Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Giao trinh ngu am tieng viet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.97 KB, 28 trang )

BÀI GIẢNG NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
I.
II.

III.

IV.

V.

VI.

ÐỐI TƯỢNG VÀ VỊ TRÍ CỦA NGỮ ÂM HỌC
1.
Ngữ âm học và âm vị học
2.
Vị trí của mơn ngữ âm học
CƠ SỞ CỦA NGỮ ÂM
1.
Cơ sở ngữ âm
2.
Cơ sở sinh lí học
3.
Cơ sở xã hội
4.
Các đặc trưng ngữ âm
5.
Đặc điểm cấu tạo của nguyên âm và phụ âm
ÂM TỐ
1.
Định nghĩa


2.
Các loại âm tố
3.
Ý nghĩa của sự phân loại âm tố về mặt cấu âm  và âm học
ÂM VỊ
1.
Định nghĩa
2.
Biến thể của âm vị
3.
Các nét khu biệt âm vị và sự đối lập âm vị
4.
Phiên âm ngữ âm học
ÂM TIẾT
1.
Định nghĩa
2.
Cấu tạo về cách phát âm của âm tiếng việt
3.
Đặc điểm của âm tiết tiếng việt
4.
Các vị trí cũa mơ hình âm tiết
5.
Phân loại âm tiết tiếng việt
6.
Sự biến hóa ngữ âm
HỆ THỐNG NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
1.
Hệ thống phụ âm đầu
2.

Hệ thống âm đệm
3.
Hệ thống âm chính
4.
Hệ thống âm cuối
5.
Thanh điệu
6.
Ngữ điệu

PHẦN BẢI TẬP
I -  ÐỐI TƯỢNG VÀ VỊ TRÍ CỦA NGỮ ÂM HỌC
          1-   Ngữ âm học và âm vị  học
a- Ngữ âm học :

TOP


Trong cuộc sống con người luôn lu6n phải giao tếp với nhau . Sự giao tiếp diễn ra bằng
nhiều hình thức : ngôn ngữ , điệu bộ cử chỉ, hội hoạ , âm nhạc,... . Trong các hình thức trên , hình
thức giao tiếp bằng ngơn ngữ là hình thức quan trọng nhất.
          Ðể hiểu nhau con người luôn phải nắm bắt một cái gì đó trong khi giao tiếp. Cái gì đó , đó
chính là đối tượng nghiên cứu của ngữ âm học và âm vị học.
          Các âm của ngơn ngữ có thể được nghiên cứu từ nhiều góc độ , do đó  đã hình thành ba phân
mơn là : Ngữ âm học cấu âm ( Nghiên cứu các âm của ngôn ngữ theo quan điểm của người nói) ,
ngữ âm học thính âm (nghiên cứu các âm của ngôn ngữ theo quan điểäm của người nghe), và ngữ
âm học âm học ( Nghiên cứu những đặc điểm vật lí của ngữ âm khi chúng được truyền từ miệng đến
tai. Trong trường hợp này các dụng cụ như máy ghi dao động, quang phổ, đã được dùng để chuyển
một âm sang một hình thức thể hiện có thể nhìn thấy được ).
          Vậy, ngữ âm học là mơn học nghiên cứu chất liệu âm thanh của ngôn ngữ , nghiên cứu

những chất liệu này trong trong những đơn vị có nghĩa của ngơn ngữ và mối liên hệ giữa hình
thức âm thanh và chữ viết .
          - Ngữ âm học nghiên cứu hình thức ngữ âm của ngơn ngữ từ những quan điểm khác nhau :
                   * Từ những đặc trưng vật lí âm học của chúng .
                   * Từ những hoạt động của cơ quan phát âm tương ứng của con người.
          - Ngữ âm học bao gồm những bộ môn nhỏ :
                   * Ngữ âm học đại cương : nghiên cứu phần lí luận chung của ngữ âm.
                   * Ngữ âm học miêu tả : nghiên cứu ngữ âm của một ngôn ngữ nhất định.
                   * Ngữ âm học lịch sử : nghiên cứu sự biến đổi ngữ âm qua qúa trình lịch sử và qui luật
của nó .
                   * Ngữ âm học so sánh : nghiên cứu và so sánh ngữ âm giữa các ngôn ngữ để tìm mối
quan hệ về nguồn gốc và loại hình của nó .

            b-Âm vị học : Là một bộ môn khoa học nghiên cứu về việc sử
dụng các vai trò của các âm tố và các hiện tượng âm thanh khác
trong hoạt động của ngôn ngữ như một công cụ giao tế của con
người. Ðây là lĩnh vực nghiên cứu của một bộ môn riêng , hiện nay
âm vị học được coi như là một bộ phận của ngữ âm học nói chung .
          2- Vị trí của mơn ngữ âm học

TOP

          Ngữ âm học có ý nghĩa thực hành lớn , nó cung cấp cho ta phương pháp đúng để dạy viết và
đọc , cho ta cơ sở phát âm đúng tiếng mẹ đẻ đồng thời phát âm đúng tiếng nước ngoài, trang bị cho
chúng ta cơ sở lí luận và kiến thức để tạo nên hệ thống chữ viết hợp lí , cho ta cơ sở để nghiên cứu
các bệnh về lời nói có liên quan đến bộ máy phát âm và hoạt động của não ... Ngữ âm học còn được


ứng dụng vào các công việc kĩ thuật khác : Kĩ thuật truyền tin , nhận diện tự động và tổng hợp lời
nói một cách nhân tạo.

          Ngữ âm học đã có nhiều đóng góp quan trọng về mặt lí luận . Qua cơ cấu ngữ âm chúng ta
hiểu ngôn ngữ là một hệ thống toàn vẹn , cân đối .  Ngữ âm  là nơi thí nghiệm của ngơn ngữ học vì
ngữ âm thường ít thay đổi và cũng đơn giản hơn các bộ môn ngôn ngữ khác .

          Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Khi nói vỏ vật chất của tín
hiệu được biểu thị bằng âm thanh , khi viết nó được biểu hiện bằng
chữ .Chữ viết ghi lại hình ảnh âm thanh của ngơn ngữ , nhưng không
phải bao giờ chúng cũng được biểu thị theo cách một âm một chữ
mà đơi khi có những âm được biểu thị bằng hai hoặc ba con chữ
khác nhau
II - CƠ SỞ CỦA NGỮ ÂM 
          1- Cơ sở âm học

TOP

          Aâm thanh ngôn ngữ cũng như mọi âm thanh khác trong cuộc sống , chúng đều có chung một
cơ sở vật chất : Ðó là cơ sở vật lí : Những âm thanh nói chung được tạo thành nhờ sự chấn động của
các phân tử khơng khí , các vật thể đàn hồi , chúng phụ thuộc vào các yếu to ánhư : vật thể chấn
động , môi trường truyền âm, lực tác động ..
          Aâm thanh ngôn ngữ được tạo thành do sự rung động của dây thanh và sự hoạt động của các
khí quan khác trong bộ máy phát âm . Khác với các âm thanh tự nhiên , âm thanh ngôn ngữ phải là
các âm thanh đi qua bộ máy phát âm của con người và có mang nội dung thơng báo. m thanh
ngơn ngữ chỉ có thể là những chấn động mà cơ quan thính giác của con người có thể lĩnh hội được .
          Chính vì vậy, âm thanh ngơn ngữ có những đặc trưng riêng biệt :
          - Ðộ cao:
          - Ðộ mạnh :
          - Ðộ dài:

- Âm sắc :
          2- Cơ sở sinh lí học


TOP

          Bộ máy phát âm tức là tồn bộ những cơ cấu sinh lí có liên quan âm thanh ngôn ngữ như: môi
, răng , lưỡi, khoang miệng, khoang mũi,....Tuy nhiên bộ máy phát âm của con người bao gồm
những phần lớn như:
          - Phổi : Là cái tạo ra khơng khí . Muốn tạo ra một âm trước hết cần phải có luồng hơi . Trong
phần lớn các ngôn ngữ , luồng hơi được tạo ra từ phổi và mỡi âm tùng với một hơi thở ra .
          - Thanh hầu và dây thanh


          - Các khoang trên thanh hầu

                   (Sơ đồ bộ máy phát âm của con người.)
          3- Cơ sở xã hội

TOP

          Các âm thanh ngôn ngữ không chỉ là những chấn động được
truyền trong mơi trường khơng khí , và cũng không chỉ là kết qủa
của hoạt động của bộ máy phát âm , mà còn là những đơng vị âm
thanh ngôn ngữ mang chức năng ngữ nghĩa và dùng để giao tiếp
trong cuộc sống. Mỗi ngơn ngữ có những âm thanh ngôn ngữ mang
chức năng ngữ nghĩa khác nhau, có những âm thanh được sử dụng ở
ngơn ngữ này nhưng lại khơng sử dụng ở ngơn ngữ khác, vì thế ngữ
âm cịn có thêm cơ sở xã hội .Mỗi ngơn ngữ có một hệ thống âm vị
riêng , và hệ thống âm vị này lại có q trình biến đổi theo sự phát
triển lịch sử của mỗi dân tộc .
          4-Các đặc trưng ngữ âm


TOP

          Mỗi kí hiệu ngơn ngữ đều có hình thức diễn đạt bằng âm thanh của nó .Có những từ sự khác
biệt được thể hiện trên số lượng các âm tiết tham gia , hoặc ngay cả trên một từ khi mà số lượng âm
tiết bằng nhau chúng cũng thể hiện sự khác nhau rất rõ.
          Tuy nhiên có những từ mà sự khác biệt dường như chỉ thể hiện trên một âm nào đó : ví như
đàn và tàn , chúng khác biệt nhau chỉ ở một đặc trưng : sự chấn động của dây thanh trong khi phát
âm hoặc khơng . Chính vì vậy, miêu tả ngôn ngữ không thể không biết đến những đặc trưng ngữ âm
của mỗi cấu tạo âm thanh .
          Aâm thanh do con người phát ra dùng để giao tiếp được cấu tạo bởi luồng khơng khí từ phổi
đi lên qua thanh hầu. Hai dây thanh ,tức hai tổ chức cơ nằm sóng nhau trong thanh hầu, với sự điều
khiển của thần kinh chấn động cho phép luồng khơng khí thốt ra thành từng đợt nối tiếp nhau tạo
nên những sóng âm. dây thanh này dày mỏng khác nhau và tuỳ theo sự chấn động mạnh yếu khác
nhau cho ta những âm thanh cao thấp khác nhau. Tuy nhiên, trong q trình đi ra của luồng khơng
khí những âm thanh do dây thanh tạo nên còn được sự cộng hưởng của các khoang miệng hoặc
khoang mũi.
          Âm này nếu thốt ra ngồi tự do, đặc trưng âm học là có tần số ổn định , chu kì đều đặn , có
âm hưởng êm ái dễ nghe, chúng được gọi là tiếng thanh, trong ngơn ngữ đó là các ngun âm .
Ngược lại, luồng khơng khí từ phổi đi lên qua thanh hầu có thể khơng tiếp nhận được một
âm nào do chỗ dây thanh không hoạt động và để ngỏ . Trong q trình thốt ra ngồi nếu gặp một sự
cản trở nào đó ví như sự tiếp xúc của đầu lưỡi với răng .Những tiếng này không dễ nghe , có tần số
khơng ổn định, có chu kì khơng đều đặn ,những âm thanh này gọi là tiếng động , chúng là các phụ
âm .


Cịn có một loại trung gian vừa mang tính chất nguyên âm vừa
mang tính chất phụ âm  được gọi là bán nguyên âm đơn hay bán
phụ âm .Ðó là những âm như I, hoặcu trong các âm tiết như chạy ,
Khuya….
          5- Ðặc điểm cấu tạo của nguyên âm và phụ âm


TOP

          Với nguyên âm : Thứ nhất : Luồng hơi đi ra tư do, không bị cản trở, không có vị trí cấu âm.
Thứ hai , Bộ máy phát âm hoạt động toàn thể . Thứ ba, khi phát âm nguyên âm luồng hơi đi ra yếu
( dây thanh runh hoặc không rung ).

          Với phụ âm : Thứ nhất, Luồng hơi bị cản trở do sự xuất hiện
của chướng ngại trên lối thốt của khơng khí . Các chướng ngại này
thường là các tiêu điểm cấu âm cụ thể của mỗi âm thanh. ( thường
gọi là vị trí cấu âm). Thứ hai, bộ máy phát âm hoạt động xảy ra ở
những cơ thịt , tập trung ở vị trí cấu âm . Thứ ba, luồng hơi thốt ra
mạnh
III -  ÂM TỐ
          1- Ðịnh nghĩa

TOP

Âm tố là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất không mang chức năng phân biệt nghĩa và nhận diện từ .
          Theo ơng Ðồn Thiện Thuật thì : m tố là đơn vị âm thanh nhỏ nhất của lời nói có thể tách
ra về mặt cấu âm thính giác , đồng chất trong một khoảng thời gian nhất định và thường tương ứng
với mỗi một âm vị .
          Như vậy nói đến âm tố là nói đến mặt tự nhiên của ngữ âm ( bao gồm cơ sở âm học và snh
lí ).
          Âm tố là những yếu tố tự nhiên . Chúng phụ thuộc vào các yếu tố như : ngữ điệu, hoàn cảnh
phát âm khi chúng kết hợp với các yếu tố khác trong cùng một âm tiết , bộ máy phát âm của mỗi cá
nhân. Chính vì vậy , khi nói về số lượng của âm tố người ta không thể đếm được , chúng có vơ vàn
trong cuộc sống và chúng khơng phải là các yếu tố chuẩn .
          Kí hiệu của âm tố là chúng được phiên âm giữa hai gạch vng [  ] .


Ví dụ : [ b ], [ d ],...    Ngồi chúng cịn có một số các yếu tố phụ như
: ngạc hóa, mơi hóa, ngắn,dài ....
          2- Các loại âm tố 
          a-Phân loại âm tố về mặt cấu âm :
                   * Âm tố nguyên âm:

TOP


          Các nguyên âm không thể phân loại theo tiêu chuẩn như của phụ âm. Về mặt phương thức cấu
âm, nguyên âm chỉ thuộc vào một phương thức đó là luồng hơi ra tự do. Ngun âm khơng có vị trí
cấu âm vì rằng các khí quan khơng tạo thành khe, cũng không tạo thành chỗ tắc. Các nguyên âm
cũng khơng thể phân loại theo tiếng thanh, vì bình thường, bất cứ nguyên âm nào cũng có tiếng
thanh.
          Các nguyên âm chỉ khác nhau ở các hoạt động của các khí quan phát âm, trong đó quan trọng
nhất là lưỡi. Vì sự thay đổi vị trí của lưỡi gây ra sự khác nhau rất lớn giữa các nguyên âm. Lưỡi
chuyển động tới- lui và lên- xuống trong khoang miệng tạo nên những tương quan phức tạp giữa các
khoang cộng minh ( khoang miệng và mũi), làm thay đổi hình dáng và thể tích của chúng. Mơi trịn
lại và đưa về trước, làm kéo dài lối thốt của luồng khơng khí, hoặc mơi chành ra, làm cộng minh
trường phía trước ngắn lại.
          Người ta thường phân loại nguyên âm theo vị trí của lưỡi, độ nâng của lưỡi và hình dáng của
mơi.
          - Phân loại theo vị trí của lưỡi: ta có các ngun âm dịng trước (khi lưỡi dồn về trước),
nguyên âm dòng sau ( khi lưỡi dồn về sau) và nguyên âm dòng giữa ( khi lưỡi ở giữa miệng nâng
lên). Ví dụ, trong tiếng Việt, các nguyên âm dòng trước là[ i ],[ e ],[ ê ], nguyên âm dịng sau là [ u ],
[ o ],[ ơ]â và nguyên âm dòng giữa là[ ư ],[ ơ ],[ a].
          - Theo độ nâng của lưỡi: các nguyên âm được chia thành nhiều loại khác nhau, tùy từng ngôn
ngữ. Ðơn giản nhất là có ba độ nâng của lưỡi như trong tiếng Nga ( cao, trung bình và thấp). Ðộ
nâng của lưỡi tương ứng với độ mở của miệng, nên các ngun âm có độ nâng cao cịn gọi là
ngun âm hẹp, ngun âm có độ nâng thấp cịn gọi là nguyên âm mở. Trong ngữ âm học đại cương

khơng có một cách phân loại tuyệt đối theo độ nâng lưỡi vì mỗi ngơn ngữ có một hệ thống ngun
âm khác nhau. Ví dụ, các ngun âm dịng trước trong tiếng Pháp có 4 độ nâng, các nguyên âm
trong tiếng Ðức có 5 độ nâng, cịn trong tiếng Anh có 6 độ nâng. Trong tiếng Việt, các nguyên âm
đơn có thể chia thành 4 độ nâng:
                   -  Hẹp [ i] , [ u ],....  
                   -  Hơi hẹp  [ ê ], [ ư ],...
                   -  Hơi rộng [ o ] , [ e ],...
                   -  Rộng     [ ă ], [ a],... 
          - Theo hình dáng mơi: Các ngun âm được chia thành ngun âm trịn mơi ( như [ u ],[ ơ ] â,
[ o ]) ngun âm khơng trịn môi ( như  [ i ],[ ê] [e],[ ư],[ ơ], [a]). Sự trịn mơi rõ nhất ở ngun âm
khép và yếu nhất ở nguyên âm mở.
          Dựa theo vị trí khác nhau của lưỡi khi cấu tạo các nguyên âm trong khoang miệng, người ta
biểu diễn các nguyên âm trên hình thang nguyên âm quốc tế.
          (Vẽ hình thang nguyên âm )
                   * Âm tố phụ âm:


          ( Trước tiên , theo mối quan hệ giữa tiếng thanh và tiếng ồn trong cấu tạo của phụ âm, các phụ
âm được chia thành các phụ âm vang( tiếng thanh nhiều hơn tiếng ồn) và các phụ âm ồn. Trong các
phụ âm ồn lại chia ra các phụ âm hữu thanh ( phát âm có sự tham gia của tiếng nhanh, do dây thanh
rung động) và phụ âm vơ thanh ( phát âm khơng có sự tham gia của tiếng thanh).
          Nhóm các phụ âm vang có thể được coi là một nhóm trung gian giữa các nguyên âm và các
phụ âm ồn. Khi phát âm các phụ âm vang, chướng ngại được tạo thành nhưng có thể là chỗ tắc yếu (
như ở phụ âm [r] tiếng Nga hay [R] tiếng Pháp hay [ l] tiếng Việt) hoặc khơng khí khơng những trực
tiếp vượt qua chỗ có chướng ngại mà còn đi ra tự do qua mũi ( như ở các phụ âm [m], [n] trong
tiếng Việt).
          - Sự phân chia thứ hai của các phụ âm là phân chia theo phương thức cấu tạo tiếng ồn, tức
theo tính chất của chướng ngại, thành các phụ âm tắc, xát và rung.
          Phụ âm tắc được tạo thành khi hai khí quan tiếp xúc nhau, tạo thành chỗ tắc, canû trở hồn
tồn lối ra của luồng khơng khí. Ví dụ: Các phụ âm [p], [b], [t], [d].

          Phụ âm xát được tạo thành khi hai khí quan nhích lại gần nhau, làm cho lối ra của luồng
khơng khí bị thu hẹp; luồng khơng khí đi qua khe hẹp này cọ xát vào thành của bộ máy phát âm. Ví
dụ: Các phụ âm [f], [v], [s], [z], [h].
          Phụ âm rung được tạo thành khi các khí quan dễ rung động ( như đầu lưỡi, lưỡi con hay mơi)
nhích lại gần nhau tạo thành một khe hở rất hẹp hay một chỗ tắc yếu, luồng khơng khí đi ra mạnh
làm cho các khí quan ấy rung lên (Ví dụ: phụ âm [r] trong tiếng Nga hay[R] trong tiếng Pháp).
          Trong cách cấu âm của phụ âm, người ta thường phân biệt ba giai đoạn:
                   + Giai đoạn tiến: khí quan phát âm chuyển đến vị trí cấu âm.
                   + Giai đoạn giữ: khí quan phát âm ở vị trí cấu âm.
                   + Giai đoạn lùi: khí quan phát âm rời khỏi vị trí cấu âm.
          Hai giai đoạn đầu giống nhau ở bất cứ âm tắc nào. Về giai đoạn thứ ba, cần phân biệt các tiểu
loại âm tắc: âm nổ, âm mũi, âm tắc- xát và âm khép.


          Các phụ âm khép không thể gặp trước nguyên âm, mà chỉ thường xuất hiện ở cuối từ hay
trước một phụ âm tắc khác. Trong tiếng việt, tất cả các phụ âm ở cuối âm tiết đều là phụ âm khép.
          - Sự phân chia thứ ba của phụ âm là sự phân chia theo vị trí cấu tạo ra tiếng ồn hay theo khí
quan chủ động khi cấu âm.
          Theo vị trí cấu tạo tiếng ồn, các phụ âm thường được chia ra thành các loạt chính như: phụ âm
môi, răng, lợi, ngạc mạc, lưỡi con, yết hầu, thanh hầu.
          Theo khí quan chủ động, các phụ âm được chia thành các loạt: phụ âm môi, lưỡi trước, lưỡi
giữa, lưỡi sau, lưỡi con, yết hầu, thanh hầu.
          Trong các nhóm này, có một số cần chia nhỏ ra nữa. Thí dụ trong các âm mơi, người ta phân
biệt các âm hai môi, thường gọi là âm môi- môi ( ví dụ: [p], [b], [m]) với các âm một mơi, thường
gọi là âm mơi- răng ( ví dụ: .[f], [v]).
          Các âm lưỡi trước thường chia thành nhiều nhóm nhỏ nhưng đáng chú ý là âm đầu lưỡi
( apical) và âm quặt lưỡi (cacuminal).
         - Ðối với một số ngơn ngữ, cịn có một số cấu âm bổ sung làm thay đổi sắc thái các âm. Ðó là
các hiện tượng bật hơi, mơi hóa, ngạc hóa, yết hầu hóa, thanh hầu hóa, mũi hóa. Trong tiếng Việt,
các cấu âm bổ sung có vai trị quan trọng hơn cả là: hiện tượng bật hơi tức là kèm theo một lưu

lượng khơng khí lớn khi chỗ tắc được bật ra ( ví dụ: phụ âm th); hiện tượng thanh hầu hóa, tức là bổ
sung động tác tắc kèm theo sự nâng lên của thanh hầu; và yết hầu hóa- bổ sung động tác khép của
yết hầu. Hai hiện tượng sau góp phần hiện thực hóa một số phụ âm đầu và thanh điệu tiếng Việt.
          Các cấu âm bổ sung, cũng như các cấu âm khác, đều có thể được sử dụng để khu biệt các âm
tố, hay các hiện tượng âm thanh trong ngơn ngữ. Vì vậy, chúng có giá trị bình đẳng với nhau, xét về
mặt âm vị học.( Các âm bổ sung này tạo cho các âm tố có những kí hiệu phụ khác nhau trong từng


trường hợp cụ thể khi chúng được thể hiện trên mỗi âm tiết.)  Ví dụ : ngạc hóa , mơi hóa , ngắn, 
dài,....
          (Vẽ bảng phụ âm ) Tr 168, ÐTT . Tr 123- CSNN - NTG
                      Âm tố bán âm : Những âm tố có đặc tính giống ngun âm về cách phát âm , cách
thể hiệnkí hiệu, nhưng thường chỉ đi kèm, bản thân không tạo thành âm tiết được . Nói cách khác,
chúng có chức năng khác với chức năng của nguyên âm : Không tạo nên âm sắc chính của âm tiết,
khơng ở đỉnh âm tiết .

          b- Phân loại âm tố về mặt âm học :
          Sự phân loại các âm tố về mặt âm học đã được xây dưng trên tài liệu âm phổ . Các máy
phân tích âm phổ cho chúng ta các phổ hình , qua đó các âm tố thể hiện rõ các đặc trưng âm học :
cao độ, cường độ , trường độ...
          Khi phân loại âm tố theo tiêu chí này người ta nhận thấy rằng nhiều khi các nguyên âm hoặc
phụ âm phụ thuộc vào các yếu tố khác như: ồn >< không ồn, vang >< không vang , các yếu tố bổng
trầm ....và chúng ta có thể kể ra khá nhiều các chi tiết thuộc về các yếu tố âm học
          Bổng trầm: Những âm bổng có tần số lớn , cịn những âm trầm có tần số nhỏ. Âm bổng là các
nguyên âm hàng trước , phụ âm răng , các phụ âm lưỡi trước ( giữa). Âm trầm là các nguyên âm
hàng sau, các phụ âm môi và phụ âm lưỡi sau.
          Ngắt- không ngắt: Ðó là sự đối lập giữa có và khơng có sự chuyển tiếp đột ngột., giữa sự có
mặt và vắng mặt của âm thanh .các phụ âm xát thường có khởi âm từ từ . Ngược lại , các phụ âm tắc
thường có sự ngắt đột ngột sóng âm đi trước bằng một khoảng im lặng hoàn toàn . Các phụ âm tắc
( trừ nhóm mũi) là những âm ngắt. Cịn lại là những âm khơng ngắt.

Lỗng đặc : Các âm lỗng là những âm có độ nâng của lưỡi cao (những nguyên âm có
độ mở của miệng hẹp- hơi hẹp), những phụ âm răng phụ âm môi.( Trên phổ hình chúng có các
phc măng ở gần trung tâm của phổ hơn )  các âm đặc là những âm có độ nâng của lưỡi thấp
( những nguyên âm có độ mở miệng hơi rộng rộng ),các phụ âm lưỡi trước , lưỡi giữa, lưỡi sau.
( Trên phổ hình chúng có các phoóc măng ở xa trung tâm của phổ hơn )


          Trên đây là bảng phân loại theo âm học tương ứng với cách phân loại theo cấu âm.
          Hữu thanh Vơ thanh: Ðó là sự đối lập giữa có hay khơng có những dao động điều hồ ở vùng
tần số thấp, tương ứng với sự có hay khơng có sự dao động của dây thanh về mặt cấu âm.
          Căng lơi:  Những âm căng là những âm có độ dài lớn,năng lượng lớn và có thanh cộng hưởng
thể hiện rõ trên phổ hình.( Các phụ âm căng là những phụ âm mạnh, cịn những phụ âm khơng căng
là những phụ âm yếu. Còn ở nguyên âm:âm căng là những âm đặc , âm lới là những âm loãng).
          Gắt khơng gắt:
          Ðó là đối lập giữa cường độ lớn hay nhỏ của tiếng ồn. Trên phổ hình, các âm gắt có vùng
tối thay đổi sắc thái rõ rệt.
          Các phụ âm xát điển hình, các âm tắc- xát, bật hơi, phụ âm rung là những phụ âm gắt. Những
loại hìng âm cịn lại là những âm khơng gắt.
          Giáng Không giáng : Các âm giáng là những âm trầm hóa, ( có một số các phoóc măng
của chúng bị hạ thấp so với các âm không giáng ). Các ngun âm trịn mơi [ u [, [ ơ ], [ o ],... và các
phụ âm đứng trước chúng bị mơi hóa đều là những âm giáng .
          Thăng -khơng thăng: Ngược lại so với âm giáng , chúng là những âm bổng hóa. Các
nguyên âm hàng trước thường là các âm có một trong số các phoóc măng cao hơn các âm không
thăng tương ứng .( Ðiều này thể hiện rõ trong các tiếng nước ngoài như tiếng Nga)
          Mũi- miệng ( hay mũi- khơng mũi):
          Phổ hình của các âm mũi có mật độ phoóc- măng dày hơn so với các âm miệng tương ứng. Ở
các nguyên âm mũi giữa F1 và F2 xuất hiện thêm một phoóc- măng phụ, và đồng thời có sự giảm
cường độ của F1 và F2. Về mặt cấu âm, các âm mũi được tạo thành khi ngạc mềm hạ xuống.
          Trong tiếng Việt  có các âm mũi được thể hiện bằng các chữ cái: m, n, nh, ng.( Chúng chịu
ảnh hưởng trực tiếp của khoang mũi)

          Thanh hầu hóa khơng thanh hầu hóa:
          Các âm thanh hầu hóa đặc trưng bởi tốc độ biến đổi năng lượng lớn trong một khoảng thời
gian ngắn ( về mặt cấu âm đó là sự có mặt của sự xiết hay tắc khe thanh).

          Trong tiếng Việt, âm thanh hầu hóa có thể xuất hiệntrong các
âm tiết vắng các  thủy âm ( phụ âm đầu) trên chữ viết như  ăn,


uống, uể, oải,...  hoặc trước các phụ âm hữu thanh, đặc biệt là trước 
[ b ],[ đ], và [ l ].
          3- Ý nghĩa của sự phân loại âm tố về mặt cấu âm và âm học

TOP

* Nghiên cứu cấu âm để dạy và học ngoại ngữ , lồng tiếng cho phim từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ khác , ( làm cho âm thanh của lời dịch khớp với cấu âm của cấu âm của diễn viên đang nói
trên màn ảnh)...v.v.

·                    Nghiên cứu các âm trên phương diện âm học đã xác
định đặc điểm của âm tố một cách trực tiếp , không thông qua hoạt
động của bộ máy phát âm . Vì vậy chúng đã giúp người đọc có được
sự cảm nhận chính xác mặt âm thanh của mỗi một ngơn ngữ .
IV- ÂM VỊ
          1- Ðịnh nghĩa

TOP

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau .
Theo cuốn Ngữ âm học tiếng Việt hiện đại NXBGD 1972 ,nhóm tác giả Cù Ðình Tú  thì  âm
vị là đơn vị nhỏ nhất của ngữ âm có mang chức năng phân biệt nghĩa và nhận diện từ .

Theo cuốn ngữ âm tiếng Việt của ơng Ðồn Thiện Thuật thì âm vị là tổng thể các nét khu
biệt ,được xuất hiện đồng thời (được con người tri giác  theo trật tự trước sau) và có chức năng khu
biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị .
          Như vậy , ta có thể hình dung những định nghĩa trên đều được định nghĩa ở hai bình diện :
Bình diện chức năng khu biệt , tức thuộc về bình diện ngơn ngữ học, và bình diện thời gian , tức mặt
thể chất hay vật lí . Aâm vị , một là có thể định nghĩa như một đơn vị âm vị học : Có tác dụng khu
biệt , khơng thể phân tích thành những đơn vị nhỏ hơn kế tiếp nhau trong thời gian . Hai là được
định nghĩa như một tập hợp những nét khu biệt được thực hiện đồng thời .
          Hai đặc tính : Ðồng thời và kế tiếp được nói đến trong các định nghĩa nói trên khơng phải là
những thuộc tính khách quan có thể quan sát được trong tín hiệu ngơn ngữ , chúng ta có thể dựa vào
nó để phân giới giữa cấp độ âm vị với cấp độ nét khu biệt . Hoặc để phân biệt các âm vị đoạn tính
với các âm vị siêu đoạn tính.
          Theo Giáo sư Cao Xuân Hạo , thì những cách định nghĩa trên vẫn cịn có những chỗ chưa thoả
đáng : Có tính chất ấn tượng chủ nghĩa , có sự lầm lẫn về cách tri giác tính đồng thời, kế tiếp.. . và
theo ơng thì chỉ cần thay Một tập hợp những nét khu biệt được thực hiện đồng thời bằng cách cụ thể
hơn như Một tập hợp những nét khu biệt có tham gia thế đối lập về trật tự thời gian bên trong cái cái
đơn vị ở cấp cao hơn mà nó khu biệt.  Từ đó , theo giáo sư thì định nghĩa âm vị là Aâm vị là đơn vị
khu biệt âm thanh nhỏ nhất có tham gia vào thế đối lập âm vị học về trật tự thời gian , hoặc âm
vị là đơn vị âm vị học tuyến tính nhỏ nhất .


          Theo Ðinh Lê Thư và Nguyễn Văn Huệ Nguời ta thường định nghĩa : Aâm vị là đơn vị nhỏ
nhất của cơ cấu âm thanh ngôn ngữ , dùng để cấu tạo và phân biệt hình thức ngữ âm của những đơn
vị có nghĩa của ngơn ngữ từ và hình vị
          Ví dụ : các từ tơi và đơi, ta và đatrong tiếng Việt Phân biệt nhau bởi các âm vị / t /, / đ / . Như
vậy, nếu thay âm vị này bằng một âm vị khác trong cùng một âm tiết sẽ làm cho âm tiết đó thay đổi
về nghĩa hoặc mất nghĩa .
          Về chức năng của âm vị : Các âm vị trên nguyên tắc nhất định phải có sự khác nhau , ít nhất là
về một đặc trưng nào đó . Chính nhờ sự khác biệt này mà các âm vị có thể tạo ra sự khác biệt về
hình thức âm thanh của các hình vị và từ , tạo nên những tín hiệu khác biệt đối với sự cảm thụ của

con người . Chức năng khu biệt vỏ âm thanh của hình vị và từ , chức năng cấu tạo nên những
thành tố của đơn vị có nghĩa . ( Có những âm tiết có thể do nhiều âm vị cấu tạo nên , ví dụ
chuyện gồm 5 âm vị cấu thành. Nhưng cũng có những âm tiết chỉ gồm 2 âm vị cơ bản , ví dụ :  u mẹ
, y- hắn ta )

          Kí hiệu âm vị  :  Xác định chính xác các âm vị mang chức năng
khu biệt nghĩa , khi đó mới đặt chúng vào trong hai gạch đứng  . Ví
dụ  / K / , / b / ,...
          2- Biến thể của âm vị

TOP

          Mỗi một ngôn ngữ có số lượng hữu hạn các âm vị mang nghĩa , ì thế những âm vị này đã kết
hợp với nhau trong nhiều hồn cảnh và vị trí khác nhau . Khơng những thế các âm vị lại cịn được
thể hiện cụ thể hố trong những lời nói của các cá nhân ở các địa phương khác nhau. Chính vì vậy,
âm vị được thể hiện đa dạng dưới hình thức các biến thể .
          Chúng ta gọi tất cả những âm tố khác nhau cùng thể hiện một âm vị là là những biến thể của
âm vị đó .
          a- Sự phân bố âm vị và các biến thể của chúng :
                   * Phân bố tương đương ( hoàn toàn trùng nhau).
                   * Phân bố bổ sung .
                   * Phân bố tương đương bộ phận.
                             - Phân bố bao hàm.
                             - Phân bố giao nhau.
Ví dụ :
          AB      ;        A     B     ;      B   A   ;          A      B     ;
       kiểu 1              kiểu 2             kiểu 3a            kiểu 3b


          b- Các kiểu biến thể  :

                   * Biến thể tự do.
                   * Biến thể bắt buộc .
          Các biến thể bắt buộc được chia thành biến thể kết hợp và biến thể vị trí
          3- Các nét khu biệt âm vị và sự đối lập âm vị

TOP

          a- các nét khu biệt âm vị : Ðó là bao gồm hàng loạt các đặc trưng tồn tại đồng thời để tạo
thành một âm vị thống nhất. Trong số các đặc trưng ấy người ta phân biệt những đặc trưng cần yếu
để khu biệt các âm vị . Những đặc trưng cần yếu của âm vị được gọi là nét khu biệt .
          Ví dụ :  / d / : hữu thanh - đầu lưỡi / răng tắc .
                   / t /  :  Vô thanh -   đầu lưỡi / răng -  tắc .
                             Nét khu biệt giữa hai âm vị trên là :  hữu thanh và vô thanh .
          Như vậy : nét khu biệt được xác định trên cơ sở sự đối lập âm vị trên một ngôn ngữ cụ thể .
Nét khu biệt có thể xảy ra có lúc là hai yếu tố đối lập  nhau .
          b - Sự đối lập âm vị : Sự đối lập giữa hai âm vị tạo thành thế đối lập
                     Ví dụ : / v / và / f /  : có nét đối lập giữa hữu thanh và vơ thanh
          Có các loại thế đối lập như sau :
                   - Thế đối lập một tiêu chí .
                    - Thê đối lập nhiều tiêu chí .
                   - Thế đối lập loại hình .
                   - Thế đối lập đơn lập.

các âm âm vị tạo thành một hệ thống : Ðó là hệ thống các thế đối
lập âm vị .
          4- Phiên âm ngữ âm học

TOP

          Phiên âm ngữ âm học là hình thức cơ bản của việc phân tích các ngơn ngữ .Các nhà ngôn ngữ

học dựa trên sự phân đoạn của các kí hiệu ng6n ngữ trên một ngơn ngữ cụ thể , sự phiên âm này dựa
trên sự phân đoạn các âm vị học . Nó sử dụng một hệ thống chặt chẽ của các kí hiệu , thường là một
kí hiệu ghi một âm vị . Ví dụ : trong tiếng Anh pace được phiên âm như sau : /  peis /. Trong tiếng
Việt   nhà :  / na /


          Sự mở rộng của loại phiên âm này được gọi là phiên âm các
biến thể .
V. ÂM TIẾT
          1- Ðịnh nghĩa

TOP

Tiếng Việt là ngôn ngữ khác với các ngôn ngữ n u , nó là ngơn ngữ đơn tiết . Việc này có
thể thấy rất rõ qua một chuỗi phát âm của người việt . Chuỗi phát âm có thể được chia ra thành
những khúc đoạn nhỏ , lớn khác nhau. chính vì vậy khi định nghĩa âm tiết người ta thường định
nghĩa một cách đơn giản :
          Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất , đơn vị tự nhiên nhất trong lời nói của con người . Mỗi
âm tiết là một tiếng .
Ví dụ : Tiến lên tồn thắng ắt về ta. 
          Qua ví dụ trên chúng ta sẽ có 7 âm tiết khác nhau .

Ðiều đặc biệt trong tiếng Việt là âm tiết có thể trùng với từ khi từ đó
là từ đơn (bàn : một âm tiết và đồng thời cũng là một từ ), cũng có
khi âm tiết trùng với một âm vị ( ví dụ  u vừa là âm tiết vừa là âm
vị ).
          2 - Cấu tạo về cách phát âm của âm tiết tiếng Việt

TOP


          thuyết độ căng
          Mỗi âm tiết khi phát âm đều trải qua ba giai đoạn :
                   * Giai đoạn tăng độ căng
                   * Giai đoạn đỉnh điểm của độ căng
                   * Giai đoạn giảm độ căng và đi đến kết thúc .
          Theo cách phát âm này chúng ta có sơ đồ hình sin cho mỗi một âm tiết , và nhìn vào sơ đồ
hình sin chúng ta nhận thấy các âm tiết ln có độ dài bằng nhau.
          (Vẽ sơ đồ hình sin )
Trong tiếng Việt ( và các ngôn ngữ đơn lập khác ) âm tiết (hay tiếng hay chữ hay tiết vị ) đều
là đơn vị ngữ học trung tâmcủa hệ thống kí hiệu. Các âm tiết có thể là hình vị , từ, ( theo Nguyễn Tài
Cẩn- 1960, Nguyễn Thiện Giáp 1996) .
          Trên bình diện âm vị học , mỗi âm tiết tiếng Việt có cấu trúc hai bậc :


-  cấu trúc bậc thứ nhất gồm có : 1. Thanh điệu , một đơn vị siêu đoạn tính. Gồm có hai nét
khu biệt là âm vực ( cao / thấp hoặc phù / trầm) và âm điệu (bằng / trắc hoặc bình  / thướng ). 2.
Thanh mẫu ( hay thủy âm , hay phụ âm đầu ) . 3. Vận mẫu ( phần vần của âm tiết).
-         Cấu trúc bậc thứ hai  : Là những chùm nét khu biệt cấu tạo nên thanh mẫu và vận
mẫu .
Thanh mẫu gồm có một chùm nét khu biệt phụ âm tính ( phương thức phát âm và vị trí cấu
âm của mỗi phụ âm ). Còn một chùm khác là một cặp nét sóng đơi ngun âm tính ( trịn mơi mạc
hóa ) . Chùm thứ nhất bao giờ cũng đặt trước chùm thứ hai . Mặc dù trên thực tế của sự phát âm các
yếu tố có ảnh hưởng của trịn mơi- mạc hóa bao giờ cũng xuất hiện trước khi phát âm . Chính vì vậy,
có thể cụ thể hóa hai chùm nét khu biệt của thủy âm thành hai âm vị : Phụ âm đầu, và âm đệm ( tiền
chính âm) .
Như vậy theo cấu trúc hai bậc dạng trên , mơ hình âm tiết có vị trí âm đệm nằm về phía phần
thanh mẫu ( thủy âm) .

Vận mẫu ( hay vần ) cũng gồm có hai chùm nét khu biệt . Một
chùm nét nguyên âm tính gọi là chính âm, và một chùm nét phụ âm

tính hay bán phụ âm tính gọi chung là chung âm ( hay  âm cuối ).
Trong thực tế có những vần chỉ có chính âm và có những vần có cả
chính âm và chung âm . Nếu vần có chung âm nó được thể hiện như
một phụ âm tắc khép hay một bán phụ âm khép . Trong trường hợp
vần có cả chính âm và chng âm cịn có một chùm nét có tác dụng
khu biệt giữa các vần chặt với các vần lỏng . ( Lỏng là các vần có
chính âm dài và chung âm ngắn, còn chặt là các vần có chính âm
ngắn và chung âm dài) . Chung âm dài phát âm mạnh hơn chung
âm ngắn nhiều , vì nó bắt đầu ngay sát đỉnh âm tiết
          3- Ðặc điểm của âm tiết tiếng Việt

TOP

          Ðặc điểm cơ bản của âm tiết tiếng Việt là mỗi âm tiết là hình thức biểu đạt của một hình vị .
Ví dụ như từ sinh viên bao gồm hai hình vị có vỏ ngữ âm của các âm tiết sinh và viên .
          là vỏ ngữ âm của một hình vị hay một ừ đơn nên mỗi âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng tương
ứng với một ý nghĩa nhất định . Chính vì vậy ,việc phá vỡ hay xê dịch vị trí của các âm vị trong một
đơn vị âm tiết là điều khó ó thể xảy ra. Nói cách khác cấu trúc của âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc
chặt chẽ . Mỗi âm vị có một vị trí nhất định trong âm tiết . Dựa trên cơ sở trên phát biểu đặc điểm
âm tiết tiếng Việt như sau:
          Âm tiết tiếng Việt được chia thành ba phần : Phần phụ âm đầu , phần vần và thanh điệu ,
thanh điệu ln nằm trên tồn bộ âm tiết .
          Căn cứ vào đăïc điểm này người ta vẽ được mơ hình của âm tiết .
Chứng minh cho đặc điểm của âm tiết có các căn cứ :


          * Căn cứ vào từ láy
          * Căn cứ vào kiểu từ iêc hoặc iệc hoá
          * Căn cứ vào từ lái


          * Căn cứ vào vần của thơ ca
          4- các vị trí trong mơ hình âm tiết

TOP

          * Vị trí số 1: Âm đầu.
          * Vị trí số 2: Âm đệm.
          * Vị trí số 3: Âm chính .

          * Vị trí số 4: Âm cuối.
          5- Phân loại âm tiết tiếng Việt

TOP

          Có hai cơ sở dùng cho việc phân loại âm tiết tiếng Việt .
          a- Phân loại dựa vào vị trí số 1 và số 2 : Cách phân loại này cho ta các âm tiết từ nhẹ ---nặng :  
                      * Âm tiết nhẹ
                      * Âm tiết hơi nhẹ
                      * Âm tiết hơi nặng
                      * Âm tiết nặng .
          b- Phân loại dựa vào vị trí số 4 : cách phân loại này cho ta các âm tiết từ mở ------ khép :   
                           *  Âm tiết mở .
                          * Âm tiết hơi mở .
                          * Âm tiết hơi khép.

                          * Âm tiết khép.
          6- Sự biến hóa ngữ âm

TOP


          Trong khi nói con người luôn phát ra một chuỗi âm thanh liên tục , vì vậy chúng ln có sự
ảnh hưởng lẫn nhau . Ðặc biệt là những âm tố lân cận được nói trong cùng một âm tiết . Sự ảnh


hưởng lẫn nhau này gây ra hiện tượng biến hoá ngữ âm : sự thích nghi, đồng hóa, dị hóa , thêm âm ,
bớt âm,.... Một số hiện tượng biến hóa ngữ âm thường gặp trong tiếng Việt là :
                   * Sự thích nghi: Sự thích nghi xuất hiện giữa nguyên âm và phụ âm đứng cạnh nhau.
Nếu âm tố sau biến đổi cho giống âm tố  trước Ðó là sự thích nghi xi. Cịn nếu âm tố trước biến
đổi cho phù hợp với âm tố sau Ðó là sự thích nghi ngược .
Hiện tượng thích nghi thể hiện rõ rệt trong những vần có ngun âm dịng trước và dòng sau
kết hợp với các phụ âm / K /, / N / .
                   * Sự đồng hóa : Xuất hiện giữa các âm tố cùng loại ( nguyên âm với nguyên âm, phụ âm
với phụ âm , thanh điệu với thanh điệu )
          Ví dụ : vỏn vẹn -----   Vẻn vẹn
                   Muôn vạn ------ muôn vàn
                       * Sự dị hóa : Xuất hiện giữa những âm tố hay các hiện tượng âm thanh cùng loại ,
khi một yếu tố biến đổi cho khác với yếu tố kia .
          Ví dụ : Nhỏ nhỏ----- Nho nhỏ
                   Nhạt nhạt ---- Nhàn nhạt
                   * Sự bớt âm : Là hiện tượng rút gọn để phát âm dễ hơn . Thường xuất hiện trong khẩu
ngữ .
          Ví dụ : Ba mươi mốt ----- băm mốt

                   Phải không  ------ Phỏng
VI - HỆ THỐNG NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT
          1-  Hệ thống phụ âm đầu

TOP

          1.1-Ðặc trưng ngữ âm tổng quát của các âm đầu :

                   Các âm tiết tiếng Việt khi phát âm về mặt cấu âm bao giờ cũng mở đầu bằng một động
tác khép lại , dẫn đến chỗ cản trở khơng khí hồn tồn hoặc bộ phận . Ðó là cách phát âm của các
âm tiết như : bút , mai, .... Còn những âm tiết như Aên , uống …mặc dù trên chữ viết chúng ta nhìn
thấy phụ âm vắng mặt nhưng thực tế chúng cũng phải bắt đầu bằng một động tác khép kín khe thanh
, sau đó mở ra đột ngột gây nên một tiếng động . Thực chất động tác này cũng giống như : [ b , t , h ]
.
                   Sự khác nhau của hai cách bắt đầu âm tiết này chỉ là ở câu âm : một đằng khơng khí bị
cản trở ở một vị trí cụ thể nào đó , cịn một đằng khơng khí bị cản trở ở thanh hầu . Hiện tượng này
là hiện tượng tắc thanh hầu chung cho những âm tiết như : Am ,Oâi,...
          Như vậy phẩm chất ngữ âm chung của âm đầu là tính phụ âm .


          1.2- Các tiêu chí khu biệt phụ âm đầu :
          a-Tiêu chí phương thức phát âm
                   Về phương thức cấu âm : Gồm có các phương thức : Tắc , xát
                   Về thanh tính : Phụ âm ồn , phụ âm vang , vô thanh , hữu thanh,...
          b- Tiêu chí bộ vị câu âm :
                   Có các bộ vị câu âm dùng phân biệt các phụ âm đầu như: Môi , lưỡi, răng, mặt lưỡi ,
họng,...
                   ( Vẽ bảng phụ âm )
          c - Tiêu chí khu biệt bằng tính chất âm học :
Trầm --- bổng .
                   Gắt ---- không gắt .
          1.3-  Phụ âm đầu tiếng Việt :
                    * Số lượng :  ( Biến thể của các âm đầu )
                   * Chứùc năng :
                   * Ðiều kiện kết hợp :

                   * Sự thể hiện chính tả:
          2- Hệ thống âm đệm


TOP

     2.1- Các đặc trưng ngữ âm :
          Trong âm tiết tiếng Việt sự mở đầu khác nhau không chỉ căn cứ vào phụ âm đầu mà có thể
căn cứ vào hiện tượng trịn mơi ( hoặc mơi- ngạc mềm hóa ) . Ví dụ tồn và tàn , giữa hai âm tiết
này có động tác cấu âm khác nhau do âm tiết tốn có sự tham gia của một âm lướt   .Sự đối lập giữa
âm tiết toàn và tàn là sự đối lập giữa đặc trưng cấu âm trịn mơi và khơng trịn mơi .
          Những đặc trưng đó là nét khu biệt làm nên hiện thực của hai âm vị :  Một âm vị là bán
ngun âm mơi ( có hai tiêu điểm mơi- ngạc mềm) , Ghi bằng / - u - /, hay
/ - w- / ; một âm vị khác có nội dung tiêu cực , đó là âm vị / zero /
          Ví dụ: so sánh hai phát ngơn : Cụ ạ và quạ .
                                                      Qúa và của .


       2.2- Tính chất nước đơi của âm đệm :
          Âm đệm có vị trí khá đặc biệt trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt , đó là tính chất nước đơi của
nó ;
          Về vị trí : nó có thể nghiêng về phần vần , nhưng cũng có thể nghiêng về phấn phụ âm đầu .
          Về ngữ âm học : khi nghiên cứu mối quan hệ giữa âm đệm và âm cuối , Gordina nhận th\ấy:
Trong nhiều trường hợp , sự có mặt của yếu tố bán nguyên âm không kéo dài trường độ của cả tổ
hợp .trong khi những trường hợp khác thì trường độ lại tăng lên qúa rõ so với trường độ của ngyuên
âm không có /- u-/ .
          Chính vì tính chất nước đơi này mà có tác giả xem âm đệm là thuộc tính của âm đầu , có tác
giả xem âm đệm là thuộc tính của phần vần. Tuỳ theo cách giải quyết khác nhau ( những căn cứ
dùng để xác định ) mà người ta có những mơ hình âm tiết khác nhau .
          Âm đệm ln có mặt trong phương ngữ Bắc Bộ  nhưng lại vắng mặt trong phương ngữ Nam
Bộ  , vì thế cấu trúc âm tiết của một âm tiết trong phương ngữ Nam Bộ chỉ có : Phụ âm đầu- âm
chính âm cuối và thanh điệu . Sự vắng mặt âm đệm đã ảnh hưởng đến sự biến đổi âm đầu và âm
chính .

      2.3-  Âm đệm :
                   * Số lượng :
                   * Sự thể hiện chính tả :
                   * Ðiều kiện kết hợp:

                   * Chức năng :
          3- Hệ thống âm chính

TOP

     3.1- Tiêu chí khu biệt các âm vị nguyên âm :
          Trong âm tiết tiếng Việt bộ phận mang âm sắc chủ yếu của âm tiết là nguyên âm . Nguyên âm
trong âm tiết có thể là ngun âm đơn hay ngun âm đơi , Chính vì vậy đỉnh của âm tiết bao giờ
cũng  xảy ra ở nguyên âm . Trong tiếng Anh : một từ table có hai âm tiết , âm tiết thứ hai chỉ gồm
hai phụ âm / bl / nghĩa là / l / có thể là đỉnh của âm tiết , trong tiếng Việt điều này không bao giờ xảy
ra . Vì thế khi nói về các tiêu chí khu biệt nguyên âm người ta có thể có các tiêu chí sau :
          a- Tiêu chí khu biệt phẩm chất :
          Trong hai âm tiết sau bán và bún , các nguyên âm / a/ và /u / đối lập nhau ở chỗ / u / có âm sắc
trầm và âm lượng nhỏ cịn /a/ có âm sắc trung hịa và âm lượng lớn . Ðó là sự đối lập về phẩm chất .
Trong khi đó hai âm tiết bán và bắn sự đối lập giữa / a / và / ă / laị không phải ở âm sắc và âm lượng
( vì cả hai cùng có âm sắc và âm lượng như nhau ) mà khác nhau chính là ở độ dài các nguyên âm
( tức là âm lượng độ vang ).


           * Về tiêu chí âm sắc ( tức bổng/ trầm ):
                    - Ðặc trưng bổng / trầm .
                             Loại bổng : Gồm các nguyên âm hàng trước .
                             Loại trầm vừa : Gồm các nguyên hàng sau không trịn mơi
                             Loại trầm : Gồm các ngun âm hàng sau trịn mơi.
                     - Tính cố định và khơng cố định của âm sắc .

Những nguyên âm có âm sắc cố định thường là các nguyên âm đơn dài . Những ngun âm
có âm sắc khơng cố định : là những ngun âm đơi 
·       Về tiêu chí âm lượng : Tức là tiêu chí tương liên về độ mở , xét về cấu âm
Chúng ta có các nguyên âm đối lập nhau theo hai bậc âm lượng lớn nhỏ . Như vậy toàn bộ
các nguyên âm chia ra thành các âm lượng :
                   Âm lượng cực lớn : e, a ( khi có ch và nh) , a, ă, o, ô.
                   Âm lượng lớn vừa : e, ơ, â, o.
                   Âm lượng nhỏ vừa : iê, ươ, uô.
                   Âm lượng nhỏ : i  , ư, u.
          Nếu chia các âm vị thành hai nhóm : nguyên âm đơn và nguyên âm đơi thì các ngun âm đơn
bao giờ cũng thuộc về các âm lượng : cực lớn , lớn vừa và nhỏ. Cịn ngun âm đơi khơng có thế đối
lập về âm lượng .
          b- Tiêu chí khu biệt về lượng .
          Ðây là tiêu chí khu biệt về trường độ thế đối lập này chỉ xảy ra ở các nguyên âm đơn . Trong
tiếng Việt có 4 âm vị nguyên âm ngắn đối lập với 4 âm vị nguyên âm dài.        
3.2- Âm chính :
                   * Số lượng :
                   * Ðiều kiện kết hợp .
                   * Chức năng .
                   * Sự thể hiện chính tả và cách ghi kí hiệu .
          3.3- Sự thể hiện nguyên âm trong các tiếng địa phương .



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×