra
đồ đồng ở Việt Nam đầu tiên nhưng lại là giai đoạn sau cùng
của văn minh đồng thau này, kéo dài hơn 2.000 năm, khởi đầu
từ Phùng Nguyên khoảng 4.000 năm cách ngày nay (C14 Gò
Bông =1850 60 BC [BLn - 3001]).
Thoạt đầu, những phát hiện của Colani có vẻ xác định
những giả thuyết của Grahame Clark và Georges Coedès rằng
văn minh Đông Nam Á lạc hậu so với hai nền văn minh lớn Ấn

Độ và Trung Hoa, nhưng mặt khác Colani còn phát hiện đồ
gốm từ Văn hóa Hòa Bình có niên đại 8000 năm về trước tức còn cổ hơn thời kỳ mà các nhà khảo cổ tin rằng cư dân
Đông Nam Á vẫn còn học cách làm đồ gốm. Thế rồi, đến khi
những trống đồng lớn có hoa văn tinh vi được phát hiện tại
Đông Sơn cho thấy một công nghệ luyện kim khá hoàn chỉnh
từ thời tiền sử đã được hình thành.
Phải diễn dịch sao cho hợp lý trước những phát hiện này?
Năm 1932, Nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern
đề ra một giả thuyết để giải thích những sự thật trên như sau:
Đông Nam Á là vùng đã kinh qua nhiều “làn sóng văn hóa”,
và một làn sóng di cư liên tục đem đến cho Đông Nam Á
những kỹ thuật hiện đại. Ông tin rằng những cái rìu mang hình
lưỡi vòm hay những người thợ làm ra chúng chắc chắn phải
xuất phát từ miền Bắc Trung Quốc. Thế còn trống đồng
Đông Sơn? Heine-Geldern đề ra giả thuyết rằng đó là thành
quả của một làn sóng văn hóa khác, lần này thì xuất phát
từ người Đông Âu, những người - theo ông - di cư về phía Nam
vào khoảng 1000 năm trước CN và đến Đông Nam Á vào
khoảng 500 năm sau đó. Mặc dù giả thuyết của Heine-Geldern,
10


ngày nay mới đọc qua ai cũng phải lắc đầu về sự thiếu cơ sở
khảo cổ và phi lý của nó, cực kỳ sơ sài, nhưng được chấp
nhận như là một cách giải thích khoa học nhất thời đó.
2.NHỮNG BẰNG CHỨNG KHẢO CỔ HỌC:
Trước đây , cũng qua phân tích DNA, các nhà khoa học
khẳng định rằng gà và chó trên thế giới ngày nay có nguồn
gốc từ Đông Nam Á. Heo, gà, trâu, v.v... là các con vật thuộc
nền văn minh nông nghiệp. Các bằng chứng mới này càng

phù hợp với giả thiết rằng nền nông nghiệp và quê hương
nguyên thủy của cây lúa nước là ở chung quanh vùng Đông
Dương - Mã Lai - Miến Điện (chứ không phải Trung Quốc, nơi mà
bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm
về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử).
Văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên
trên thế giới, khoảng 15.000 năm trước dương lịch . Vài ngàn
năm trước Công nguyên, cư dân Đông Nam Á đã đưa cây lúa
đến vùng Đông Á và Tây Á, những nơi mà cư dân chỉ quen
với nghề trồng lúa mạch. Nhận xét này cũng hợp lý bởi vì
với khí hậu nhiệt đới Đông Nam Á là môi trường thuận lợi cho
việc canh tác nông nghiệp.
Như vậy có thể suy luận rằng trước khi tiếp xúc và chịu
ảnh hưởng hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, vùng Đông
Nam Á đã hình thành một nền văn hóa lúa nước, và cư dân
cổ ở đây (dân Bách Việt) đã phát triển một nền văn minh
nông nghiệp lúa nước, trong đó có cả văn minh châu thổ
sông Hồng, hay văn minh Đông Sơn. Theo GS Trần Quốc Vượng,
chính nghề trồng lúa nước (một ngành nghề đòi hỏi người
dân phải nắm vững và thích nghi với thời tiết, môi trường
sông nước) đã dẫn người cư dân cổ Đông Nam Á sáng tạo ra
lịch dùng 12 con vật gần gụi với nền văn minh lúa nước làm
biểu tượng. Do đó, có khả năng lịch 12 con giáp có nguồn gốc
từ Đông Nam Á, chứ không phải từ Trung Hoa . Có thể qua giao
lưu văn hóa, người Trung Hoa cổ đã vay mượn lịch Đông Nam AÙ
11


và cải tiến lại. Do đó, 12 con vật trong lịch của ta không giống
với 12 con vật trong lịch của Trung Hoa (thử, ngưu, hổ, miêu,

long, xà, mã, dương, hầu, kê, khuyển, trư).
Nhận xét trên có cơ sở. Qua phân tích mối tương quan di
truyền giữa các sắc dân trên thế giới, giới khoa học có thể
khẳng định rằng con người hiện đại di dân ra khỏi Phi châu và
đến Á châu vào khoảng 100.000 năm trước đây. Trong đợt di
dân đầu tiên họ đến vùng Trung Đông, nhưng không thể định
cư được vì thời tiết khắc nghiệt, sau đó có thể họ phải làm
thêm một hành trình thứ hai từ Trung Đông đến tận vùng
Đông Nam Á châu và định cư tại đây . Từ Đông Nam Á, họ lại
di cư một lần nữa: nhóm một đi về hướng Nam ra Úc châu và
Tân Guinea; nhóm hai đi về hướng Bắc đến Trung Quốc và
Nhật Bản, và cuộc di dân này xảy ra vào khoảng 55.000 năm
trước đây. Điều này cũng phù hợp với các dữ kiện di truyền
gần đây cho thấy người Trung Hoa ngày nay, nhất là người
Trung Hoa ở phía Nam Trung Quốc rất gần và có tổ tiên ở
vùng Đông Nam Á châu . Một nghiên cứu mới nhất phân tích
DNA trong 2.332 người từ các vùng Đông Nam Á và miền Nam
Trung Quốc một lần nữa khẳng định nguồn gốc con người là
Đông Nam Á. Họ còn ước tính cuộc di dân về phương Bắc xảy
ra vào khoảng 3.000 đến 25.000 năm về trước.
Tất cả những bằng chứng này cho thấy Đông Nam Á có
thể là một cái nôi văn minh nông nghiệp đầu tiên của con
người , và cư dân tại đây rất có thể là những người phát
minh ra kỹ thuật trồng lúa nước, chăn nuôi, và truyền các kỹ
thuật này lên phía Bắc (tức miền Nam Trung Quốc ngày nay).
Phát hiện mới nhất về quê hương Đông Nam Á của loài gà
gia cầm cho chúng ta thêm một cơ sở để suy luận rằng trong
quá trình định cư và phát triển nông nghiệp, người Đông Nam
Á cổ đã thuần dưỡng giống gà rừng, và từ đây giống gà
này được truyền bá đến miền Nam Trung Quốc, và từ Trung

Quốc “di cư” sang Âu châu. Những phát hiện này, cộng với
12


những di chỉ khảo cổ học và di truyền học mới nhất củng cố
thêm cho giả thuyết Đông Nam Á là một trung tâm văn minh
nông nghiệp cổ xưa nhất của thế giới
Nhiều bằng chứng thu thập sau đó cho thấy giả thuyết
“làn sóng văn hóa” của Heine-Geldern không thể đứng vững
được. Năm 1930, học giả người Hà Lan F. D. K. Bosch tái thẩm
định những văn bia được khắc trên các đền đài ở Nam Dương,
và ông khám phá rằng các văn bia này không hề đề cập
đến sự xâm nhập hay chinh phục của Ấn Độ. Những ảnh
hưởng của Ấn Độ trong ngôn ngữ và biểu tượng thường thấy
trong các vương quốc trong lục địa hơn là trong các vùng duyên
hải. Nếu ảnh hưởng của Ấn Độ đến Đông Nam Á có thật thì
nó phải biểu hiện ở các vùng duyên hải hơn là các vùng
trong đất liền. Do đó, phát hiện này cho thấy cách diễn giải
của Heine-Geldern và vài học giả trước đó như Coedès hay Clark
là không đúng.
Ngoài ngành khảo cổ học và nhân chủng học, giới thực
vật học cũng thu thập nhiều bằng chứng cho thấy giả thuyết
của Heine-Geldern thiếu cơ sở khoa học. Các nhà thực vật học
nghiên cứu nguồn gốc của cây cỏ và cây ăn trái từng suy
luận rằng Đông Nam Á là quê hương của một số loài thực
vật như cây lúa, khoai mỡ, khoai nước, mía và chuối. Năm 1952,
nhà địa lý học người Mỹ Carl Sauer, qua quan sát khí hậu và
nhiều giống cây trồng, đưa ra ý kiến rằng Đông Nam Á có
thể là nơi phát sinh nền nông nghiệp trên thế giới. Nhưng lúc
đó, chưa có bằng chứng khoa học nào để làm cơ sở cho đề

xuất này.
Năm 1965, Chester Gorman, một học trò của Wilhelm Solheim
II, quyết chí đến Thái Lan truy tìm những di chỉ về nông nghiệp
Thời đại Đồ đá để làm bằng chứng cho giả thuyết của Sauer.
Để làm việc này, Gorman phải học tiếng Thái và bỏ ra nhiều
năm tháng sống với người Thái trong các làng xã xa xôi.
Ông lang thang từng thôn làng và hỏi thăm có ai biết bất cứ
13


di chỉ nào từ các hang động cổ hay không. Tháng 4/1966, một
người thợ săn làng Mai Sang Nam dẫn ông đến một hang động
đá vôi gồm có ba ngăn. Ông bèn đi ngay đến hang động và
đặt tên là Động Linh hồn (Spirit Cave). Qua những phương pháp
khảo cổ hiện đại, Gorman và các cộng sự nghiên cứu viên
ước đoán rằng Động Linh hồn đã được con người sử dụng
khoảng 10.000 năm trước CN. Tại đây, Gorman phát hiện một
cây rìu và dao có niên đại 7.000 năm trước CN (niên đại này
còn cổ hơn các cây rìu tìm thấy ở Trung Quốc đến 2.000 năm.
Trước đó, người ta vẫn cho rằng các công cụ như thế do Trung
Quốc “xuất cảng” sang Đông Nam Á khoảng 3.000 năm trước
CN). Cũng tại Động Linh hồn, Gorman còn phát hiện con người
tại đây đã biết nấu ăn và đã bắt đầu dùng (hay sản xuất)
đồ gốm có trang trí hoa văn.
Sau ba năm phân tích và viết về khám phá từ Động Linh
hồn, Gorman quay lại Thái Lan vào năm 1972 để khai quật các
hang động chung quanh. Ông tìm thấy hai động khác, và có thể
kết luận rằng có một quá trình định cư tại đây khoảng 10.000
năm trước CN đến 1.000 năm sau CN. Ông đặt tên nền kinh tế
thịnh vượng này là nền kinh tế Hòa Bình (vì các công cụ dùng

có cùng hình dạng với công cụ tìm thấy tại Hòa Bình trước đó).
Năm 1966, một học trò khác của Solheim là Donn Bayard
tiến hành khai quật một nghóa trang thời tiền sử có tên là
Non Nok Tha (Thái Lan). Tại đây, dù chỉ đào xuống 1,5 mét,
ông đã phát hiện 800 bình, lọ làm bằng gốm được chôn cất
cùng với những chủ nhân của chúng. Qua phân tích cẩn thận,
Bayard ước tính niên đại của các di chỉ này từ 3.500 trước CN
đến 2.000 năm trước CN (thời gian này cũng là lúc các thành
phố vùng Lưỡng Hà bắt đầu xuất hiện). Ngoài ra, Mayard còn
khám phá một số công cụ như rìu, vòng đeo tay làm bằng
đồng và thiếc. Những công cụ tìm thấy ở đây hoàn toàn
không có dấu hiệu thô sơ chút nào; ngược lại, chúng cho thấy
người sản xuất đã nấu chảy kim loại và đổ khuôn.
14


Những phát hiện tại Động Linh hồn và nghóa trang Non Nok
Tha là một thách thức nghiêm trọng đến những giả thuyết
từng được lưu hành và chấp nhận trước đây. Wilhelm Solheim II
không ngần ngại tuyên bố rằng Đông Nam Á là cái nôi đầu
tiên của văn minh nhân loại. Nhưng quan điểm của Solheim và
những phát hiện quan trọng vừa trình bày trên có ít người trên
thế giới biết đến, vì những tài liệu khảo cổ thường chỉ lưu
hành trong giới chuyên môn, chưa được truyền bá đến mức độ
đại chúng. Cuốn Địa đàng ở Phương Đông là một tác phẩm
được viết ra cho quần chúng.
Kế tiếp sự nghiệp của Solheim và những người trước đó,
qua cuốn sách bạn đang cầm trên tay, Stephen Oppenheimer, một
bác só nhi khoa, đã bỏ ra 15 năm trời để thu thập, phân tích và
tổng hợp dữ kiện từ các ngành nghiên cứu như di truyền học,

nhân chủng học, thần thoại học, văn học dân gian, ngôn ngữ
học, hải dương học và khảo cổ học để cho ra đời một tác
phẩm làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và
khảo cổ học phải ngẩn ngơ. Giả thuyết mà Oppenheimer trình
bày trong cuốn sách này lần đầu tiên đặt Đông Nam Á vào
trung tâm của các nguồn gốc văn hóa và văn minh thế giới.
Oppenheimer chứng minh rằng khoảng 9.000 đến 10.000 năm về
trước, một số dân vùng Đông Nam Á đã là những nhà canh
nông chuyên nghiệp, không chỉ là những người sống bằng
nghề săn bắn ban sơ như giới khảo cổ học Tây phương mô tả.
Vào khoảng 8.000 năm trước đây, mực nước biển tăng một
cách đột ngột và gây ra một trận đại hồng thủy, và trận lụt
vó đại này đã làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế
giới này phải di tản đi các vùng đất khác để mưu sinh. Trong
quá trình di cư đến các vùng đất mới, họ đem theo ngôn ngữ,
truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, yêu
thuật và đẳng cấp xã hội đến vùng đất mới. Thực vậy,
ngày nay, dấu vết của cuộc di dân trên vẫn còn ghi đậm
trong các quần đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia; dân chúng
15


những nơi này nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo
(Austronesian) có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Theo Oppenheimer,
những “người tị nạn” này có thể là những hạt giống cho
những nền văn minh lớn khác mà sau này được phát triển ở
Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập và Địa Trung Hải.
Những kết luận và phát biểu của Oppenheimer cũng phù
hợp với hàng loạt nghiên cứu di truyền học mới được công bố
gần đây. Chẳng hạn như qua phân tích DNA, các nhà khoa học

Mỹ đã có thể tái xây dựng quá trình di cư thời tiền sử. Con
người hiện đại di dân khỏi châu Phi đến châu Á vào khoảng
100.000 năm trước đây. Có thể trong đợt di dân đầu tiên họ
đến vùng Trung Đông, nhưng không thể định cư được vì thời tiết
khắc nghiệt, sau đó có thể họ phải làm thêm một hành trình
thứ hai từ Trung Đông đến tận vùng Đông Nam Á. Cũng có
thể họ đi thẳng từ Đông Phi, dọc theo đường biển ảrập ngày
nay băng ngang qua Ấn Độ, và đến định cư ở Đông Nam Á. Từ
Đông Nam Á, họ lại di cư một lần nữa: nhóm một đi về hướng
nam ra châu úc và Tân Guinea; nhóm hai đi về hướng bắc đến
Trung Quốc và Nhật Bản, và cuộc di dân này xảy ra vào
khoảng 55.000 năm trước đây. Điều này cũng phù hợp với
các dữ kiện di truyền gần đây cho thấy người Trung Hoa ngày
nay, nhất là người Trung Hoa ở phía Nam Trung Quốc rất gần và
có tổ tiên ở vùng Đông Nam Á.
Nhưng những phát hiện mới nhất về văn minh Đông Nam
Á có ý nghóa gì đến đời sống tinh thần của người Việt chúng
ta? Để trả lời câu hỏi này, có lẽ chúng ta cần phải nói rõ
rằng tọa độ văn hóa Việt Nam nằm trong bối cảnh văn hóa
Đông Nam Á. Là người Việt, chúng ta cần phải hiểu và biết
về nguồn gốc văn minh và văn hóa nước nhà, bởi vì văn
hóa là tài sản q báu nhất mà tổ tiên ta đã truyền lại qua
bao thế hệ.
Các sử gia Âu Mỹ thường lập luận rằng nền văn minh
nhân loại đã bắt rễ từ vùng bán nguyệt Cận Đông hay trên
16


những vùng đồi phụ cận của miền này. Ở đó, từ lâu chúng
ta tin rằng con người nguyên thủy đã phát triển canh nông và

học cách làm đồ gốm, đồ đồng. Khoa khảo cổ đã hổ trợ
niềm tin này một phần vì các nhà khảo cổ đã đào xới, khai
quật nhiều nhất vùng bán nguyệt Cận Đông mầu mỡ này.
Tuy nhiên, những khám phá bây giờ ở trong miền Đông Nam
Á đang buộc chúng ta phải khảo nghiệm lại các truyền thống
này. Các vật liệu được khai quật và phân tích trong năm năm
qua đã cho thấy rằng con người sống ở vùng Đông Nam Á đã
trồng cây, làm đồ gốm, đúc đồng trước tiên trên thế giới,
trước tất cả cá vùng khác trên trái đất này.
Những chứng cớ đến từ những địa điểm khảo cổ trong
vùng đông bắc và tây bắc Thái Lan, với những tiếp trợ từ
những khai quật ở Đài Loan, Bắc và Nam Việt Nam, các khu vực
khác ở Thái Lan, Mã Lai, Philippine, và ngay cả từ miền Bắc
Australia cho thấy các vật liệu được khám phá và khảo
nghiệm bằng carbon 14 cho thấy rằng những di tích của những
dân tộc mà tổ tiên họ đã trồng cây, chế tạo đồ đá, đồ
gốm hàng ngàn năm trước các dân tộc sống ở vùng Cận
Đông, Ấn Độ, và Trung Hoa. Trong một địa điểm khai quật ở
bắc Thái Lan, các nhà khảo cổ đã tìm thấy đồng được đúc
trong những khuôn đôi vào khoảng từ 2300 năm đến hơn 3000
năm trước tây lịch. Đây là bằng chứng cụ thể cho thấy công
việc đúc đồng này đã có trước cả Trung Hoa hay Ấn Độ,
cũng như trước cả các đồ đồng đúc ở miền Cận Đông mãi
tới bây các chuyên gia vẫn còn tin là nơi luyện kim đồng đầu
tiên trên thế giới.
Có người nêu ra lý do hỏi rằng nếu sự việc này quá
quan trọng như vậy , tại sao vai trò của vùng Đông Nam Á cùng
các dân tộc trong vùng trong thời tiền sử không được biết
đến cho tới bây giờ. Có vài lời giải thích về việc này nhưng
lý do chính rất đơn giàn là rất ít cuộc khảo cứu về khảo cổ

được hoàn tất trước năm 1950. Ngay cả bây giờ công vieäc
17


khảo cổ mới tiến hành một cách sơ lược. Các viên chức
thuộc địa đã không đặt ưu tịên cao về các khảo cứu của
thời tiền sử ở vùng này , chỉ có một số ít người nghiên cứu
về công việc khảo cổ được huấn luyện về nghề nghiệp cẩn
thận. Không một phúc trình toàn bộ nào về các địa điểm khai
quật được chấp nhận theo tiêu chuẩn hiện đại được xuất bản
trước năm 1950. Thứ nữa là những điều các nhà khảo cổ tìm
ra đã được diễn dịch trên một giả thuyết là sự phát triển
văn hóa được đông tiến và nam tiến.
Các nhà chuyên môn này đã nêu ra lý thuyết cho rằng
nền văn minh nhân loại bắt đầu trong vùng Cận Đông lan ra
vùng Nhó Hà, Ai Cập và sau đó là Hy Lạp và La Mã. Nền văn
minh cũng di chuyển đông tiến tới Ấn Độ và Trung Hoa. Đông
Nam Á thì quá xa điểm khởi thủy do đó chỉ tiếp nhận nền
văn

minh

sau

các

vùng

trên.


Các người Âu châu tìm ra các nền văn hóa cao ở Ấn Độ và
Trung Hoa, do đó khi họ tìm ra các kiến trúc và lối sống của
các quốc gia trên và miền Đông Nam Á giống nhau, người Âu
châu cho rằng Ấn Độ và Trung Hoa ảnh hưởng vùng này. Ngay
cả tên họ đặt cho vùng là Ấn –Trung cũng phản ảnh lại thái
độ của họ.
Trong mục đích tìm về thời tiền sử ở Đông Nam Á, tiến só
SOLHEIM II cho rằng văn minh Đông Nam Á phải được trải rộng
ra tới những khu vực có các nền văn hóa liên hệ. Từ ngữ
tiền sử Đông Nam Á mà tiến só SOLHEIM II sử dụng chứa đựng
hai phần.
Phần thứ nhất hay là phần đất chính Đông Nam Á được
trải dài từ rặng núi Tần-Lónh phía bắc sông Hoàng-Hà của
Trung-Hoa cho tới Singapore và từ miền Đông hải tây tiến tới
Miến-Điện vào tận Asssam của Ấn-Độ.
Phần khác được gọi là quần đảo Đông Nam Á đánh một
vòng cung từ quần đảo Andaman ở miền nam Miến-Điện trải
dài

tới

Đài-Loan

bao

gồm

Indonesia




Philippine.
18


Nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern xuất
bản đại cương truyền thống về thời tiền sử ở Đông Nam Á
vào năm 1932. Ông ta đã đề xướng một loạt những đợt sóng
văn hóa có nghóa là những làn sóng người di cư đã đem tới
Đông Nam Á những chủng tộc chính đã được tìm thấy ngày nay
ở khu vực này.
Ông Robert Heine-Geldern cũng cho rằng đợt di dân quan
trọng nhất là đợt di dân của những người đã chế ra một dụng
cụ hình chữ nhật được gọi là cái rìu. Những người di dân trong
đợt sóng này đã đến từ miền bắc Trung-Hoa di cư xuống Đông
Nam Á và lan xuống miền Sumatra, Java, Borneo, Philppines, Đài
Loan và Nhật Bản.
Sau đó ông Robert Heine-Geldern đã giải quyết về sự du
nhập đồ đồng vào Đông Nam Á như sau: ông ta giả thuyết cho
rằng đồ đồng nguyên thủy ở Đông Nam Á được du nhập từ
Đông Âu khoảng 1000 năm trước tây lịch do những di dân.
Ông Robert Heine-Geldern tin rằng những di dân trong đợt di dân
này di chuyển vào phía đông và phía nam vào Trung-Hoa vào
thời Tây Châu (khoảng từ năm 1122 – năm 771 trước tây lịch).
Những di dân này đã đem đi với họ không những chỉ có các
kiến thức về chế tạo đồng, họ còn đem tới nghệ thuật kỷ
hà mới với các đường thẳng, đường xoắn ốc, tam giác cùng
hình người và thú vật.
Nghệ thuật này đã được ứng dụng trong toàn vùng Đông
Nam Á được cả hai ông Robert Heine-Geldern và Bernhard Karlgren

(môt học giả Th-Điển) gọi là nền văn hóa Đông Sơn theo tên
Đông Sơn, một địa điểm ở miền bắc Việt Nam, phía nam Hà
Nội, nơi mà các trống đồng lớn cùng các cổ vật khác được
tìm thấy. Hai ông Heine-Geldern và Karkgren đều cho rằng người
dân Đông Sơn đã đem đồng và nghệ thuật trạm trổ kỷ hà
vào Đông Nam Á. Phần lớn thời tiền sử được tái tạo theo
truyền thống đó nhưng có một đôi điều đã không phù hợp
với truyền thống này. Thí dụ như một số nhà thực vật học
19


nghiên cứu về nguồn gốc thuần hóa của cây cỏ đã đề
xướng là Đông Nam Á là một trung tâm thuần hóa cây cỏ
rất sớm.
Năm 1952, nhà địa chất học Carl Sawer đã đi một bước xa
hơn. Ông Carl Sawer đã đưa ra giả thuyết là cây cỏ đầu tiên
trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á. Ông Sawer đã
phỏng đoán rằng cây cỏ được thuần hóa được mang tới do
những người sống trong nền văn hóa trước thời kỳ văn hóa
Đông Sơn xa. Những người dân sống trong trong một nền văn
hóa nguyên thủy được biết đến như là nền văn hóa HÒABÌNH nhưng các nhà khảo cổ thời đó đã không chấp nhận lý
thuyết này của ông CARL Sawer.
Năm 1963, tiến só Solheim II đã tổ chức một đoàn liên
hợp khảo cổ cấp thời phối hợp giữa Bộ Nghệ Thuật Thái Lan
và Đại Học Hawaii để làm công việc cứu vớt khảo cổ ở
những khu vực sẽ bị lụt do công việc xây dựng những đập
nước mới trên sông Cửu Long và những chi nhánh của sông
này. Tiến só Solheim II phải bắt đầu làm việc trong miền bắc
Thái Lan, nơi những đập nước đầu tiên được xây dựng.
Không có một hệ thống khảo cứu về thời tiền sử ở

vùng này được Hoàn tất. Tôi tiến só Solheim II cảm thấy cần
khẩn cấp bắt đầu hàng loạt khai quật trước khi vùng này chìm
ngập dưới nước.
Trong mùa khảo cứu dã ngoại đầu tiên tiến só Solheim II
đã xác định vị trí của hơn hai mươi địa điểm, trong mùa thứ hai
đoàn đã khai quật một vài nơi của các địa điểm này trong khi
thử nghiệm các nơi khác; trong năm 1965-1966, tiến só Solheim II
đã làm một cuộc khai quật chính ở Non Nok Tha. Trong lúc thử
nghiệm với đồng vị phóng xạ carbon-14 để xác định thời gian
của các cổ vật hiện ra vài vấn đề, chúng đã đề xướng một
cách mạnh mẽ là có dấu hiệu của sự liên tục về đời sống
của con người (với vài sự ngắt quãng) đi ngược về thời gian
trước năm 3500 trước tây lịch.
20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×