Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Cuoc doi va so menh 23 mau nguoi menh tuan than triet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.1 KB, 5 trang )

Cuộc đời và số mệnh - 23
Bài từ dự án mở KHHB: Mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt
Trong 118 vì sao của khoa Tử Vi có hai sao được xem là đặc biệt nhất. Đó là sao Tuần và
Triệt. Tuần Triệt (TT) an theo năm sinh và hàng can của năm sinh, và đặc biệt là vị trí
của Tuần Triệt nằm giữa ranh giới của hai cung chứ không tọa thủ trong một cung nào
như các sao khác. Điểm đặc biệt thứ hai là vị trí đắc hãm và hành của chúng. Đây cũng là
một vấn đề tranh cãi rất nhiều. Có người cho rằng Tuần thuộc hành hỏa và Triệt hành
kim. Cũng có người cho rằng Tuần và Triệt đều hành thủy. Một số khác lại cho rằng
Tuần và Triệt khơng có hành cố định, đóng ở cung nào thì mang hành của cung đó. Như
vậy, lập luận này sẽ đưa đến kết qủa là Tuần Triệt có lúc chỉ có một hành trong trường
hợp chúng đóng giữa hai cung Thân và Dậu đều thuộc hành kim. Nhưng giả sử Tuần
Triệt đóng giữa hai cung Ngọ và Mùi thì thì Tuần Triệt phải mang hai hành Hỏa của cung
Ngọ và Thổ của cung Mùi. Xét cho cùng, điều này xem ra khơng hợp lý lắm. Khi nói về
ngũ hành, ví dụ như nói về hành của một hướng, như Đơng Nam thì chúng ta nói là Mộc
đới Hỏa, hoặc hành của Phượng Các là Mộc đới Thổ chứ không thấy ai nói vừa mang
hành Mộc và mang hành Thổ. Chữ “đới” ở đây có nghĩa là “nghiêng về” hay “thiên về”
Trong cuốn tử vi Ảo Bí của Việt Viêm Tử, tác giả cho rằng Triệt có hành Kim đới Thủy
và Tuần có hành Hỏa đới Mộc. Về những vị trí đắc hãm của Tuần Triệt thì cũng có người
cho rằng TT chỉ đắc địa ở Tỵ Ngọ và Thân Dậu, cịn những vị trí khác đều hãm địa.
Nhưng điều này cũng khơng hợp lý vì chúng ta biết Triệt khơng đóng ở Tỵ Ngọ.
Và cũng theo quan điểm này thì nếu TT đắc địa sẽ khơng tác hại, cịn nếu hãm địa thì sẽ
tác hại. Đây là điều khơng hợp lý thứ hai. Sau khi nói đến ý nghĩa của hai sao TT dưới
đây, chúng ta sẽ thấy bản chất của TT là như thế nào. Tóm lại, người viết đồng ý với
quan điểm của Thái Thứ Lang, tác giả của cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, “hai sao Tuần
Triệt khơng có những vị trí đắc địa hay hãm địa và cũng không thuộc một hành nào trong
ngũ hành.” Đầu tiên chúng ta thấy rằng, chỉ với cái tên của hai sao này cũng đã nói lên rất
nhiều ý nghĩa. Tuần có nghĩa là tuần tiểu, tuần phịng, canh giữ, vây hãm. Triệt là chặc
đứt, phá tan, tiêu tán, làm mất hết. Từ đó, hai sao TT vừa đóng vai trị vừa chính vừa tà,
vừa thiện vừa ác đối với các sao trong cung mà chúng trấn đóng. Khi nói đến ảnh hưởng
của TT, có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng TT làm đảo ngược ý nghĩa tốt xấu của tất cả những sao


trong hai cung mà chúng đóng. Ví dụ: một sao đắc địa gặp TT thì những đặc tính tốt đẹp
của sao này bị mất đi và trở nên hãm. Ngược lại nếu sao hãm địa gặp TT thì lại trở nên
tốt đẹp giống như đắc địa. Như vậy thì uy lực của TT qúa lớn vì TT khơng phải chỉ ảnh
hưởng lên 1 sao mà chúng ảnh hưởng lên tất cả các sao mà chúng trấn đóng. Quan điểm
đảo ngược này chúng ta thấy trong một vài trường hợp đặc biệt. Ví dụ: Liêm Tham ở Tỵ,
Hợi rất xấu, nhưng nếu gặp TT thì trở nên tốt đẹp, và được gọi là phản vi kỳ cách, đổi
xấu thành tốt. Quan điểm thứ hai thì cho rằng TT khơng hề đảo ngược ý nghĩa của các
sao trong vòng ảnh hưởng của chúng, mà chỉ giảm bớt những đặc tính tốt xấu của các
sao. Theo thiển ý của người viết, quan điểm này xem ra có phần hợp lý hơn. Tỉ lệ chiết
giảm của Triệt tuy rất cao nhưng cũng chưa đếm mức độ 100% để có thể thay đổi hẳn


bản chất của một sao nào đó. Hơn nữa, cũng có trường hợp những sao đắc địa mà gặp TT
thì lại càng tốt hơn chứ không hề bị đảo ngược, như trường hợp Cự Cơ ở hai cung Tí Ngọ
(Thạch Trung Ẩn Ngọc) là ngọc còn ẩn trong đá, nếu gặp TT phá vỡ cho ngọc lộ ra bên
ngồi thì càng đúng cách.
Khi nói về mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt hay Mệnh Triệt Thân Tuần, Thái Thứ Lang
đã gián tiếp xác định mức độ ảnh hưởng của TT nói chung. Theo Thái Thứ Lang, người
Mệnh Tuần Thân Triệt cần có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa thứ mệnh thì cuộc đời về
già mới được xứng ý toại lòng. Như vậy chúng ta có thể ghi nhận một điều, đối với Tuần,
thà có chính tinh đắc địa để chấp nhận mức độ tốt bị giảm bớt còn hơn là gặp chính tinh
hãm địa rồi trơng chờ Tuần làm cho tốt đẹp. Đối với người Mệnh Triệt Thân Tuần thì
Thái Thứ Lang cho rằng, Mệnh cần phải Vơ Chính Diệu thì lúc về già mới được xứng ý
toại lòng. Như vậy chúng ta thấy rằng, ảnh hưởng của của Tirệt mạnh mẽ hơn Tuần
nhiều, cho nên cung Mệnh thà khơng có chính tinh vẫn cịn tốt hơn có chính tinh, dù đắc
hay hãm địa. Trên thực tế chúng ta thấy hai sao TT khơng có uy lực để thay trắng đổi đen
một cách hồn tồn, chẳng hạn, một người có Thái Dương đắc địa thủ Mệnh gặp TT thì
bản tính của người này khơng thể trở thành giống bản tính của người có Địa Kiếp thủ
Mệnh được. Nói một cách khác, TT chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trên lãnh vực công danh, sự
nghiệp của đương số chứ không triệt tiêu được bản chất lương thiện của một Thái Dương

vốn đã đắc địa. Ngoài ra, ảnh hưởng của TT ở mức độ nào còn tùy thuộc vào ý nghĩa của
mỗi sao, hay ý nghĩa của một cách do nhiều sao hợp lại, chứ khơng hồn tồn giống
nhau.
Chẳng hạn như sao Thiên Hình, Thiên Mã, Thiên Tướng, Tướng Quân…dù đắc hay hãm
cũng tối kỵ TT hơn các sao khác bởi vì kiếm gãy, ngựa q, tướng mất đầu…thì tất nhiên
là vơ dụng. Tương tự, Thất Sát ở Dần thân là người anh hùng một mình một kiếm, nhất
hơ bá ứng, nhưng gặp Triệt lại trở thành anh hùng gãy kiếm. Tuy vậy, cũng có những
trường hợp đặc biệt, ví dụ như hai sao Cự Cơ ở Tí Ngọ như chúng ta đã nói ở trên. Vì ý
nghĩa của cách Thạch Trung Ẩn Ngọc cho nên TT lại rất cần thiết. Chúng ta vừa nói đến
ảnh hưởng của TT trên các sao, cịn ảnh hưởng của TT trên các cung thì như thế nào? Có
phải sự ảnh hưởng của TT trên hai cung mà chúng trấn đóng đều như nhau? Điều này
chúng ta cũng có hai quan điểm: 1. Ảnh hưởng của TT trên mỗi cung nặng hay nhẹ còn
tùy thuộc đương số là Dương Nam, Âm Nữ hay là Âm Nam, Dương Nữ. Nói một cách
khác là theo chiều của vịng đại hạn của mỗi lá số. Ví dụ: Lá số có vịng đại hạn đi theo
chiều thuận, có nghĩa là từ cung Mệnh rồi qua Phụ Mẫu, Phúc Đức v.v… Và nếu Triệt
đóng giữa cung Mệnh và cung Huynh Đệ, như vậy chúng ta nói là Triệt chặn đầu cung
Huynh Đệ và vuốt đi cung Mệnh. Khi nói Triệt chặn đầu một cung nào thì ảnh hưởng
của Triệt ở cung đó sẽ mạnh hơn đối với cung mà Triệt vuốt đuôi, và tỉ lệ ảnh hưởng
được xác định cũng theo nguyên tắc Âm Dương:
Dương hành tam thất (3/7) Âm quy nhị bát )2/ Như vậy, nếu theo chiều thuận của vòng
đại hạn thì cung nào bị TT chận đầu sẽ chịu ảnh hưởng 7 phần, nếu đi ngược sẽ chịu ảnh
hưởng 8 phần và tương tự các cung xung chiếu hay tam hợp chiếu với các cung có TT
đóng cũng chịu ảnh hưởng nặng nhẹ theo nguyên tắc này. 2. Ảnh hưởng của TT phân
phối đều trên hai cung mà chúng trấn đóng chứ khơng có cung nào nặng hơn cung nào
như ý nghĩa của quan điểm thứ nhất. Người viết đồng ý với quan điểm thứ hai vì chúng ta


thấy rằng ảnh hưởng của TT chỉ khác nhau trên các cung có chính tinh mà thơi. Thường
những cung có chính tinh khơng nên gặp TT. Trái lại, những cung nào VCD thì lại rất
cần có TT . Trong trường hợp này TT đóng vai trị của một người giám hộ để bảo vệ cho

một gia đình khơng có gia chủ. Từ đó, chúng ta rút ra một hệ luận là ảnh hưởng của TT
đối với chính tinh có tầm quan trọng hơn đối với các phụ tinh. Ngoài ra, TT đơi lúc cịn
đóng hai vai trị khác nhau, một thiện, một ác. Chẳng hạn nếu ba cung tam hợp, gọi là
tam phương, bị nhiều sát tinh thủ hay hợp chiếu mà được Triệt đóng thì mọi sự hung
hiểm cũng giảm đi rất nhiều.
Ngược lại, bốn cung Mệnh, tài Quan, Di, gọi là Tứ Chính, dù có đắc cách tới đâu nhưng
đã gặp Tuần thì cũng xem như bị phá hết: “Tam phương vô sát hạnh nhất Triệt nhi khả
bằng. Tứ chính giao phù kỵ, nhất khơng chi trực phá.” Và trên đây chúng ta mới nói đến
vùng ảnh hưởng của TT, còn thời gian ảnh hưởng của hai sao này thì như thế nào?
Thường có người cho rằng Triệt ảnh hưởng 30 năm đầu của cuộc đời, Tuần ảnh hưởng 30
năm sau của cuộc đời. Theo thiển ý của cá nhân, Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong
khoảng tiền vận, rồi từ yếu dần ở trung vận và hậu vận. Ảnh hưởng của Tuần thì khơng
có khoảng thời gian nào mạnh hay yếu, cứ ở mức trung bình, đều đặn và bền bỉ từ tiền
vận cho đến hậu vận. Trường hợp cung Mệnh có Triệt thì ảnh hưởng của Triệt sẽ như thế
nào? Cung Mệnh cũng như các cung khác thơng thường có đủ sao xấu và tốt xen lẫn
nhau. Có sao đắc địa, có sao hãm địa. Đối với những sao tốt đắc địa thủ Mệnh, đương số
sẽ gặp sự bất lợi vì Triệt sẽ làm giảm bớt những ý nghĩa tốt đẹp của các sao này. Sự bất
lợi sẽ xảy ra trong thời ky tiền vận của đương số, và sau đó, khi uy lực của Triệt yếu dần
thì sự tốt đẹp của các sao tốt sẽ được phục hồi ở một mức độ nào đó mà thôi chứ không
thể nào được 100% như trường hợp không bị Triệt.
Ngược lại, trong khoảng tiền vận thì đương số lại được một lợi điểm là, giả sử, nếu có
những hung tinh hay sát tinh thủ mệnh, thì nhờ ảnh hưởng của Triệt mà đương số tránh
được phần nào những điều không tốt do các hung sát tinh gây nên. Nhưng từ trung vận
trở lên, khi Triệt yếu dần, không cịn đủ uy lực để trói buộc hung sát tinh nữa, và sự tốt
xấu lúc đó chỉ cịn tùy thuộc vào công lực của các sao tốt và sao xấu, bên nào mạnh thì
chế ngự được bên đó. Nói chung, Triệt đóng tại Mệnh thì tiền vận (từ lúc sinh ra cho đến
32 tuổi đối với người Thủy Nhị Cục, 33 với Mộc Tam Cục, 34 với Kim tứ Cục, …)
Thường bị lao đao lận đận và dễ gặp hoàn cảnh mồ cơi sớm (trường hợp Triệt đóng giữa
hai cung Mệnh và Phụ Mẫu ) Trường hợp Triệt đóng tại cung Thân thì ảnh hưởng của
Triệt khơng có gì đáng kể vì uy lực của Triệt mất dần trong khoảng trung vận và hậu vận,

có thể xem Triệt như một áng mây, gây rắc rối trở ngại cho đương số những lúc khởi sự
một việc gì mới mà thơi. Trường hợp cung Mệnh có Tuần đóng thì tất cả những gì tốt đẹp
do các sao tốt mang đến, cũng như những hung họa do hung sát tinh gây ra cho đương số
đều giảm xuống ở mức trung bình, và muốn biết cuộc đời của đương số thế nào trong
khoảng tiền vận thì chúng ta phải đặt cả tốt và xấu lên bàn cân.
Thường người ta cho rằng Mệnh ứng với tiền vận, nhưng thật ra Mệnh vẫn là cái gốc của
đời người, cho nên sau tiền vận, Mệnh vẫn còn ảnh hưởng ở mức độ nhẹ. Như vậy, khi
Tuần đóng ở Mệnh, thì sau khoảng thời gian của tiền vận những mức độ tốt hay xấu của
cung Mệnh do Tuần chi phối vẫn cịn âm hưởng. Nếu Tuần đóng tại cung Thân thì vấn đề
tốt hay xấu cũng tương tự như trên. Nếu có khắc thì trong trường hợp này là Tuần chỉ chi


phối trong khoảng thời gian trung vận và hậu vận mà thơi. Nếu cả Tuần và Triệt cùng
đóng ở cung Mệnh hay cung Thân thì thế nào? Điều này cũng có hai ý kiến khác nhau. 1.
Một số cho rằng khi TT gặp nhau thì sẽ tự hố giải cho nhau và hai cung đó xem như
khơng có mặt của TT nữa. Điều này xét ra không hợp lý lắm bởi vì khoa Tử vi khơng có
những sao nào cùng nhóm lại triệt tiêu nhau. Những sao cùng nhóm ln hỗ trợ cho nhau,
tốt thì tốt thêm, xấu thì xấu hơn. Chẳng hạn như Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc, hay hủy
hại nặng nề khi Không Kiếp gặp thêm Hỏa Linh. Chỉ có những sao khác nhóm mới khắc
chế nhau như Thiên Hình khắc chế và làm giảm đi sự lẳng lơ của Đào Hoa. 2. Mệnh có
cả TT như một nhà tù có hai ơng cai ngục. Ơng chính là Triệt, ông phụ là Tuần. Hết
khoảng thời gian của tiền vận khi Triệt về hưu thì cũng cịn ơng Tuần cai quản, chứ
không hề nhà giam được bỏ ngỏ. Sau hết, trường hợp chúng ta muốn nói ở đây là những
lá số có Tuần đóng ở Mệnh và Triệt đóng ở Thân mà chúng ta thường nghe là mẫu người
Mệnh Tuần Thân Triệt, hay trường hợp Mệnh Triệt Thân Tuần, thì cuộc dời của hai mẫu
người này như thế nào? Để có câu trả lời, cách tốt nhất là chúng ta để lên bàn cân từng
phần một rồi cộng trừ các số thành với nhau để có đáp số cuối cùng. Mệnh có Tuần đóng,
nếu Mệnh tốt thì mức độ chiết giảm do Tuần gây ra tương đối nhẹ nhàng, cịn nếu cung
Mệnh xấu, thì sự cứu vãn của Tuần cũng không được bao nhiêu. Những hung sát tinh
cũng như những đúa con phá gia chi tử trong một gia đình bất hạnh. Họa chăng chỉ có

người cha là triệt còn đủ uy lực để chế ngự, chứ còn mẹ Tuần thì khơng đủ sức.
Qua trung vận và hậu vận thì ứng vào cung Thân. Nếu cung Thân tốt mà có Triệt đóng thì
cũng khơng gây ảnh hưởng gì đáng kể, có chăng chỉ là những trở ngại gây rắc rối lúc ban
đầu mà thôi. Trường hợp nếu cung Thân xấu thì Triệt ở đây cũng như người nộm dùng để
dọa chim chứ khơng có năng lực gì đáng kể. Như vậy, nếu người Mệnh Tuần Thân Triệt
mà có cung Thân tốt đẹp thì về già cuộc đời cũng đạt được nhiều mãn nguyện. Trường
hợp đối với những người Mệnh Triệt Thân Tuần thì cũng tương tự. Mức độ tốt xấu của
cung Mệnh sẽ bị chiết giảm nhiều hơn, và sự ảnh hưởng này chỉ xảy ra trong khoảng tiền
vận mà thơi. Rồi từ đó cho đến hết cuộc đời, ảnh hưởng của sự tốt xấu trên cung Thân chỉ
ở mức độ ơn hồ. Như vậy đối với mẫu người Mệnh Triệt Thân Tuần thì thời gian thử
thách nhất là thời thanh xuân, sau đó, nếu cung Thân tốt đẹp thì cuộc đời tương đối cũng
được bình ổn. Tuy nhiên, người Mệnh Tuần Thân Triệt, hay Mệnh Triệt Thân Tuần cũng
có những trường hợp đặc biệt như, nếu cung Mệnh hay cung Thân VCD mà có Tuần hay
Triệt đóng thì tốt hơn là khơng có TT. Hoặc là cung Mệnh vừa có cả Tuần lẫn Triệt vừa
thêm hai sao Thiên Khơng và Địa Khơng, tùy theo có bao nhiêu sao KHƠNG, chúng ta
gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị khơng, tam không hay tứ không, đều là những cách hoạch
phát.
Hoặc là nếu TT đóng tại Mệnh hay Thân mà hai cung này VCD lại được Nhật Nguyệt
hợp chiếu thì cũng rất tốt đẹp. Tóm lại, TT là hai sao đặc biệt nhất trong 118 sao của
khoa Tử Vi, và cũng đã trở thành đề tài tranh luận rất nhiều. Nhưng tốt nhất là tùy theo
kinh nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự chọn cho mình một quan điểm riêng. Dù sao, khi
nói đến TT, chúng ta đều thấy ảnh hưởng tốt xấu của hai sao này trên một lá số nào đó
khơng phải là điều đơn giản. Giống như một người bị bệnh phải uống thuốc, như người bị
chứng đau nhức phải uống thuốc giảm đau. Nhưng khi uống thuốc giảm đau nhiều thì lại
sinh ra chứng đau bao tử, uống thuốc chữa bệnh đau bao tử nhiều thì lại sinh ra chứng bất


lực.. Ảnh hưởng của TT cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này thì phá bên kia, và có lẽ
cái thâm sâu của khoa Tử Vi là ở chổ đó. (Cịn tiếp)
Nguyễn Phúc Vĩnh Tung




×