i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Nguồn gốc và phân loại của cây lạc 4
1.2. Giá trị của cây lạc trong hệ thống trồng trọt 5
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu kỹ thuật trồng lạc trên thế giới 6
1.3.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới 6
1.3.2. Một số yếu tố hạn chế chính đến sản xuất lạc trên thế giới 7
1.3.3. Một số kết quả nghiên cứu về kỹ thuật trồng lạc trên thế giới 10
1.4. Tình hình sản xuất và nghiên cứu kỹ thuật trồng lạc ở Việt Nam 12
1.4.1. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam 12
1.4.2. Một số yếu tố hạn chế chính đến sản xuất lạc ở Việt Nam 14
1.4.3. Một số kết quả nghiên cứu về kỹ thuật trồng lạc ở Việt nam 16
1.4.4. Tình hình nghiên cứu phát triển lạc thu đông ở một số tỉnh phía Bắc
Việt Nam 19
1.5. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lạc ở Bắc Giang 21
1.5.1. Tình hình sản xuất lạc ở Bắc Giang 21
1.5.2. Tình hình nghiên cứu về giống, kỹ thuật canh tác lạc ở Bắc Giang 23
1.5.3. Một số yếu tố hạn chế sản xuất lạc ở Bắc Giang 25
1.5.4. Một số yếu tố thuận lợi để phát triển lạc vụ đông ở Bắc Giang 26
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.1. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu 28
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
2.3. Phương pháp nghiên cứu 29
ii
2.3.1. Thí nghiệm về thời vụ trồng lạc đông 29
2.3.2. Thí nghiệm về mật độ trồng lạc đông 30
2.3.3. Thí nghiệm về phương pháp bón phân đạm và lân cho lạc vụ đông 31
2.4. Các chỉ tiêu theo dõi 33
2.4.1. Các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển 33
2.4.2. Các chỉ tiêu cấu thành năng suất và năng suất 33
2.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nhiễm bệnh 34
2.5. Nội dung và phương pháp điều tra, khảo sát tình hình sản xuất lạc, ngô,
khoai tây vụ đông tại Bắc Giang 35
2.5.1. Nội dung điều tra, khảo sát 35
2.5.2. Phương pháp điều tra, khảo sát 36
2.6. Phương pháp xử lý số liệu 36
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 37
3.1. Điều kiện đất thí nghiệm 37
3.2. Đặc điểm khí hậu vùng nghiên cứu 38
3.3. Kết quả nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trong sản xuất lạc vụ đông 40
3.3.1. Ảnh hưởng của thời vụ trồng tới sinh trưởng, phát triển ở lạc đông 40
3.3.2. Ảnh hưởng của mật độ trồng tới sinh trưởng, phát triển ở lạc vụ đông . 48
3.3.3. Ảnh hưởng của phương pháp bón đạm, lân tới sinh trưởng, phát triển
ở lạc vụ đông 52
3.4. Kết quả điều tra kỹ thuật sản xuất lạc đông ở Bắc Giang 56
3.5. Quy trình trồng lạc đông trên đất lúa tại Bắc Giang 59
3.6. Hiệu quả kinh tế của cây lạc đông 61
3.7. Kết quả khảo sát hiệu quả sản xuất ngô, khoai tây đông 63
3.7.1. Hiệu quả kinh tế của cây ngô đông 63
3.7.2. Hiệu quả kinh tế của cây khoai tây 64
3.8. So sánh hiệu quả kinh tế giữa lạc đông với ngô, khoai tây đông 65
iii
Chƣơng 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 67
4.1. Kết luận 67
4.1.1. Về thời vụ trồng lạc đông tại Bắc Giang 67
4.1.2. Về mật độ trồng lạc vụ đông 67
4.1.3. Về cách bón đạm và lân cho lạc đông 67
4.1.4. Về hiệu quả kinh tế của lạc đông so với cây ngô, khoai tây đông 68
4.2. Đề nghị 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất, sản lượng lạc tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2000 - 2009 22
Bảng 2.1 Thang điểm đánh giá mức độ nhiễm bệnh đốm lá ở lạc (ICRISAT 1990) 35
Bảng 3.1. Kết quả phân tích đất khu vực nghiên cứu 38
Bảng 3.2. Nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, lượng bốc hơi và số giờ nắng trung
bình tại Bắc Giang năm 2009 - 2010 39
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến thời gian sinh trưởng củ a lạc đông 40
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến một số đặc điểm sinh trưởng của
lạc đông 42
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến mức độ nhiễm bệnh của lạc đông 44
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến các yếu tố cấu thành năng suất
của lạc đông 46
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của thời vụ trồng đến năng suất của lạc đông 48
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của mậ t độ trồng đến một số chỉ tiêu sin h trưởng của
lạc vụ đông 49
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của mậ t độ trồng đến một số yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất lạc vụ đông 51
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của cách bón đạm, lân đến một số chỉ tiêu sinh trưởng
của lạc vụ đông 53
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của cách bón đạm, lân đến năng suất và yếu tố cấu
thành năng suất của lạc vụ đông 55
Bảng 3.12: Kết quả khảo sát về năng suất, thu chi cho 1 ha lạc đông tại Bắc
Giang năm 2010 59
Bảng 3.13: Hạch toán kinh tế cho 1 ha lạc vụ đông 62
Bảng 3.14: Hạch toán kinh tế cho 1 ha ngô đông 63
Bảng 3.15: Hạch toán kinh tế cho 1 ha khoai tây đông 65
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VKHKTNNV
N
Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam
NN& PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
CPNL
Che phủ ni long
TGST
Thời gian sinh trưởng
N
Tổng số phiếu điều tra hộ nông dân
Kg N
Ki lô gam Đạm nguyên chất (Ni tơ)
Kg P
2
O
5
Ki lô gam Lân nguyên chất (Phốt pho)
Kg K
2
O
Ki lô gam Ka li nguyên chất
NSTT
Năng suất thực thu
NSLT
Năng suất lý thuyết
SVH
Sinh vật học
FAO
Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hiệp quốc
USDA
Cục nông nghiệp quốc gia Mỹ
ICRISAT
Viện Quốc tế Nghiên cứu cây trồng vùng Nhiệt đới
Bán khô hạn
P/C
Phân chuồng
KL
Khối lượng
CS
Cộng sự
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạc là một trong những cây lấy dầu quan trọng nhất trên thế giới. Ở
Việt Nam, cây lạc đứng đầu trong số các cây công nghiệp ngắn ngày, có
lượng sản phẩm hàng hóa lớn, vừa để tiêu dùng tươi, vừa làm nguyên liệu chế
biến và xuất khẩu. Ngày nay, cây lạc đã và đang đem lại nguồn lợi kinh tế lớn
cho đất nước. Ở nhiều vùng sản xuất, lạc còn là nguồn thu nhập chính cho các
hộ nông dân. Tỉnh Bắc Giang đề ra chương trình phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hóa gắn với xây dựng Nông thôn mới, trong đó xác định cần đẩy
mạnh sản xuất lạc hàng hóa. Mặt khác, cây lạc đóng vai trò rất quan trọng
trong hệ thống nông nghiệp ở vùng nhiệt đới bán khô hạn, nơi khí hậu biến
động và canh tác đặc biệt khó khăn. Trong những năm gần đây cây lạc đã
được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về kỹ thuật thâm canh lạc. Nhưng năng suất lạc ở Việt Nam vẫn còn thấp
so với một số nước trên thế giới.
Lạc là cây nhiệt đới, ở Miền Bắc nước ta lạc chủ yếu được trồng ở vụ
xuân và thu hoạch vào mùa hè. Ở vụ này, lạc sinh trưởng thuận lợi và cho
năng suất, chất lượng tốt nhất. Tuy nhiên, do hàm lượng dầu trong hạt lạc rất
cao, nên sức nảy mầm thường giảm nhanh. Do đó, người nông dân thường
phải trồng vụ lạc thu để lấy giống trồng ở vụ xuân năm sau. Vụ thu là vụ mưa
nhiều và nhiệt độ cao nên lạc phát triển thân lá mạnh, ít quả và hạt lửng, năng
suất thấp. Mặt khác, quỹ đất trồng lạc thu rất hạn chế, sản lượng lạc thu ở Miền
Bắc thấp, không đáp ứng đủ nhu cầu lạc giống trồng ở vụ xuân tiếp theo.
Ở Bắc Giang hiện có một số nơi gieo cấy vụ lúa mùa cực sớm, mùa
sớm thu hoạch từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 10 sau đó chuyển sang trồng
cây vụ đông thường là ngô, khoai lang và rau thực phẩm. Một số vùng nông
2
dân đã thử nghiệm sản xuất lạc đông thành công và đang từng bước mở rộng
diện tích vừa để đáp ứng nhu cầu về lạc thực phẩm ở vụ đông vừa làm giống
cho vụ sau. Việc trồng lạc đông đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người
nông dân, đồng thời còn cải tạo đất, tăng năng suất cây trồng vụ sau. Huyện
Tân Yên, tỉnh Bắc Giang hiện là nơi cung cấp lạc giống phục vụ cho sản xuất
lạc xuân ở nhiều tỉnh đồng bằng Sông Hồng và Bắc Trung bộ, và cung cấp lạc
tươi làm thực phẩm cho một số đô thị
Ở Bắc Giang, lạc đông tuy được trồng cách đây hai chục năm nhưng
chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và tổng kết thành quy
trình kỹ thuật hoàn chỉnh để phổ biến, áp dụng rộng rãi. Vì vậy, trình độ sản
xuất của nông dân còn hạn chế và không đồng đều, năng suất lạc đông giữa
các hộ chênh lệch nhau rất lớn, việc mở rộng diện tích lạc vụ đông còn gặp
nhiều khó khăn. Trong khi, trồng lạc đông có thể đem lại thu nhập cao hơn
nhiều cây vụ đông khác (ngô, khoai lang, ). Hiện tại sản lượng lạc đông
không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường, trong khi quỹ đất có thể trồng lạc đông
ở Bắc Giang có thể gấp nhiều lần hiện nay
Từ những vấn đề trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu một số
biện pháp kỹ thuật trong sản xuất lạc vụ đông trên đất lúa ở tỉnh Bắc Giang”
để góp phần phát triển cây lạc đông trên địa bàn.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định thời vụ trồng lạc đông trên đất lúa ở Bắc Giang để có năng
suất, hiệu quả cao hơn một số cây trồng vụ đông phổ biến trong tỉnh hiện nay.
- Xác định mật độ trồng thích hợp cho sản xuất ở vụ đông.
- Xác định cách bón đạm, lân có hiệu quả đối với lạc vụ đông.
- Xây dựng quy trình sản xuất lạc vụ đông trên đất lúa ở Bắc Giang.
3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài sẽ góp phần bổ sung cơ sở lý luận cho việc phát triển sản xuất
lạc trong vụ đông ở vùng đông bắc nước ta.
- Những thông tin từ kết quả nghiên cứu của đề tài về kỹ thuật, kinh tế
trong sản xuất lạc, ngô, khoai tây đông sẽ là tư liệu cho giáo viên và sinh viên
các trường đào tạo về cây lạc và hệ thống cây trồng; đồng thời kết quả nghiên
cứu còn là tư liệu tốt để các nhà nghiên cứu, quản lý tham khảo khi đề cập
đến các nội dung liên quan.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Việc khảo sát tình hình trồng lạc đông ở Bắc Giang nhằm phát hiện
những điểm phù hợp, hiệu quả trong thực tiễn sản xuất của nông dân; phát
hiện những yếu tố hạn chế năng suất lạc, đưa ra quy trình kỹ thuật trồng lạc
đông trên đất lúa sát hợp làm cơ sở để tuyên truyền, hướng dẫn, chỉ đạo sản
xuất đạt kết quả cao.
Đồng thời còn phát hiện những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách
thức, yếu tố kìm hãm sự phát triển cây lạc trên đất lúa ở vụ đông để đưa ra
những giải pháp thúc đẩy lạc hiệu quả nhất.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc và phân loại của cây lạc
Theo tài liệu của các nhà sử học, tự nhiên học, khảo cổ học và ngôn
ngữ học, người ta cho rằng lạc có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Đặc biệt trên những
vùng đảo Tây Ấn, Mêhicô, vùng biển Đông- Đông Bắc Braxin, trên những
vùng ấm áp thuộc lòng chảo Rio-plata (Achentina, Paragoay, Bôlivia, cực tây
nam Braxin, Pêru). Sau đó phổ biến sang Châu Âu, tới vùng bờ biển Châu
Phi, Châu Á (Trung Quốc, Indônêxia, Ấn Độ), tới quần đảo Thái Bình Dương
và tới vùng Đông Nam Hoa Kỳ. Nguồn gốc chính của loài lạc trồng Arachis
hypogaea ở nước nào của Châu Mỹ cho tới nay vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau (Ngô Thế Dân và CS, 2000) [6].
Lịch sử trồng lạc tại các nước Nam Mỹ có từ khoảng 1500-1200 năm
trước công nguyên. Từ thế kỷ XV trở đi, lạc được lan truyền sang các châu
lục khác. Sau chuyến đi thứ nhất của Columbus cây lạc được đưa vào Châu Âu
từ thế kỷ XVI, và vào Châu Á khoảng thế kỷ XVII-XVIII.
Lịch sử trồng lạc ở Việt Nam tới nay chưa được xác minh rõ ràng. Sách
“Vân Đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn có mô tả nhận xét nhiều loại cây trồng ở
nước ta, nhưng cũng không đề cập đến cây lạc. Nếu căn cứ vào tên gọi mà xét
đoán danh từ “Lạc” có thể do từ Hán “Hoa sinh” là người Trung Quốc gọi là
cây lạc. Như vậy, cây lạc có thể từ Trung Quốc nhập vào nước ta khoảng thế
kỷ XVII, XVIII.
Lạc thuộc loại cánh bướm (Fabaceae), chi Arachis. Từ lâu người ta chỉ
biết đến một loài của chi Arachis, đó là lạc trồng A. hypogaea do Line mô tả
từ năm 1753.
5
Dựa trên cấu trúc hình thái chia loài lạc trồng làm 2 nhóm lớn: nhóm
phân cành xen kẽ và nhóm phân cành liên tục ứng với nhóm Virginia và
nhóm Spanish, Valencia theo Gregory [31].
Theo thời gian sinh trưởng lạc được phân làm 3 nhóm như sau:
Nhóm 1: Nhóm chín sớm từ 80-100 ngày
Nhóm 2: Nhóm chín trung bình từ 101-120 ngày
Nhóm 3: Nhóm chín muộn trên 120 ngày
Với điều kiện thời tiết và tập quán sản xuất ở miền Bắc Việt Nam (từ
Thanh Hoá trở ra), để phù hợp cho việc bố trí cây trồng trong cơ cầu thời vụ
thì có thể chia ngưỡng TGST ở các tỉnh phía Bắc chia làm 4 nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm chín cực sớm từ 90 - 100 ngày
Nhóm 2: Nhóm chín sớm từ 101 - 120 ngày
Nhóm 3: Nhóm chín trung bình từ: 121 - 140 ngày
Nhóm 4: Nhóm chín muộn từ trên 140 ngày
1.2. Giá trị của cây lạc trong hệ thống trồng trọt
Lạc không những có khả năng cung cấp dinh dưỡng cho con người và
gia súc, mà nó còn có khả năng cải tạo đất nhờ hệ thống vi khuẩn cộng sinh
cố định đạm và các bộ phận thân lá rễ của cây lạc.
Cây lạc thuộc họ đậu, có khả năng cộng sinh với loài vi khuẩn
Rhizobium virgna để sử dụng nitơ phân tử từ khí trời. Nhờ khả năng này mà
trồng lạc không cần bón phân đạm nhiều nhưng vẫn đảm bảo năng suất, đồng
thời nó còn cung cấp trở lại cho đất một lượng đạm đáng kể (Mayer R.J.K and
wood I. M, 1987) [34].
Theo Lê Văn Diễn và CS (1991) [8] việc luân canh giữa cây họ đậu với
cây trồng khác đã góp phần cải thiện chế độ dinh dưỡng khoáng đối với các
6
cây trồng này. Mặt khác với bộ tán cây dày, có khả năng che phủ tốt, nên cây
lạc làm giảm mức độ xói mòn của đất, nó góp phần bảo vệ, nâng cao độ phì
của đất, đặc biệt vào mùa mưa.
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu kỹ thuật trồng lạc trên thế giới
1.3.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Theo thống kê của FAO [30], USDA (2000 - 2006) [37] diện tích lạc
trên toàn thế giới trong 35 năm qua tăng 14,1%. Trong đó, khu vực Đông
Nam Á tăng 15,5%. Tây Á tăng 14,1%. Diện tích trung bình từ năm 2000 -
2005 trên thế giới là 22,415 triệu ha, tăng so với những năm 1970 là 24,8%,
so với những năm 1990 là 8,7%.
Năng suất lạc trung bình toàn thế giới tăng, song không đều ở các khu
vực, thậm chí có nơi năng suất còn giảm. Khu vực Bắc Mỹ trong ba thập kỷ
cuối thế kỷ XX năng suất tăng không đáng kể (từ 26,0 ta/ha lên 27,9 tạ/ha).
Nhưng những năm gần đây lại liên tục tăng, năm 2004 năng suất đạt 37,5
tạ/ha (USDA-Agricultural statics, 2006) [37]. Ở Nam Mỹ năng suất tăng từ
11,6 tạ năm 1979 lên 16,7 tạ năm 1999 tăng 35,1%. Châu Á nhờ áp dụng các
biện pháp kỹ thuật trong việc chọn tạo, sử dụng giống mới nên năng suất lạc
tăng từ 9,1 tạ/ha năm 1979 lên 14,5tạ/ha năm 1999, khu vực Đông Nam Á
tăng từ 10,1 tạ/ha lên 13,0 tạ/ha (Florkowski W. J.,1994) [29]. Tây Nam Á có
năng suất lạc thấp nhất, song trong những thập kỷ gần đây năng suất lạc đã
tăng từ 7,9 tạ/ha năm 1979 lên 9,3 tạ/ha năm 1999 [27], [29]. Các nước Châu
Âu năng suất lạc tăng từ 16,1 tạ/ha năm 1979 lên 23,5 tạ năm 1999.
Sản lượng lạc trên thế giới luôn tăng, những năm cuối thập kỷ 90 là
26,399 triệu tấn, tăng so với thập kỷ 70 là 58,01%. Tuy nhiên, sản lượng tăng,
giảm ở các châu lục lại khác nhau. Châu Mỹ sản lượng giảm 4,9%, Châu phi
tăng 4,6%. Châu Á tăng mạnh nhất 104,69% từ 9,548 lên 19,543 triệu
7
tấn/năm, điển hình như khu vực Đông Nam Á những năm 90 tăng gần 300%
so với những năm 70 [27], [29]. Sản lượng lạc trung bình của thế giới trong 6
năm gần đây (2000 - 2005) là 32,261 triệu tấn/năm tăng so với nhưng năm 70
là 93,1%, tăng so với năm 90 là 23,5% [35].
Ấn độ là nước có diện tích trồng lạc lớn nhất thế giới, song lạc chủ yếu
được trồng ở những vùng khô hạn, năng suất lạc thấp so với năng suất trung
bình của thế giới [29], [27]. Diện tích lạc trung bình những năm 70 là 7,159
trệu ha, năng suất 8,1tạ/ha. Theo thống kê của FAO, USDA (2000 -
2006)[29], [37] diện tích lạc trung bình của Ấn Độ là 8 triệu ha, năng suất
trung bình 8,6 tạ/ha so với những năm 90 giảm 8,5%. Trung Quốc diện tích
lạc trong những năm 60 là 1,919 triệu ha năng suất 11,4 tạ/ha và tăng liên tục,
năm 1980 diện tích lạc của Trung Quốc là 2,647 triệu ha năng suất trung bình
17,6 tạ/ha [34]. Theo USDA (2000-2005) [37]. Những năm gần đây diện tích
trồng lạc hàng năm của Trung Quốc là 5,035 triệu ha, chiếm 20% tổng diện
tích lạc toàn thế giới. Năng suất trung bình là 28,2 tạ/ha. Mỹ là nước có diện
tích lạc và năng suất ổn định, năm 2000- 2004 diện tích là 0,578 triệu ha,
năng suất trung bình 31,7 tạ/ha. Nigiêria năm 2000 - 2004 diện tích lạc từ
1,22 - 1,23 triệu ha, năng suất đạt 8,6 tạ/ha. Inđônêsia năm 2004 diện tích lạc
là 0,7 triệu ha, năng suất trung bình 15,9 tạ/ha. Ngoài các nước trên, lạc còn
được trồng một diện tích lớn ở Sênêgan, Bu Ma, Su Đăng, Bu Ki Na, Hàn
Quốc, Achentina.
1.3.2. Một số yếu tố hạn chế chính đến sản xuất lạc trên thế giới
Lạc là cây công nghiệp ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Trong điều
kiện nghiên cứu, lạc là cây trồng có tiềm năng cho năng suất rất cao. Tuy
nhiên trong thực tế sản xuất, nhiều nơi con người chưa khai thác được tiềm
năng này. Nhiều nước trên thế giới, diện tích trồng lạc vẫn giảm, năng suất
lạc thấp. Để giải quyết vấn đề này, việc xác định các yếu tố hạn chế đến sản
8
xuất lạc là cần thiết. Qua nhiều năm điều tra, nghiên cứu các nhà khoa học
trên thế giới đã xác định ba nhóm yếu tố hạn chế chính là: Phi sinh học, sinh
học và kinh tế xã hội.
Yếu tố kinh tế xã hội: Theo Willam M. J., Dillon J. L (1987) [38] yếu
tố quan trọng nhất hạn chế năng suất của đậu đỗ là thiếu sự chú ý ưu tiên phát
triển của nhà nước và nông dân, mà chủ yếu coi trọng phát triển cây lương
thực; nhiều nước nghèo không có cơ hội tiếp cận với các giống lạc mới và
tiến bộ mới trong kỹ thuật trồng lạc.
Yếu tố phi sinh học: đất chua, nghèo dinh dưỡng, khô hạn là yếu tố
chính hạn chế đến năng suất của cây lạc. Theo Reid và Cox (1973) [36] lạc
trồng trên đất có PH <5 thì năng suất thấp. Đất chua nghèo dinh dưỡng, khô
hạn chính là yếu tố hạn chế lớn đến sản xuất lạc trên thế giới. Ở hầu hết khu
vực Châu Á, các yếu tố khí hậu, điều kiện đất đai, chế độ mưa là những yếu
tố hạn chế năng suất của các cây đậu đỗ. Ngoài ra, dinh dưỡng đất là nguyên
nhân chính gây ra năng suất thấp. Theo Duan Shufen (1998) [28], hơn 2 triệu
ha đất trồng lạc ở Trung Quốc có tầng đất nông, kết cấu kém, nghèo dinh
dưỡng và chặt, năng suất lạc không thể tăng nếu không bón dư phân và áp
dụng các biện pháp cải tạo đất.
Theo Vũ Công Hậu và CS (dịch, 1995) [11] cho biết lạc được trồng trên
đất có độ mặn 4.900 miCromhos/cm thì sản lượng giảm 50%, nếu độ mặn là
6.500 miCromhos/cm thì không có sản lượng. Cũng theo tác giả này đất trồng
lạc thiếu Bo đã làm cho quả không có hạt. Đất chua (PH thấp), hàm lượng P,
Ca, Mg, Mo thấp, Al và Mn cao nên ức chế sự hình thành và hoạt động của
nốt sần ở cây lạc. Mà nguyên nhân dẫn đến đất chua, nghèo dinh dưỡng chủ
yếu là do đất bị rửa trôi, xói mòn, từ đó làm năng suất lạc thấp. Cây lạc chậm
phát triển khi nồng độ Al là 3 micro M. Đất trồng lạc thiếu Ca, đất chua là
yếu tố ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng và xâm nhập của vi khuẩn nốt sần
9
cộng sinh với cây lạc, từ đó hạn chế quá trình cố định đạm sinh học ở rễ lạc.
Sự mất cân đối các chất dinh dưỡng ở trong đất là nguyên nhân dẫn đến năng
suất lạc thấp. Ngoài ra, nhiều khu vực trồng lạc trên thế giới còn gặp trở ngại
trong việc phát triển diện tích và tăng năng suất lạc là yếu tố nước. Do vậy
khô hạn luôn là yếu tố hạn chế đối với cây lạc.
Ánh sáng và nhiệt độ: Lạc là cây mẫn cảm với nhiệt độ và cường độ
ánh sáng ngày ngắn. Cường độ ánh sáng thấp vào thời kỳ ra hoa làm cho lạc
sinh trưởng chậm, cành sinh sản bị ức chế, hoa rụng, thời kỳ đâm tia, hình
thành quả, làm cho số lượng tia và quả giảm (Hudge và Mc Cloud 1974 [32].
Nhiệt độ là yếu tố hạn chế, làm quả lạc chậm hay ngừng phát triển dẫn đến
năng suất lạc thấp, đã được các tác giả như Leong S. K., Ong C. K., 1983
[33], Moreshet 1996 [35] Awal M. A. và Ikeda T., 2002 [26] khẳng định qua
các kết quả nghiên cứu của mình. Theo các tác giả để khắc phục yếu tố hạn
chế về ánh sáng và nhiệt độ, cần phải bố trí trồng lạc đúng thời vụ, sao cho
thời kỳ mẫn cảm tránh được nhiệt độ thấp và ánh sáng ngày ngắn, đảm bảo
cho lạc sinh trưởng tốt nhất.
Yếu tố giống: Hiện nay nhiều nước vẫn chưa tìm được các giống lạc có
năng suất cao, chống chịu được sâu bệnh. Trung Quốc những năm 70 do chưa
có giống tốt, kháng bệnh nên năng suất lạc chỉ đạt 11,0 - 12,0 tạ/ha. Từ đầu
thập kỷ 90 đến nay, nhờ có công tác chọn tạo giống và kết hợp với các biện
pháp kỹ thuật canh tác, năng suất lạc đã đạt tới 30,1 tạ/ha năm 2005 [37].
Các yếu tố sinh học như sâu bệnh hại, thiếu giống có khả năng chống
chịu sâu bệnh cũng là yếu tố hạn chế lớn đến sản xuất lạc trên thế giới. Theo
Vũ Công Hậu và CS (dịch 1995) [11] ở Ấn Độ thiệt hại do sâu, bệnh hại lạc
năm 1987 lên tới 150 triệu đô la, tại Nigiêria năm 1975 thiệt hại ở lạc do
Virus đã lên tới 250 triệu đô la.
10
Về các yếu tố kinh tế xã hội, nhiều nơi con người chủ yếu chú trọng phát
triển cây lương thực, coi cây đậu đỗ (trong đó có lạc) là cây trồng phụ. Theo
Hudgens và Mc Cloud (1974) [32] nhiều nước nông dân nghèo không có cơ
hội tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật trồng lạc mới. Để hạn chế yếu tố này, chính
phủ và các nhà khoa học của nhiều nước đã tìm cách chia sẻ với nông dân
trồng lạc, tuy nhiên việc này chưa được phổ biến. Như vậy, các yếu tố quan
trọng hạn chế sản xuất đậu đỗ là thiếu sự quan tâm chú ý ưu tiên phát triển
cây đậu đỗ kể cả phía nhà nước và nông dân. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ lạc
không ổn định cũng là yếu tố hạn chế đến sản xuất lạc đối với các nước trồng
nhiều lạc.
1.3.3. Một số kết quả nghiên cứu về kỹ thuật trồng lạc trên thế giới
Theo Duan Shufen (1998) [28], ở Trung Quốc, đất có tầng canh tác
nông, cày sâu 25 - 30cm năng suất cao hơn 20 - 30% so với cày nông 10 - 12
cm, cải thiện kết cấu của đất nặng bằng bón cát với lượng 150 - 300m
3
/ha làm
năng suất lạc tăng 18%. Phơi đất trồng lạc sau khi cày làm năng suất tăng
52% so với đất không phơi. Việc bổ sung dinh dưỡng khoáng hợp lý cho đất
trồng lạc là biện pháp hữu hiệu khắc phục hạn chế về độ chua và dinh dưỡng.
Ở Ấn Độ có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của bón đạm cho lạc, cho
biết bón 30kgN/ha năng suất lạc tăng 29% so với không bón. Khi bón 11kg
N/ha, năng suất lạc tăng 43% so với không bón. Tuy nhiên, theo Reid và Cox
(1973) [36] thì bón N cho lạc chỉ có hiệu quả đối với đất xấu, vi khuẩn nốt
sần hoạt động kém.
Đối với dinh dưỡng lân, kết quả tổng hợp từ 200 thí nghiệm, trên nhiều
loại đất ở Ấn Độ đã kết luận rằng: bón 14,52kg P
2
0
5
/ha cho lạc nhờ nước trời,
năng suất lạc tăng 14,7% [11]. Và chỉ cần bón 400 - 500mg P
2
0
5
/ha đã kích
thích được sự hoạt động của vi khuẩn Rhizobium Virgna sống cộng sinh, làm
tăng số lượng và khối lượng nốt sần hữu hiệu ở cây lạc. Như vậy bón lân là
biện pháp cơ bản nâng cao năng suất lạc.
11
Đối với dinh dưỡng kali, Duan Shufen (1988) [28] cho biết bón phân
kali cho đất từ trung bình đến giàu ở Trung Quốc, đã làm tăng khả năng hấp
thu N và P của cây lạc. Tuy nhiên để việc bón phân khoáng có hiệu quả cao
cần phải bón cân đối giữa các dinh dưỡng N, P, K, Ca, S và các phân vi lượng
khác. Cụ thể: bón phối hợp (30 kg N + 17 kg P)/ha tăng năng suất gấp đôi so
với chỉ bón 30kg N/ha. Trên đất nhẹ hoặc trung bình bón phối hợp (11,0 kg N
+ 10,0 kg P + 19,0 kg K)/ha đã làm tăng năng suất lạc nước trời 100 - 154%
so với bón đơn độc N, P, K hoặc khi bón 2 trong 3 loại phân trên [10]. Tỷ lệ
bón kết hợp N, P, K tối ưu theo khuyến cáo là 1,0 : 1,5 : 2,0 (Duan Shufen,
1988) [28].
Đối với dinh dưỡng Ca, cũng rất quan trọng, bởi bón vôi cho lạc sẽ làm
giảm tốc độ Al, Mn làm tăng các nguyên tố P, Ca, Mg, Mo và cải thiện sự
hình thành nốt sần. Tuy nhiên bón Ca chỉ có hiệu quả cao đối với đất có hàm
lượng Ca dễ tiêu nhỏ hơn 158mg/kg đất, và năng suất lạc tăng theo tỷ lệ thuận
với mức Ca tăng từ 0, 4, 6, 8 tấn/ha. Những kết quả nghiên cứu ở Chiềng Mai
Thái Lan cho thấy đất không được bón Bo có tỷ lệ quả lép tăng 50% so với
đất có bón Bo và năng suất lạc giảm 45%. Ngoài ra bón Co và Mo cũng làm
tăng năng suất lạc.
Mật độ khoảng cách trồng lạc quá cao làm tỷ lệ bệnh hại lá và môi giới
truyền bệnh tăng, năng suất không tăng so với trồng ở mật độ trung bình.
Theo Duan Shufen (1998) [28] cho biết ở miền Bắc Trung Quốc với giống
đứng cây mật độ thích hợp là 360.000 - 421.000 cây/ha ở điều kiện nhờ nước
trời và mật độ 300.000 - 380.000 cây/ha ở điều kiện chủ động nước. Miền
Nam Trung Quốc, với giống đứng cây mật độ trồng thích hợp là 170.000 -
300.000 cây/ha, ở vụ lạc xuân vùng đất đồi hoặc vụ lạc thu ở đất lúa. Ở Mỹ,
lạc có năng suất cao nhất khi trồng với khoảng cách (45 - 68cm) x (10 - 15
cm). Ở Ấn Độ trồng lạc với khoảng cách 30cm x 7,5 cm là tốt nhất trong điều
12
kiện nhờ nước trời, khi tăng cây trên hàng lên 15cm hay 30cm thì năng suất
giảm [11].
1.4. Tình hình sản xuất và nghiên cứu kỹ thuật trồng lạc ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong sản xuất nên năng suất, sản lượng lúa không ngừng tăng, không chỉ đáp
ứng nhu cầu lương thực trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu. Do đó, đã cơ
bản giải quyết được vấn đề an ninh lương thực, nên các địa phương có điều
kiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Đặc biệt là chuyển những diện tích lúa có
năng suất thấp và bấp bênh sang trồng các loại cây rau mầu, cây công nghiệp
có giá trị kinh tế hơn. Trong đó, cây lạc nhờ ưu thế về khả năng thích nghi
rộng, yêu cầu kỹ thuật canh tác và đầu tư không quá cao, giá trị thu được và
thị trường khá ổn định, có nhiều giống mới có tiềm năng suất cao. Nên đã có
một vai trò quan trọng trong định hướng phát triển sản xuất hàng hoá và là
cây trồng được chọn thay thế một phần diện tích lúa, ngô năng suất thấp
không ổn định.
Ở Việt Nam, năm 1932 chỉ có 3.800 ha. Đến năm 1960, ở các tỉnh
miền Bắc diện tích trống lạc tăng nhanh, sau giải phóng 1954 đạt từ 25.000 -
30.000ha.
Sản xuất lạc được phân bố trên tất cả các vùng sinh thái nông nghệp
của Việt Nam. Diện tích lạc chiếm khoảng 28% tổng diện tích gieo trồng các
cây công nghiệp ngắn ngày (Nguyễn Thị Chinh, 2005) [2] và có xu hướng
tăng trong giai đoạn 2001- 2009. Theo số liệu thống kê năm 2009, diện tích
lạc trên toàn quốc là 249.200 ha sản lượng 525.100 tấn, năng suất trung bình
21,0 tấn/ha (Tổng cục thống kê, 2010) [25].
Vùng đồng bằng Sông Hồng, lạc được trồng chủ yếu ở các tỉnh: Vĩnh Phúc,
Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam,
13
Nam Định, Ninh Bình với diện tích 31.000 ha chiếm 12.56% diện tích trồng
lạc của cả nước với sản lượng đạt 72.800 tấn chiếm 13.86% sản lượng lạc
toàn quốc năm 2009 [25].
Vùng trung du Miền núi phía Bắc, lạc được trồng tập trung ở các tỉnh: Phú
Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang,
Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Hoà Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu với diện
tích trồng 50.400 ha, chiếm 20,22% diện tích trồng lạc của cả nước; đạt sản lượng
86.300 tấn, chiếm 16,43% sản lượng lạc toàn quốc năm 2009 [25].
Vùng bắc Trung bộ và duyên hải Miền trung, đây là vùng trồng lạc lớn
nhất cả nước, tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Với diện tích trồng
108.200ha, chiếm 43.41% diện tích trồng lạc của cả nước. Sản lượng đạt
210.400 tấn, năng suất bình quân là 19,4 tạ/ha, chiếm 40,04% sản lượng lạc
toàn quốc.
Vùng Tây Nguyên, diện tích trồng 17,700 ha, chiếm 7,1%, tập trung ở
các tỉnh Đắc Lắc, Đắc Nông và Gia Lai. Sản lượng là 30.400 tấn, năng suất
bình quân là 17,1 tấn/ha, chiếm 5,78% sản lượng lạc toàn quốc. Vùng đông
Nam bộ, diện tích 29.100 ha, chiếm 11,67%, tập trung ở các tỉnh Tây Ninh,
Binh Thuận, Bình Phước Sản lượng đạt 83.800 tấn chiếm 15,95%. Vùng
đồng bằng Sông Cửu Long, diện tích trồng 12.500 ha, chiếm 5,01% tập trung
ở các tỉnh Long An và Trà Vinh với sản lượng 41.400 tấn, chiếm 7,88%, năng
suất trung bình là 33,1 tạ/ha. Nghệ An là tỉnh có diện tích trồng lạc lớn nhất
cả nước (23.800ha), tiếp đến là Tây Ninh (21.700 ha) và Hà Tĩnh (19.900 ha),
Thanh Hoá (16.100 ha).
Theo theo Đường Hồng Dật (2007)[4], năm 1960 diện tích lạc miền
Bắc là 41.400 ha, năng suất đạt 9,4 tạ/ha, các tỉnh phía Nam 28.440 ha, năng
14
suất 8,61 ta/ha. Nhưng đến năm 1974 diện tích lạc Miền Bắc là 37.260ha,
năng suất đạt 8,59 tạ/ha, Miền Nam là 39.200 ha với năng suất 11,30 tạ/ha.
Tuy chưa phải là nước có năng suất lạc cao trong số các nước trồng lạc
trên thế giới. Nhưng năng suất lạc của nước ta luôn bằng và cao hơn năng
suất trung bình của toàn thế giới. Trong những năm gần đây, do thị trường
tiêu thụ khá ổn định, các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất lạc
như: giống mới, kỹ thuật canh tác tiên tiến được áp dụng rộng rãi; điều kiện
phục vụ sản xuất được cải thiện, đầu tư thâm canh được chú trọng nên năng
suất lạc của nước ta không ngừng nâng cao. Năm 2005, sản lượng lạc chỉ đạt
489.300 tấn. Nhưng đến năm 2009, diện tích trồng lạc của cả nước đạt
249.200 ha, năng suất đạt 21,07 tạ/ha, sản lượng đạt 525.100 tấn [25].
Tuy nhiên, cho đến nay diện tích trồng lạc ở nước ta vẫn khá phân tán,
diện tích manh mún, rải rác ở các hộ, cho nên sản lượng lạc không có điều
kiện tập trung thành khối lượng hàng hoá lớn, chất lượng không đồng đều. Ở
một số địa phương đã hình thành một vài vùng trồng lạc tập trung như Diễn Châu
(Nghệ An), Hậu Lộc (Thanh Hoá), Tân Yên, Hiệp Hoà, Lục Nam (Bắc Giang).
Trong cả nước chỉ có khoảng 5- 6 tỉnh có diện tích trồng lạc trên 10.000 ha.
1.4.2. Một số yếu tố hạn chế chính đến sản xuất lạc ở Việt Nam
Cũng như các nước trên thế giới, các yếu tố hạn chế sản xuất lạc ở Việt
Nam cũng bao gồm các nhóm yếu tố sinh học, phi sinh học và kinh tế xã hội.
Theo PGS. TS Trần Văn Lài (1991) [21], Ngô Thế Dân và CS (2000)
[6] cho rằng, yếu tố hạn chế sinh học quan trọng nhất đối với sản xuất lạc ở
Việt Nam là thiếu giống chịu thâm canh cao, có khả năng kháng sâu bệnh hại
và thích ứng cho từng vùng sinh thái. Nguyễn Xuân Hồng và cộng sự (2005)
[13], Nguyễn Thị Yến, (2000) [12] cho rằng, bệnh gây hại là yếu tố hạn chế
lớn đối với nhiều vùng trồng lạc ở Việt Nam, đặc biệt ở Miền Bắc nguy hiểm
nhất là bệnh chết héo xanh ở lạc [9], [21].
15
Theo Vũ Công Hậu và CS (dịch, 1995) [11] cho biết lạc được trồng
trên đất có độ mặn 4.900 miCromhos/cm thì sản lượng giảm 50%, nếu độ
mặn là 6.500 miCromhos/cm thì không có sản lượng. Cũng theo tác giả này
đất trồng lạc thiếu Bo đã làm cho quả không có hạt. Đất chua (pH thấp), hàm
lượng P, Ca, Mg, Mo thấp, Al và Mn cao nên ức chế sự hình thành và hoạt
động của nốt sần ở cây lạc. Mà nguyên nhân dẫn đến đất chua, nghèo dinh
dưỡng chủ yếu là do đất bị rửa trôi, xói mòn, từ đó làm năng suất lạc thấp.
Cây lạc chậm phát triển khi nồng độ Al là 3 micro M. Đất trồng lạc thiếu Ca,
đất chua là yếu tố ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng và xâm nhập của vi
khuẩn nốt sần cộng sinh với cây lạc, từ đó hạn chế quá trình cố định đạm sinh
học ở rễ lạc. Sự mất cân đối các chất dinh dưỡng ở trong đất là nguyên nhân
dẫn đến năng suất lạc thấp. Ngoài ra, nhiều khu vực trồng lạc trên thế giới,
gặp trở ngại trong việc phát triển diện tích và tăng năng suất lạc là yếu tố
nước. Do vậy khô hạn luôn là yếu tố hạn chế đối với cây lạc.
Ở Việt Nam có tới 46,6% diện tích đang trồng cây họ đậu không thích
hợp đối với cây đậu đỗ [2], có trên 70% diện tích trồng lạc nhờ nước trời
(Đậu Thị Lương, 1995) [22], lượng mưa lớn và phân bố không đều là yếu tố
hạn chế lớn đối với sản xuất lạc. Đất khô và nhiệt độ thấp ở đầu vụ xuân, cuối
vụ thu đông đều là những yếu tố hạn chế đến năng suất lạc ở miền Bắc Việt Nam
[2], [6], [21].
Qua kết quả nghiên cứu của Viện Nông hoá thổ nhưỡng (Phạm Văn Thiều,
2000) [17] cho biết trên một số đất trồng lạc ở các vùng lạc chuyên canh của ta thì
độ ẩm và các chất dinh dưỡng là một trong những yếu tố hạn chế năng suất lạc.
Nguyễn Thị Dần (1991) [7] chỉ ra rằng đất chua dẫn đến thiếu N, P, K
dễ tiêu, thiếu Ca, Mg, Mo chất hữu cơ thấp và chứa nhiều độc tố Al và Mn có
hại với cây lạc. Trên đất đồi núi phía Bắc Việt Nam chua, xói mòn, rửa trôi
mạnh, hấp thụ trao đổi thấp, P
2
0
5
dễ tiêu thấp, đây là trở ngại lớn đối với sản
xuất lạc.
16
Về nhóm các yếu tố kinh tế - xã hội: PGS. TS Trần Văn Lài (1991) [21]
cho rằng yếu tố kinh tế - xã hội hạn chế đến sản xuất lạc là thiếu sự quan tâm
của nhà nước và lãnh đạo các địa phương. Hệ thống cung ứng giống lạc thiếu
và không đảm bảo độ tin cậy về chất lượng giống, có 75 - 80% số hộ ở các tỉnh
miền xuôi thiếu vồn để trồng lạc (Ngô Thế Dân và CS, 2000) [6]. Các tỉnh
vùng Đông Bắc Việt Nam có tới 96 - 100% số hộ thiếu vốn trồng lạc.
Qua kết quả điều tra năm 2004 của Nguyễn Thị Chinh cho thấy có 65 -
75% số hộ nông dân ở các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hoá, Nghệ An thiếu vốn
để mua giống mới và vật tư để thâm canh lạc [2]. Công tác tổ chức thu mua,
chế biến và xuất khẩu lạc ở Việt Nam còn kém, tình trạng tranh mua, tranh
bán, tranh xuất khẩu còn phổ biến, từ đó làm cho giá lạc không ổn định.
1.4.3. Một số kết quả nghiên cứu về kỹ thuật trồng lạc ở Việt nam
Để khắc phục các yếu tố hạn chế, nâng cao năng suất, sản lượng lạc
trên thế giới. Trong những thập kỷ qua, nhiều công trình nghiên cứu về các
biện pháp kỹ thuật trồng lạc đã được thực hiện và đạt được kết quả tốt. Sau
đây là một số kết quả nghiên cứu về các kỹ thuật trồng lạc.
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật mới để
nâng cao năng suất của các giống lạc. Qua nghiên cứu điều kiện khí hậu, canh
tác các nhà khoa học đã xác định thời vụ trồng thích hợp cho mỗi vùng. Ở
Miền Bắc thời vụ trồng lạc chịu sự chi phối của chế độ mưa và nhiệt độ trong
năm, Vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ gieo lạc vụ xuân tốt nhất từ 5/2 đến
6/3, muộn nhất không quá 10/3. Miền núi rét thường kéo dài gieo muộn hơn
từ 25/2 đến 15/3 trên đất ruộng. Từ 1/3 đến 15/3 trên đất bãi, đất đồi. Lạc thu
gieo từ 15/7 đến cuối tháng 8, do gặp nắng nóng và mưa lớn nên quả bé, năng
suất thấp. Lạc thu đông gieo trồng từ 15/8 đến 25/9; vụ này năng suất cao
hơn, chất lượng tốt hơn vụ thu, giữ làm giống cho vụ xuân năm sau rất tốt [2],
[6]. Vùng khu 4 cũ trồng lạc xuân bắt đầu từ 25/1, kết thúc 28-29/2. Đối với
17
vùng trung Trung bộ, lạc xuân gieo vào tháng 1, 2. Lạc hè gieo vào tháng 4, 5
đầu mùa mưa [8]. Tuy trong lịch thời vụ có quy định khá cụ thể nhưng dù sao
thì đây mới chỉ là cái khung cho cả một vùng rộng trên địa bàn của nhiều tỉnh.
Vì vậy, muốn có lịch sát hợp cho từng giống, từng chân đất, từng chế độ canh
tác khác nhau, thì mỗi địa phương cần nghiên cứu để cụ thể thêm làm căn cứ
hướng dẫn nông dân gieo trồng, làm sao cho hạt giống khi gieo xuống mọc
nhanh, bảo đảm được mật độ và thuận lợi để sinh trưởng, phát triển đến lúc
thu hoạch; tránh được các điều kiện bất lợi có thể dự đoán được như rét, hạn,
gió lào, mưa lũ… để cho năng suất cao và ổn định.
Trong quy trình kỹ thuật sản xuất lạc của Bộ Nông Nghiệp & PTNT
hướng dẫn là đối với các loại đất khác nhau thì phải áp dụng mức phân bón
khác nhau (Phạm Văn Thiều, 2002) [16].
Theo Nguyễn Thị Dần, Thái Phiên và CS (1991) [6] cho biết trên nhiều
vùng đất trồng lạc khác nhau ở Miền Bắc với liều lượng bón 60kg P
2
O
5
trên
nền 8 - 10 tấn PC + 30 kg K
2
O + 30kg N đạt giá trị kinh tế cao nhất, hiệu suất
đạt 4,0 - 6,0 kg, bón 90kg P
2
O
5
năng suất cao hơn nhưng hiệu suất chỉ đạt 3,6
- 5,0 kg. Trên đất đồi bãi vùng Đông Bắc nghèo dinh dưỡng, bón 80kg
P
2
O
5
/ha đã làm năng suất lạc tăng 31,5%, bón 150kg P
2
O
5
/ha năng suất tăng
69,2% so với không bón.
Rất nhiều kết quả nghiên cứu đã khẳng định hiệu quả của việc bón
phân đạm đối với cây lạc (Nguyễn Thị Dần, Thái Phiên, 1991) [7]. Trên nền 8
- 10 tấn PC, lượng bón thích hợp là 30 kgN/ha, nếu tăng lên 40 kgN/ha thì
năng suất không tăng và hiệu lực giảm đi rõ rệt [6]. Với đất nghèo đạm, bón
lượng đạm cao vẫn có hiệu quả. Nguyễn Thị Dần, Thái Phiên, 1991 [7],
Ngô Thế Dân và CS, 2000 [6] đều cho rằng để việc bón đạm có hiệu quả
cao cần bón kết hợp với các loại phân khoáng khác như lân, canxi các
phân vi lượng khác.
18
Bón phân cân đối là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả của phân
bón và nâng cao năng suất lạc. Theo Ngô Thế Dân và CS (2000) [6] cho biết
trên đất xám bạc màu Ninh Bình bón thêm (60kg P
2
O
5
+ 30 kg K
2
O) vào nền
(10 tấn PC + 400kg vôi bột + 30kg N) năng suất lạc tăng 23,8% so với chỉ
bón nền + 60kg P
2
O
5
thì hiệu suất là 4,0 - 6,0 kg. Nguyễn Thị Dần, Thái
Phiên (1991) [7] cho biết trên đất cát ven biển Thanh Hoá bón 10 tấn PC và
30 kg N + 90 kg P
2
O
5
+ 60 kg K
2
O/ha đã làm tăng 6,4 - 7,0 tạ/ha lạc so với
không bón.
Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu để xác định khoảng cách, mật độ
trồng lạc tối ưu. Theo Nguyễn Thị Chinh (2005) [2] cho biết, với những giống
lạc dạng đứng cây phân cành gọn, mật độ thích hợp ở vụ xuân là 40 cây/m
2
(33cm x 15cm x 2 cây hoặc 25 cây x 20cm x 2 cây), năng suất cao hơn so với
trồng 33 cây/m
2
(33cm x 10cm x 1 cây) là 27 - 36%. Theo Ưng Định và
Đặng Phú (1987) [8] tổng hợp từ các nghiên cứu cho biết tăng mật độ từ 22
cây/m
2
(30cm x 15cm x 1 cây), lên 33 cây/m
2
(30cm x 10cm x 1 cây), năng
suất lạc tăng từ 15,0 lên 20,0 tạ /ha mật độ trồng 44 cây/m
2
(30cm x 15cm x 2
cây) năng suất tăng lên 29,0 tạ/ha.
Trần Thị Thu Hà (2004)[10] thăm dò ảnh hưởng của liều lượng và tỉ
lệ đạm - lân đến năng suất lạc trên đất phù sa nghèo dinh dưỡng. Theo tác
giả tỷ lệ đạm, lân có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành nốt sần thông qua
chỉ tiêu trọng lượng; liều lượng đạm, lân ít ảnh hưởng đến sự hình thành
hoa và trọng lượng 100 quả ở cây lạc. Trong khi đó, số quả chắc trên cây
có phản ứng tích cực với liều lượng và tỷ lệ bón đạm, lân ở cả hai vụ
nghiên cứu.
Dương Thế Phùng, Dương Thị Thanh Hà (2006)[14] từ kết quả khảo
nghiệm một số giống lạc mới trong vụ xuân tại huyện Phú Bình, Thái Nguyên.
Các tác giả đã tìm ra được hai giống lạc là L14 và LVT có năng suất cao phù
19
hợp với điều kiện khí hậu và đất đai của huyện Phú Bình và được nhiều bà
con nông dân lựa chọn với năng suất cao nhất là 17,55tạ/ha.
Vũ Đình Chính, Vũ Thị Thu Hiền (2009)[3] ảnh hưởng của mật độ
đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số giống lạc trong điều kiện
vụ xuân tại Ý Yên - Nam Định theo tác giả mật độ 40 cây/m
2
cho hai giống
lạc L14 và MD7 trong vụ xuân cho năng suất cao từ 43,23 tạ/ha.
Vũ Ngọc Thắng, Vũ Đình Chính (2007)[16] ảnh hưởng của một số vật
liệu che phủ đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống lạc L14 trong
điều kiện vụ thu trên đất Gia Lâm - Hà Nội. Theo tác giả, công thức che phủ
nilon có tổng số quả đạt cao nhất, che phủ bằng trấu đạt thấp nhất.
Trịnh Thị Lan, Lê Đình Hải (2009) [24] so sánh một số giống, dòng lạc
và xác định lượng phân bón cho lạc xuân tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
Theo tác giả, trong điều kiện vụ xuân giống lạc L26, L14, MD7 có năng suất
thực thu cao nhất khi bón 8 tấn PC + 30kgN + 60kgP
2
O
5
+ 60kgK
2
O + 500
kg vôi bột, mật độ trồng 33 cây/m
2
.
Vũ Văn Viết và cộng sự (2010) [19] nghiên cứu tuyển chọn giống và
vật liệu che phủ thích hợp cho lạc xuân tại xã Lệ Viễn huyện Sơn Động, tỉnh
Bắc Giang đã tuyển chọn được giống L14 có năng suất đạt 21 tạ/ha, phù hợp
với điều kiện địa phương và sử dụng vật liệu che phủ làm tăng năng suất so
với không che phủ trên 5,49 tạ/ha.
Theo Vũ Công Hậu, Ngô Thế Dân (biên dịch, 1995) [11] cây lạc thích
hợp với loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước, thoáng khí, đất cày
sâu 15 - 20cm, trồng luống rộng 0,7 - 1,2m, có rãnh, năng suất tăng 10 - 15%
so với cày nông 7- 8 cm.
1.4.4. Tình hình nghiên cứu phát triển lạc thu đông ở một số tỉnh phía Bắc
Việt Nam
Ở các tỉnh phía Bắc, lạc xuân là vụ sản xuất chính, năng suất trung bình
cao và ổn định hơn vụ lạc thu, sản phẩm chủ yếu để xuất khẩu và tiêu dùng tại
20
chỗ, một phần (10%) để làm giống cho vụ xuân năm sau [2]. Do hạt lạc có
hàm lượng dầu cao, dễ mất sức nảy mầm trong quá trình bảo quản giống nên
đã làm ảnh hưởng không ít đến phát triển sản xuất lạc. Việc nghiên cứu và
phát triển lạc thu đông đã góp phần cung cấp giống tốt cho vụ sau, mở rộng
diện tích lạc thương phẩm, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng thu nhập cho
nông dân.
Căn cứ vào nhu cầu sinh thái của cây lạc, đặc điểm thời tiết, đất đai,
mùa vụ của một số tỉnh phía Bắc. Nhiều nhà khoa học nhận định, sản xuất lạc
vụ thu đông vừa đáp ứng được nhu cầu giống cho vụ xuân năm sau, vừa mang
tính sản xuất hàng hoá và đem lại lợi nhuận cao cho nông dân (Ngô Thế Dân
và CS, 2000) [6]. Tác giả này khẳng định trồng lạc vụ thu đông đã khắc phục
được nhược điểm hạt nhỏ của lạc thu và năng suất được cải thiện.
Theo Ngô Thế Dân và cộng sự (2000) [6] khi nghiên cứu xác định thời
vụ gieo trồng lạc trong vụ thu đông, đã phân tích sự biến động thời tiết qua
nhiều năm (1985 - 1997) và cho rằng, lạc gieo trồng vào cuối tháng 8 đầu
tháng 9 lúc này nhiệt độ giao động từ 23 - 27
0
C, lượng mưa dao động 150 -
300mm, thuận lợi cho lạc mọc, sinh trưởng, ra hoa và phát triển quả. Tháng 11,
lượng mưa là 70 - 80mm, khô chưa gay gắt, nhiệt độ là 22 - 23
0
C vẫn đảm bảo
để lạc vào chắc hạt, sang tháng 12 vào thời kỳ chín, nhiệt độ thấp (19 - 20
0
C) ít
ảnh hưởng đến năng suất lạc, thời gian này gặp thời tiết khô, rất thuận lợi cho
việc thu hoạch, phơi và bảo quản giống lạc. Tuy nhiên nếu gieo muộn vào
tháng 10, sẽ kéo dài thời gian sinh trưởng, thu hoạch vào cuối tháng 1 thường
gặp mưa phùn, nên gặp khó khăn cho phơi giống. Như vậy thời vụ gieo trồng
ảnh hưởng lớn đến năng suất lạc trong vụ thu- đông. Tại Thanh Hoá năng suất
trồng ngày 5/9 đạt 35,0 tạ/ha, ngày 15/9 đạt 34,3 tạ/ha, tăng 6,0 - 10,3% so với
trồng ngày 25/9 [2].
Trần Đình Long và CS (1991) [23] cho biết kết quả thí nghiệm về phân
bón NPK tại Hà Nội cho biết, việc tăng liều lượng phân bón NPK theo tỷ lệ