Tải bản đầy đủ (.pdf) (401 trang)

Các giải pháp phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 401 trang )

TTCP
VKHTT
THANH TRA CHÍNH PHỦ
Viện khoa học thanh tra
17 Cao Bá Quát





BÁO CÁO TỔNG KẾT CHUYÊN ĐỀ

CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CHỐNG THAM NHŨNG



Thuộc Đề tài độc lập cấp nhà nước:

“LUẬN CỨ KHOA HỌC CHO VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC
PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM CHO ĐẾN NĂM 2020”
_______________________

THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ: ĐINH VĂN MINH










6754-6
10/3/2008




Hà Nội, 12 – 2007











PHẦN I. BÁO CÁO TỔNG THUẬT ĐỀ TÀI NHÁNH 6



Chủ nhiệm: ThS. Đinh Văn Minh
Phó viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra
BÁO CÁO TỔNG THUẬT:
CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG


Mặc dù chúng ta đã nhận thức được tính nguy hại của tệ tham nhũng
và coi đó như là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ xã hội chủ
nghĩa và đã không ít nỗ lực trong đấu tranh với tệ nạn này nhưng trên thực
tế tham nhũng không những không giảm mà có chiều h
ướng ngày càng
phát triển trầm trọng hơn. Chính vì vậy điều quan trọng hiện nay là cần chỉ
ra được nguyên nhân đích thực của căn bệnh này, đánh giá đúng các giải
pháp mà chúng ta đã và đang thực hiện để từ đó tìm ra các giải pháp mới,
thực sự có hiệu quả trên tất cả các mặt tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, của hệ thống chính trị c
ũng như trên mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược phòng, chống tham
nhũng toàn diện có hiệu quả với một lộ trình thích hợp nhất phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam cũng như xu thế hội nhập thế giới.
A/ TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN THAM NHŨNG
1. Tình hình tham nhũng
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đ
ã tăng cường đấu
tranh phòng, chống tham nhũng và đã đạt được một số kết quả nhất định.
Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị chỉ rõ ý nghĩa, tầm quan
trọng, mục tiêu, nhiệm vụ, những chủ trương, giải pháp chủ yếu của cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Quốc hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhi
ều văn bản pháp luật, tạo lập cơ sở
pháp lý khá vững chắc cho công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở
nước ta. Các văn bản nói trên được triển khai thực hiện, góp phần phòng
ngừa, ngăn chặn tình trạng tham nhũng.
Các cấp uỷ đảng và chính quyền, từ trung ương đến địa phương, đã
quan tâm hơn đến công tác kiểm tra, thanh tra, nhất là kiểm tra, thanh tra

công tác xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, thực hiện những điều đảng viên không được làm, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và chú trọng chỉ đạo khắc phục sai phạm sau kiểm tra, thanh tra
(1)
.
Quốc hội và HĐND các cấp đã dành nhiều thời gian để giám sát
công tác phòng, chống tham nhũng, trong đó, tập trung giám sát việc tổ
chức thi hành các quy định pháp luật về lĩnh vực này, việc triển khai thực
hiện các công trình trọng điểm quốc gia và xử lý một số vụ việc mà dư luận
quan tâm. Một số đoàn giám sát của Quốc hội đã phát hiện được những
trường hợp tham nh
ũng, tiêu cực trong các cơ quan, tổ chức, kể cả trong
các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Các cơ quan Thanh tra, Kiểm tra, Kiểm toán, Công an, Viện Kiểm
sát, Toà án được củng cố một bước cả về cơ chế hoạt động, tổ chức bộ
máy, đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất. Các hoạt động thanh tra, điều tra,
truy tố, xét xử được tăng cường, thể hiện quan
điểm xử lý ngày càng cương
quyết hơn
(2)
.

(1)
Trong nhiệm kỳ khoá IX, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã kiểm tra 56 đảng viên thuộc diện Trung ương
quản lý (tăng gấp 3 lần so với nhiệm kỳ trước) và 18 ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ, ban cán sự đảng
UBND tỉnh, ban cán sự đảng bộ, ngành (tăng gấp 2 lần). Uỷ ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 97.000 đảng
viên và gần 15.000 tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm. Qua kiểm tra đã kế
t luận 69.000 đảng viên (chiếm 71
% số đảng viên được kiểm tra) và gần 7.300 tổ chức đảng (chiếm gần 50 % số tổ chức đảng được kiểm tra)
có vi phạm; thi hành kỷ luật gần 40.000 đảng viên và 1.200 tổ chức đảng có sai phạm.


(2)
Trong 5 năm (2001-2005) ngành Thanh tra đã tiến hành 58.664 cuộc thanh tra, tập trung vào lĩnh vực
đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai và các tổng công ty nhà nước có dấu hiệu tiêu cực; đã phát hiện
nhiều sai phạm, kiến nghị thu hồi 15 nghìn tỉ đồng, hơn 23 vạn USD và 51.839 ha đất và kiến nghị xử lý
hình sự 319 vụ với 721 đối tượng. Hàng ngàn vụ án, trong đó có nhiều vụ án tham nhũng lớn, phức tạp, gây
hậ
u quả nghiêm trọng đã hoặc đang được điều tra, xử lý, như: vụ án ở Chi cục Hải quan Cửa khẩu Tân
Thanh (Lạng Sơn); vụ án Lã Thị Kim Oanh ở Công ty tiếp thị đầu tư nông nghiệp và phát triển nông thôn;
các vụ án tại Công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí, Công ty xăng dầu Hàng không; vụ Ngô Thanh Lam ở Ngân
hàng ngoại thương Việt Nam (tham ô hơn 4,6 triệu USD); vụ tham nhũng ở Thanh tra Chính phủ; các vụ
tham nh
ũng về đất đai ở Phú Quốc (Kiên Giang), Đồ Sơn (Hải Phòng), vụ mua bán quota ở Bộ Thương
mại, vụ PMU 18 thuộc Bộ Giao thông -Vận tải Theo báo cáo của Bộ Công an, trong 5 năm, từ năm 2000
Đã xử lý kiên quyết và nghiêm minh hơn những cán bộ, đảng viên,
công chức sai phạm, trong đó có cả cán bộ cao cấp là Uỷ viên Trung ương
Đảng, bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, chủ tịch, phó chủ
tịch UBND tỉnh, thành phố, vụ trưởng, tổng giám đốc ; khắc phục một
bước tình trạng xử lý “nhẹ trên, nặng dưới”, xử lý nội bộ, tách ra để xử lý
sau như
ng sau đó không xử lý hoặc xử lý nhẹ.
Vai trò giám sát, tham gia của nhân dân trong công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí được nâng cao và có những đóng góp thiết thực hơn.
Các cơ quan báo chí đã tích cực phát hiện, phanh phui nhiều vụ tham
nhũng, lãng phí lớn, góp phần thúc đẩy quá trình điều tra, truy tố và xét xử
nghiêm các vụ án, những cán bộ, đảng viên sai phạm.
Những việc làm và kết quả nêu trên đã có tác dụng nhất định trong
việc ngăn ngừa, kiềm chế tệ
tham nhũng, góp phần phát triển kinh tế- xã
hội, giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, củng cố quyết

tâm của Đảng, Nhà nước, tạo tiền đề để tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong những năm tiếp theo.
“Tuy nhiên, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn
nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũ
ng, lãng phí vẫn diễn ra
nghiêm trọng ở nhiều ngnàh, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, mang
tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của đảng và chế
độ ta”
3


đến 2004, lực lượng Công an đã phát hiện, điều tra 3.349 vụ việc tham nhũng với số tài sản thiệt hại trị giá
2.382 tỷ đồng.

3
Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban CHTW, NXBCTQG, Hà Nội 2006, tr.12
Tham nhũng vẫn ngày càng nghiêm trọng, thể hiện ở các mặt sau
đây:
- Tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng, phổ biến ở hầu hết các
ngành, các cấp, các lĩnh vực.
+ Phạm vi tham nhũng ngày càng rộng: tham nhũng không chỉ xảy
ra trong các hoạt động kinh tế, như: xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản
lý tài chính công, thu thuế…, mà đã lan sang các lĩnh vực vốn được coi
trọng về đạo lý nh
ư giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội, phòng,
chống dịch bệnh, trong công tác tổ chức cán bộ… Nguy hại hơn, tham
nhũng còn xảy ra cả trong công tác tham mưu, hoạch định chủ trương,
chính sách. Tham nhũng cũng xảy ra ở ngay trong các cơ quan bảo vệ pháp
luật (Thanh tra, Công an, Viện kiểm sát, Toà án).

+ Thiệt hại trong các vụ tham nhũng ngày càng lớn: nếu trong
những năm 1990, thiệt hại trung bình trong một vụ tham nhũng là 710 triệu
đồng thì từ năm 2000 đến năm 2004 là 810 triệu đồng/vụ, cá biệt có nhũng
vụ tham nhũng hàng tỷ, thậm chí hàng chục tỷ đồng như một số vụ trong
lĩnh vực dầu khí, ngân hàng ;
+ Tính chất, thủ đoạn tham nhũng ngày càng phức tạp, nguy hiểm,
tinh vi. Một bộ phận đảng viên, cán bộ, công chức coi việc tham ô, nhận
hối lộ là “luật bất thành văn”
(4)
. Những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực diễn
ra công khai, trắng trợn, phổ biến ở nhiều nơi mà phần lớn nạn nhân là

(4)
Qua điều tra của Ban Nội chính Trung ương thấy rằng 1/3 số cán bộ, công chức được hỏi sẵn sàng nhận
hối lộ nếu có người đưa.
những người dân có thu nhập thấp, đã tạo ra tâm trạng bức xúc và những
“điểm nóng” về an ninh trật tự trong thời gian qua
(5)
.
Gần đây xuất hiện một số vụ tham nhũng xuyên quốc gia, thủ đoạn
tham nhũng tinh vi (sử dụng công nghệ cao để thực hiện và che giấu hành
vi phạm tội, khai thác triệt để sơ hở của cơ chế, chính sách, pháp luật, có tổ
chức, móc nối trên dưới, trong ngoài).
Tội phạm tham nhũng mang tính tổ chức ngày càng nhiều, liên quan
tới nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa ph
ương, thậm chí đã mang tính chất
quốc tế.
+ Đối tượng tham nhũng là những người có địa vị, chức vụ trong hệ
thống chính trị ngày càng cao, nhiều người có trình độ chuyên môn giỏi, có
kinh nghiệm quản lý và hiểu biết về pháp luật.

2- Nguyên nhân của tình trạng tham nhũng:

Qua nghiên cứu cho thấy, tham nhũng là một hiện tượng có tính chất
phổ biến của mọi nhà nước, dưới mọi chế độ khác nhau, là căn bệnh bẩm
sinh của quyền lực. Tham nhũng là nơi gặp gỡ của lòng tham và quyền lực
(ở đây là quyền lực công) khi không được kiểm soát chặt chẽ. Từ kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra được một số nguyên nhân chủ yế
u của tham nhũng
sau đây:
2.1- Nguyên nhân khách quan:

(5)
Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế (IT) thì tình hình tham nhũng ở Việt Nam là khá nghiêm
trọng với số điểm về sự trong sạch thấp (trong 6 năm qua, điểm số trong sạch của Việt Nam dao động từ
2,4 đến 2,6 trong thang điểm 10). Cụ thể là:
Năm 2000 Việt Nam xếp thứ 76 trong số 90 nước và nhóm nước, với số điểm là 2,5/10;
Năm 2001 xếp thứ 75/91 với s
ố điểm là 2,6/10;
Năm 2002 xếp thứ 85/102 với số điểm là 2,4/10;
Năm 2003 xếp thứ 100/133 với số điểm là 2,4/10;
Năm 2004 xếp thứ 102/145 với số điểm là 2,6/10;
Năm 2005 xếp thứ 107/158 với số điểm là 2,6/10.
2.1.1- Việt Nam là nước đang phát triển, trình độ quản lý còn lạc
hậu, mức sống thấp, pháp luật chưa hoàn thiện. Thực tế cho thấy, tham
nhũng thường phát triển ở những nước chậm phát triển hoặc đang phát
triển. Nếu nhà nước quản lý xã hội lỏng lẻo sẽ tạo ra các sơ hở cho tệ tham
nhũng nảy sinh và phát triển. Quá trình chuyển đổi cơ chế, tồn t
ại và đan
xen giữ cái mới và cái cũng là một trong những nguyên nhân của tệ tham
nhũng. Quá trình chuyển đổi là một quá trình đòi hỏi phải có thời gian, vừa

làm vừa rút kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện. Cơ chế mới cũ kỹ vốn quen
thuộc bị thay thế nhưng nếp nghĩ thói quen thì vẫn còn, trong khi đó cơ chế
mới đang được hình thành còn sơ khai cả trong nhận thực và quá tình th
ực
hiện không khỏi lúng túng. Tình trạng "tranh tối tranh sáng" là mảnh đất tốt
cho tệ nạn tham nhũng phát triển.
2.1.2- Ảnh thưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường: Cùng với
những mặt tích cực, cơ chế thị trường cũng đã bộc lộ mặt trái của nó. Đó là
sự cạnh tranh khốc liệt, sự ngự trị của đồng tiền làm cho người sản xuất
kinh doanh có xu hướng tối đa hoá lợi nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ
công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh doanh. Trong xã hội, sự phân
hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, các giá trị xã hội bị đảo lộn, mọi người
đều bị sức ép của việc kiếm thật nhiều tiền, tâm lý mọi việc đều có thể mua
bán. Đây là điều chúng ta đã dự báo trước nhưng lại không kịp thời có biệ
n
pháp thích hợp để chủ động hạn chế ngay từ đầu cho nên từ mối lo về kinh
tế đến nay chuyển sang những mối lo về các tệ nạn xã hội.
2.1.3- Do ảnh hưởng của tập quán văn hoá: Trong tâm lý xã hội của
người Á đông nói chung và người Việt Nam nói riêng có rất nhiều khía
cạnh khiến cho tệ tham nhũng mà biểu hiện tập trung nhất là nạn quà cáp
hối lộ có cơ sở tồn t
ại và phát triển. Chuyện biếu xén quà cáp được coi là
một nét văn hoá của người Việt Nam. Trong dân gian cũng như trong hoạt
động quan trường thì quà cáp dường như là điều được dễ dàng chấp nhận.
Kết quả điều tra xã hội học cho thấy có đến 41% số người dân được hỏi
cho r»ng việc đưa quà cáp chỉ là “món quà nhỏ” cám ơn người đã giúp đỡ
mình giải quyết công việc.
2.2- Những nguyên nhân chủ quan
2.2.1- Hệ thống chính trị chậm đượ
c đổi mới, hoạt động của bộ máy

nhà nước kém hiệu quả: Đây là nguyên nhân bao trùm gây nên mọi sự yếu
kém và bất cập của quá trình đổi mới đất nước, trong đó có tệ nạn tham
nhũng. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ máy nhà nước tốt. Ở nước ta,
sự quản lý, lãnh đạo điều hành đất nước là sự thống nhất và phối hợp giữa
vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý của Nhà nước và sự tham
gia tích cực có hiệu quả của các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần
chúng. Các yếu tố trong hệ thống chính trị phải thực hiện đúng vai trò của
mình thì mới phát huy được tác dụng nếu không sẽ làm giảm hiệu quả lãnh
đạo quản lý điều hành xã hội, gây ra nhiều tệ nạn trong đó có tham nhũng.
2.2.2- Phẩm ch
ất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy
thoái, công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém: Bước sang cơ
chế thị trường, trước tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, nhiều cán
bộ, đảng viên do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã chạy theo các lợi ích
trước mắt dẫn đến vi phạm pháp luật tham nhũng. Đạo đức “cần, kiệm,
liêm, chính” nhi
ều lúc bị chủ nghĩa thực dụng, cá nhân lấn át. Công tác
quản lý, giáo dục, kiểm tra cán bộ, đảng viên bị buông lỏng, yếu kém,
không chuyển kịp với tình hình. Việc sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ
nhiều trường hợp không đúng năng lực, phẩm chất. Cán bộ, công chức
chưa được thường xuyên được bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao trình độ
chuyên môn, trau dồi phẩm chất chính trị.
2.2.3- Cơ chế chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu
nhất quán: Cơ chế chính sách pháp luật chưa được hoàn thiện, thiếu cụ
thể, còn có sơ hở và thiếu nhất quán. Việc phân cấp quản lý giữa trung
ương và địa phương, việc phân biệt quản lý nhà n
ước và quản lý sản xuất
kinh doanh còn có phần chưa rõ. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước còn diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát đầy đủ. Cơ chế quản lý
tài sản công, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước chưa chặt

chẽ dẫn đến tình trạng ‘vô chủ”, thiếu trách nhiệm. Bộ máy nhà nước còn
cồng kềnh, nền hành chính chậm được cải cách. Những nhược điểm
đó đẻ
ra tệ quan liêu, tham nhũng và thiếu kỷ cương, tạo điều kiện cho tệ hối lộ,
hà lạm công quĩ, quấy nhiễu cấp dưới và nhân dân.
2.2.4- Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin –
cho” vẫn còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý tạo
kẽ hở cho sự sách nhiễu, vòi vĩnh, ăn hối lộ. Chế độ công vụ của cán b
ộ,
công chức mới bắt đầu được quan tâm xây dựng, thiếu cơ chế kiểm tra,
giám sát có hiệu quả. Chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức thiếu rõ
ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đối với những sai
phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Chế độ tiền lương đối
với đội ngũ cán bộ, công chức bất h
ợp lý, chậm được cải cách. Đồng lương
không đủ đảm bảo nhu cầu của cuộc sống là một động cơ thúc đẩy cán bộ,
công chức thực hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực khi có điều kiện, cơ hội.
Công tác quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, việc đăng ký quyền sử dụng
đất, cấp đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển giao quyền sử dụng đất…còn
nhiề
u kẽ hở, tạo điều kiện cho tiêu cực, sai phạm. Cơ chế quản lý tài chính
công, mua sắm công, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều bất hợp lý,
vòng vèo, qua nhiều khâu, nhiều “cửa”. Đây chính là những lĩnh vực hay
xảy ra tham nhũng nhất trong thời gian vừa qua.
Việc kiểm soát và minh bạch hoá thu nhập và tài sản của cán bộ,
công chức gặp rất nhiều khó khăn và gần như không đạt kết quả mong
muốn. Chế định kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức
đã được áp dụng
nhưng chỉ mang tính hình thức, một phần do chế độ quản lý tiền tệ và thanh
toán qua ngân hàng còn hết sức yếu kém.

2.2.5- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác
phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng chưa chặt chẽ, sâu sát, thường
xuyên; việc xử lý tham nhũng nhiều nơi, nhiều lúc còn chưa nghiêm. còn
biểu hiện bao che, vị nể. Đây là vÊn đề làm ả
nh hưởng không nhỏ đến hiệu
quả, hiệu lực của cuộc đấu tranh chống tham nhũng nh÷ng năm qua.
2.2.6- Chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong đấu
tranh chống tham nhũng chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ
chế phối hợp cụ thể, hữu hiệu. Điều này dẫn đến tình trạng cùng một vụ
việc có quá nhiều c
ơ quan có quyền nhưng lại thiếu một cơ quan chịu trách
nhiệm.
2.2.7- Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu,
Cơ chế phối hợp của các cơ quan nói trên còn lỏng lẻo, nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong cuộc đấu tranh chung còn chưa
rõ ràng, cụ thể dẫn đến tình trạng lẫn lộn, chồng chéo, thiếu hiệu quả trong
hoạt độ
ng phát hiện và xử lý tham nhũng.
Về pháp luật, chúng ta chưa có những qui định cho phép các cơ quan
chức năng áp dụng các biện pháp đặc biệt để có thể phát hiện các hành vi
tham nhũng cho nên hiệu quả phát hiện tham nhũng là rất thấp (chỉ khoảng
5%, ẩn lậu đến 95% theo tổng kết của ngành công an)
2.2.8- Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự
tham gia của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn
chưa được quan tâm đúng mức. Chưa có cơ chế hữu hiệu để tạo thuận lợi
cho công dân và báo chí phát hiện các hành vi tham nhũng và giám sát các
hoạt động quyền lực. Chưa có cơ chế để bảo vệ người tố giác tránh sự trả
thù trù dập và cũng chưa có qui định khen thưởng về vật chất để khuyến
khích động viên người tố cáo đúng, góp phần ngăn chặn ngay và hồi tài sản
cho Nhà nước đã bị hành vi tham nhũng chiếm đoạt.

2.2.9- Công tác giáo dục chính trị đạo đức tư tưởng nói chung, công
tác tuyên truyền, nâng cao nhậ
n thức của xã hội về tham nhũng và đấu
tranh chống tham nhũng mặc dù đã được quan tâm nhưng chưa tạo ra một
sự chuyển biến tích cực trong ý thức của xã hội trong việc phản ứng với tệ
nạn tham nhũng cũng như đề cao ý thức trách nhiệm của người dân trong
việc tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
3. Thiếu sót, khuyết điểm trong công tác đấu tranh chống tham
nh
ũng
3.1. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ đảng, chính quyền, từ
trung ương đến cơ sở đối với công tác phòng, chống tham nhũng chưa kiên
quyết và chưa tập trung đúng mức; ở một số tổ chức đảng, sức chiến đấu
thấp, có nơi bị tê liệt; không ít cán bộ lãnh đạo còn nể nang, né tránh, dung
túng, bao che cho các hành vi tham nhũng, lãng phí.
3.2. Chính sách, giải pháp phòng, chống tham nhũng vẫn còn nửa
vời, thiếu nhất quán, tính khả thi còn thấp; một số văn bản có những quy
định không hợp lý hoặc lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung
(6)
.
3.3. Việc thực hiện các quy định về phòng, chống tham nhũng, chưa
nghiêm túc, thiếu thường xuyên, lời nói chưa đi đôi với việc làm, vẫn còn
tình trạng nói nhiều làm ít
(7)
.
3.4. Các cơ quan có chức năng chống tham nhũng chưa thật sự trong
sạch, vững mạnh, chưa đủ khả năng làm lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu
tranh; năng lực chuyên môn của một số cán bộ, công chức còn hạn chế,
không ít cán bộ, công chức thiếu bản lĩnh và tính chiến đấu, một số bị tha
hoá, thậm chí tiếp tay, bao che, bảo kê cho bọn tội phạm. Cơ chế chỉ

đạo và
sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan này thiếu chặt chẽ, vừa chia cắt,
phân tán, vừa chồng chéo, hiệu quả thấp
(8)
.
3.5. Nhiều vụ tham nhũng nghiêm trọng chậm được phát hiện; việc
xử lý chưa kịp thời, nghiêm minh, có khuynh hướng muốn xử lý hành
chính, xử lý nội bộ.

(
6
)
Một số chủ trương như xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị nếu để xảy ra tham
nhũng; tiền tệ hoá thu nhập của cán bộ, công chức; bảo đảm cho công chức có thể sống được bằng tiền
lương; bảo vệ an toàn cho người tố cáo tham nhũng v.v… chưa được quy định cụ thể. Các quy định về
những điều đả
ng viên không được làm; kê khai tài sản; cấm sử dụng công quỹ làm quà biếu cũng có
những nội dung thiếu chặt chẽ, không có tính khả thi và thiếu chế tài xử lý vi phạm. Pháp luật Nhà nước ta
chưa quy định kịp thời, đầy đủ những hành vi tham nhũng mới xuất hiện hoặc những biện pháp cần thiết để
phát hiện, xử lý có hiệu quả các hành vi tham nhũng. Ví dụ: chưa có quy định về hành vi làm giầu bất
chính, ch
ưa có các quy định về kỹ thuật điều tra đặc biệt, về xử lý đơn tố cáo nặc danh hoặc giấu tên, về
nghĩa vụ giải trình về tài sản của công chức
(
7
)
Chúng ta có quy định cấm sử dụng công quỹ để biếu xén và các quy định về chi tiêu hội nghị, tiếp
khách, mua xe ô tô, đấu thầu, các quy định về công khai tài chính, thực hiện dân chủ ở cơ sở nhưng rất
nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân không thực hiện nghiêm túc.
(8)

Theo tổng kết của ngành Công an thì chúng ta chỉ phát hiện được khoảng 5% số vụ việc tham nhũng xảy
ra trong thực tế.
Những thiếu sót, khuyết điểm nói trên làm cho cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu mà chúng ta đề ra;
chưa tạo được những chuyển biến cơ bản.
Nghiên cứu về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng vốn là một
vấn đề hết sức khó khăn. Tuy nhiên quá trình triển khai nghiên cứu đề tài
này lại có những thuận lợi nhất định. Đó là việc nghiên cứu được tiến hành
trong bối cảnh vấn đề tham nhũng đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn
Đảng và toàn dân ta. Một thuận lợi to lớn khi nghiên cứu vấn đề này là cùng
với việc ban hành và triển khai mạnh mẽ Luật phòng, chống tham nhũng,
Đảng đã quyết định ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Chính trong
quá trình thảo luận và xây dựng Luật và Nghị quy
ết, có rất nhiều vấn đề vốn
là nội dung đang được nghiên cứu trong Đề tài này đã được thảo luận, tranh
luận hết sức sôi nổi. Một mặt những kết quả nghiên cứu đã được thẩm định
và không ít giải pháp đã được vận dụng ở những mức độ khác nhau trong
nội dung của Luật và Nghị quyết. Mặt khác có những vấn đề được nêu ra
trong quá trình th
ảo luận xây dựng Luật và Nghị quyết cần thiết phải tiếp
tục nghiên cứu một cách thấu đáo hơn đã trở thành những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục được nghiên cứu. Bản thân các đồng chí trong Ban chủ nhiệm đề tài
cũng là những thành viên của Ban Chỉ đạo xây dựng Nghị quyết, Ban soạn
thảo Luật và trực tiếp tham gia Tổ biên tập của Luậ
t và Nghị quyết. Vì vậy
nhiệm vụ của đề tài này là tiếp tục phân tích và nêu ra các giải pháp cụ thể
trên cơ sở bảo đảm các luận cứ khoa học cả về lý luận và thực tiễn của nó
và tất nhiên cũng sẽ đưa ra cả những giải pháp mới có thể thực hiện ngay
hoặc cần thực hiện trong những năm tiếp theo với một tinh thần kế thừa và

phát triển.
Một thuận lợi nữa của việc nghiên cứu đề tài cần nhắc đến là trong
thời gian vừa qua, phục vụ cho việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp hợp
quốc về chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ đã tiến hành rà soát hệ
thống pháp luật Việt Nam để đánh giá thuận lợi khó khăn khi chúng ta phê
chuẩn chính thức. Quá trình này chúng ta cũng thu nhận được nhiều thông
tin bổ ích về kinh nghiệm phòng chống tham nhũ
ng của các nước và các tổ
chức quốc tế
Hầu hết các vấn đề liên quan đến tham nhũng và đấu tranh chống
tham nhũng nhìn từ bình diện Việt Nam và Quốc tế, từ khía cạnh chính trị và
pháp quyền, từ nhận thức xã hội và quan điểm khoa học đã góp phần vào
quá trình tìm ra các giải pháp phòng, chống tham nhũng trên từng lĩnh vực
cụ thể cũng như tạo cơ sở để xây d
ựng một chiến lược phòng, chống tham
nhũng có hiệu quả phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam, vì một nhà
nước của dân do dân và vì dân với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh.
B/ MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG
I. Mục tiêu, quan điểm phòng, chống tham nhũng.
Trong những năm tới, với những biện pháp đấu tranh chống tham
nhũng mạnh mẽ và thường xuyên hơn, có thể tình trạng nhũng nhiễu, tham
nhũng nhỏ lẻ có thể giảm nhưng tham nhũng lớn với thủ đoạn tinh vi, có
mối liên hệ quốc tế và với các loại vi phạm, tội phạm khác sẽ còn diễn biến
phức tạp, nghiêm trọng, thậm chí có khả năng gia tăng trên một số lĩnh vực.
Đây là vấn đề mà chúng ta cần có dự
báo để có thái độ bình tĩnh và giải
pháp có hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng. Xuất phát từ tình hình cụ thể
của nước ta, đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam mà đề ra các giải pháp

toàn diện và có tính khả thi, phải tính cả đến các giải pháp trước mắt và giải
pháp lâu dài ; cả về con người và thể chế pháp luật hình thành một khung
chiến lược cho cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta
1.1 Mục tiêu:
Các giải pháp mà chúng ta thực hiện phải ngăn chặn, kiềm chế, từng
bước đẩy lùi tham nhũng; tạo bước chuyển biến rõ rệt trong cuộc đấu tranh
chống tệ nạn này trong cả bộ máy nhà nước và xã hội, góp phần củng cố
lòng tin của nhân dân vào đường l
ối chính sách của đảng và các cơ quan nhà
nước, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xã hội công khai, minh bạch, dân chủ,
kỷ cương, đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính.
Trước mắt, hạn chế xảy ra tham nhũng lớn, nghiêm trọng; giảm hẳn
lãng phí, nhũng nhiễu, tham nhũng nhỏ, lẻ, nhất là trong các lĩnh vực cung
cấ
p dịch vụ công, tạo ra một bước chuyển căn bản về nhận thức và hành
động của cán bộ, công chức trong mối quan hệ giữa công dân và các cơ
quan hành chính nhà nước.
1.2 Quan điểm và những định hướng lớn trong phòng, chống
tham nhũng:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và của toàn dân; kết hợp đồng bộ
các biện pháp chính
trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự;
- Vừa tích cực, chủ động phòng ngừa, vừa kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. Gắn phòng, chống tham nhũng,
với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm,
chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu;
- Phòng, chống tham nhũng vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm
vụ lâu dài, phải tiế

n hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi
vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm;
- Kế thừa kinh nghiệm của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của quốc tế về phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Công tác phòng, chống tham nhũng được coi là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị, trong cuộc đấu tranh này cần có quyết tâm chính trị và sự
gương mẫu của các cán bộ dảng viên, nhất là những người giữ cương vị
lãnh đạo, cần có sự hoạt động tích cự
c, có hiệu qủa của toàn bộ các cơ quan
nhà nước và đội ngũ cán bộ công chức nhà nước và nhất là phải được sự
ủng hộ, tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân, của các
phương tiện thông tin đại chúng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng
mà kết quả nghiên cứ của đề tài có được đã thể hiện vai trò và trách nhiệm
của tất cả các yếu tố quan trọng đem lại hiệu qu
ả của công tác này.
II. Các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng
Trước hết nói về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu
tranh đấu tranh phòng chống tham nhũng thì có thể có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Đấu tranh chống tham nhũng thường được bàn đến các biện
pháp nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để vụ lợi. Trên thực tế việc phân biệ
t các mảng hoạt động với các
mục đích khác nhau như vậy cũng chỉ mang tính chất hết sức tương đối mà
thôi. Chẳng hạn nếu chúng ta có một cơ chế phát hiện hữu hiệu và một thái
độ xử lý nghiêm khắc tham nhũng thì điều đó cũng giúp cho việc không để
xảy ra những hành vi tham nhũng mới (mà chiến lược của Sinhgapo cho là
sẽ không dám tham nhũng), tức là có tác dụng phòng ngừa to lớn, ho
ặc hoạt
động thanh tra, như Điều 2 của Luật thanh tra qui định có “mục đích phòng
ngừa, phát hiện và xử lý” hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có hành vi

tham nhũng…Tuy nhiên trong một chừng mực nhất định thì có những biện
pháp thể hiện rõ, nhấn mạnh mục tiêu phòng ngừa tham nhũng, chẳng hạn
công tác giáo dục đạo đức tư tưởng hay việc hoàn thiện cơ chế chính sách
pháp luật về quản lý kinh tế-xã hội, hoặc mục đích phát hiện (hoạt động
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, việc tiếp nhận và giải quyết tố cáo tham
nhũng…) hay mục đích xử lý (các chế tài thể hiện chính sách hình sự…)
Một vấn đề nữa có ý nghĩa phương pháp luận khi muốn đưa ra một hệ
thống các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng thì cần thống nhất bắt đầu
từ yếu tố nào? yếu tố nào có thể được lựa chọn làm trung tâm cho hệ thống
các giải pháp đó?
Các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng có thể
hiểu một cách đơn giản là những biện pháp tác động vào các yếu tố, đối
tượng…để tham nhũng không xảy ra hoặc đã xảy ra thì bị phát hiện nhanh
chóng, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc. Nhìn về phương diện khoa
h
ọc thì các yếu tố đó có thể sẽ bao gồm chủ thể của sự tác động, đối tượng
của sự tác động, phương thức tác động…Chẳng hạn, nêu căn cứ vào chủ thể
tiến hành các biện pháp thì có thể lần lượt nghiên cứu vai trò và hiệu quả
hoạt động của các thành tố trong hệ thống chính trị tiếp đến là các cơ quan
chức năng được coi là có trách nhiệm trự
c tiếp đến đấu tranh chống tham
nhũng (mà chúng ta vẫn thường gọi là các cơ quan nội chính…) Nếu căn cứ
vào đối tượng tác động thì có thể lấy đối tượng là cán bộ, công chức hoặc
nói rộng ra là những người thay mặt nhà nước thực hiện quyền lực, bởi vì
đây là nhóm đối tượng có nguy cơ tham nhũng nhất vì tham nhũng luôn gắn
với yếu tố lợi dụng quyền lực t
ừ đó kiểm soát quyền lực là một biện pháp
đấu tranh chống tham nhũng…Nếu coi phương thức của sự tác động là quan
trọng thì lại có thể nhìn nhận từ hệ thống pháp luật, bao gồm cả pháp luật
quản lý và pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự…

Trên thực tế sẽ rất khó để sắp xếp các giải pháp phòng, chống tham
nhũng chỉ theo trật tự logic duy nhất mà cầ
n có sự kết hợp tất cả các yếu tố
vừa nêu trên bởi vì ngay trong bản thân từng yếu tố khi bàn đến cũng có
những khía cạnh liên quan đến yếu tố khác của cùng vấn đề.
Và cuối cùng một yêu cầu không thể không nhắc đến đó là các giải
pháp phải bảo đảm tính hệ thống và tính toàn diện bởi vì tham nhũng vốn là
hiện tượng hết sức phức tạp trong đó có cả yếu tố chính trị và kinh tế, văn
hoá, xã hội…Chỉ
có như thế các giải pháp đưa ra mới bảo đảm được tính
hiệu quả khi áp dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan và toàn diện thực trạng
tham nhũng ở Việt Nam và những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng tham
nhũng hiện nay, nhóm nghiên cứu đã đưa ra những định hướng lớn cho cuộc
đấu tranh nhằm ngăn chặn và đẩy lùi quốc nạn tham nhũng
ở nước ta hiện
nay, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể trên các phương diện hoạt động của
nhà nước cũng như toàn xã hội để nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham
nhũng. Ở đây chúng tôi nêu ra các kiến nghị và phân tích các giải pháp chủ
yếu để phòng, chống tham nhũng.
Các giải pháp phòng, chống tham nhũng sẽ được thực hiện trong một
tổng thể thống nhất và mỗi giả
i pháp có ý nghĩa cũng như yêu cầu riêng.
Các định hướng đưa ra sắp xếp theo trật tự phòng ngừa, phát hiện và xử lý
tham nhũng thì các kiến nghị về những giải pháp lại được sắp xếp theo
nhóm vấn đề hoặc đối tượng có liên quan cần tác động. Cụ thể như sau:
2.1 Các giải pháp về giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống
và nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệ
m của đảng viên, cán bộ, công
chức.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, mang tính cơ bản lâu dài mà
lâu nay chúng ta chưa thực sự coi trọng. Mặc dù luôn đề cao công tác giáo
dục đạo đức chính trị tư tưởng nhưng có thể thẳng thắn mà thừa nhận rằng ở
nhiều nơi, nhiều lúc công tác này còn được làm rất hình thức qua loa, chiếu
lệ và hậu quả rất thấp. Giữa nói và làm, giữa nghị quyết của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và cuộc sống, giữa chủ trương, biện pháp đề ra và thực tiễn
thi hành còn một khoảng cách khá xa. Chính vì vậy chúng ta cần phải đổi
mới cả tuy duy và cách làm trong việc giáo dục đạo đức chính trị tư tưởng,
trong tuyên truyền giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân để nâng cao
nhận thức và ý thức trách nhiệm trong phòng chố
ng tham nhũng
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống
tham nhũng, nhất là Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí. Toàn thể cán bộ, đảng viên phải đạt tới một nhận thức
thống nhất và đầy đủ về những tác động tiêu cực của tham nhũng đố
i với sự
phát triển đất nước nói chung, đối với đạo đức, công lý và công bằng xã hội
nói riêng. Tất cả các trường đào tạo về chính trị, hành chính và bồi dưỡng
cán bộ, công chức của các bộ, ngành, địa phương phải có nội dung đào tạo
về sự liêm chính trong hoạt động công vụ. Phải coi vấn đề nhận thức về
tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng là những yêu cầu không thể

thiếu đối với mọi công chức nhà nước nhất là những người giữ vị trí lãnh
đạo, quản lý.
Tiến hành cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” về chống tham ô, lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân vị kỷ,
làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về yêu cầu học tập và làm
theo tấm gương đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
”; tạo nên

phong trào tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,
công chức góp phần đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và tệ tham nhũng, tiêu cực trong xã hội.
Tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
trong đó nhấn mạnh những nội dung về phòng, chống tham nhũng. Ngày 7
tháng 11 năm 2006, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị về tổ chức cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với mục đích làm
cho toàn đảng toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá
trị to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; tạo s
ự chuyển biến mạnh mẽ ý
thức tu dưỡng rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu
rộng trong toàn xã hội, đặc biệt là trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức nâng cao đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và các tệ nạn xã
hội. Đây có coi là một thuận lợi hết sức to lớn tạo nề
n tảng cho công tác
giáo dục đạo đức góp phần đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả trên
mặt trận văn hoá, tư tưởng.
Đảng viên, cán bộ, công chức, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cam
kết không tham nhũng, không khoan nhượng với bất cứ hành vi tham nhũng
nào, kể cả với người thân của mình; vận động, giáo dục thành viên trong gia
đình, người thân không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để v
ụ lợi;
giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên, công chức dưới quyền để họ không
tham nhũng và không tiếp tay cho tham nhũng.
Trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng cần đặc biệt coi trọng việc
đa dạng hoá các hình thức và xây dựng các chương trình nội dung tuyên
truyền giáo dục phù hợp với mỗi loại đối tượng khác nhau, đặc biệt cần gắn
bó nội dung tuyên truyền giáo dục với thực tiễn cuộc s

ống và những đặc
điểm về truyền thống, tâm lý của các đối tượng khác nhau để bảo đảm
hiệu quả của công tác này. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống, lý tưởng, sự
mẫn cán, liêm chính của những người cán bộ công chức, tính tiên phong
gương mẫu của người đảng viên, người lãnh đạo Cuộc vận động này phải
được làm thường xuyên sâu rộng, tránh hình thức « đầu voi đuôi chuột »,
tranh khô khan cứng đờ, sáo rỗng vốn là hình ảnh hiện nay của công tác
giáo dục, tuyên truyền
Nâng cao khả năng « tự đề kháng, tự miễn dịch » trước những tác
động tiêu cực từ bên ngoài xã hội và sự cám dỗ của tiền bạc vật chất cùng
lối sống vị kỷ tầm thường, tạo yếu tố nội sinh, thái độ vững vàng của cán
bộ, đảng viên trước mọi tình huống.
2.2 Các giả
i pháp nhằm tăng cường kiểm soát hoạt động công vụ của
cơ quan, tổ chức và kiểm soát cán bộ công chức
Mặc dù tham nhũng đang có những diễn biến mới phức tạp khi chúng
ta chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhưng xuất phát từ đặc trưng cơ bản của tham
nhũ
ng là phải dựa trên yếu tố quyền lực cho nên sự tác động trước hết phải
nhằm vào các cơ quan tổ chức và cán bộ công chức nhà nước. Cụ thể hơn là
phải tăng cường sự kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước và cán bộ
công chức nhà nước những người được giao thực thi quyền lực. Ở nước ta
quyền lực không chỉ do các cơ quan nhà nước thực hi
ện mà còn thông qua
hệ thống chính trị mà luật gọi chung là cơ quan, tổ chức đơn vị, với đội ngũ
cán bộ, công chức, bao hàm những người làm việc trong các cơ quan nhà
nước, tổ chức đảng, đoàn thể và cả doanh nghiệp của nhà nước. Chúng ta
thường gọi chung là "khu vực nhà nước". Công khai minh bạch để đặt hoạt
động của bộ máy nhà nước dưới sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ. Sự kiể

m
soát, giám sát đó có thể là từ bản thân các cơ chế có tính chất nhà nước
mang tính quyền lực và quan trọng hơn nữa là sự giám sát của xã hội, của
nhân dân như tinh thần của Hiến pháp. Muốn xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân thì mọi cơ quan, tổ chức ,
cán bộ công chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, phục vụ tận tuỵ nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Ở đây xin được nêu ra một số giải pháp
chủ yếu như sau:
2.2.1 Tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động công
quyền: Công khai minh bạch là biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm phòng
ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Kinh nghiệm của các nước đã cho
thấy điều này và bản thân công ước của Liên hiệp quốc về chống tham
nhũng cũng nhấn mạnh tính cần thi
ết của biện pháp công khai minh bạch
trong hoạt động công quyền. Hiện nay trong quá trình đổi mới, chúng ta
cũng thường xuyên nói đến công khai dân chủ. Vì vậy cần phải có những
biện pháp cụ thể để thực hiện nguyên tắc công khai minh bạch trong hoạt
động của cơ quan tổ chức. Nói một cách khác cần phải cơ chế hoá công khai
minh bạch, từ việc qui định trách nhiệm và phương thức công khai đến các
biện pháp bảo đảm quy
ền yêu cầu cung cấp thông tin của người dân để qui
định của Luật phòng, chống tham nhũng được thực hiện trên thực tế.
2.2.1.1 Thực hiện nguyên tắc mọi hoạt động của cơ quan tổ chức phải
công khai trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước.
Để thực hiện nguyên tắc này thì cần có cơ quan nhà nước kiểm soát
việc xác định danh mục bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác (nhữ
ng nội
dung không công khai) để tránh sự tuỳ tiện trong việc xác định những nội
dung bí mật, cản trở thực hiện nguyên tắc công khai minh bạch. Đề nghị
giao cho Thanh tra Chính phủ, phối hợp với Bộ Công an và Bộ Nội vụ giúp

Chính phủ xem xét danh mục các nội dung bí mật do các cơ quan, tổ chức
đề nghị.
- Nội dung đó có thuộc nội dung bắt buộc phải công khai mà luật đã
xác định hay không?
- Nội dung đ
ó có cần thiết phải bí mật hay không?
2.2.1.2 Ban hành cơ chế công khai minh bạch và quyền tiếp cận của
công dân đối với thông tin về hoạt động của cơ quan tổ chức.
Đây là biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc công khai. Cần cụ thể
hoá trách nhiệm của các cơ quan tổ chức trong việc thực hiện công khai
trong hoạt động của cơ quan, tổ chức mình, qui định các hình thức công
khai bắt buộc hoặc lựa chọn. Nghiên cứ
u ban hành Luật về quyền tiếp cận
thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức của công dân như ở nhiều nước
trên thế giới đã có. Trong đó xác định quyền của người dân được tiếp cận,
sao chụp, khảo cứu các tài liệu thông tin của cơ quan tổ chức (không nằm
trong danh mục bí mật); trách nhiệm của cơ quan tổ chức trong việc cung
cấp hoặc trả
lời yêu cầu của công dân về thông tin liên quan đến trách
nhiệm của cơ quan tổ chức mình; trách nhiệm kỷ luật đối với cơ quan, tổ
chức hoặc người có trách nhiệm nếu vi phạm
Công khai, minh bạch là một chủ trương lớn để xây dựng xã hội dân
chủ, nhà nước pháp quyền, đồng thời là một chính sách, biện pháp rất quan
trọng để ngăn chặn tham nhũng. Cốt lõi của một nề
n dân chủ là sự tham gia
tích cực và có ý nghĩa của người dân vào các quyết định của Chính phủ
« Một Chính phủ của đại chúng mà không có thông tin rộng rãi hoặc không
có phương tiện để có được những thông tin đó thì chỉ là đoạn mở đầu của
một tấn bi kịch hoặc hài kịch hay có thể là của cả hai » (James Madison,
1822)

Quyền được thông tin cần được thực hiện theo hai hướng: một là Nhà
nước có nghĩa v
ụ chủ động cung cấp thông tin cho người dân và hai là
người dân có thể tự mình tiếp cận các thông tin hoặc yêu cầu nhà nước cung
cấp cho mình những thông tin mà mình muốn biết. Tuy từ hai hướng khác
nhau nhưng nó đều thể hiện một nguyên tắc nhất quán đó là nhà nước có
trách nhiệm cung cấp thông tin và công dân có quyền chờ đợi hay đòi hỏi
thông tin từ phía nhà nước.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta đã có nhiều quy định nhằm tăng
cường tính công khai, minh bạch trong các quá trình ra quyết định và thúc
đẩy sự tham gia của công chúng vào quá trình đó.
Nhìn chung, các quy định của pháp luật nước ta về bảo đảm tính công
khai, minh bạch và thúc đẩy sự tham gia của công chúng vào quá trình ra
các quyết định còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể và tính khả
thi chưa cao. Tính
công khai, minh bạch và sự tham gia của công chúng vào quá trình ra các
quyết định chủ yếu mới được thể hiện dưới dạng những quy định chung,
khái quát, có tính chất nguyên tắc, ít có những quy định cụ thể, chi tiết.
Nguyên tắc chung là: công dân có quyền giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước và công chức nhà nước; mọi cơ quan nhà nước và công chức
nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân; nhân dân có quyền tham gia ý kiến
xây dựng Nhà nước… nhưng việc cụ
thể hoá và biện pháp để thực hiện các
quyền này còn bất cập. Vì vậy, việc thực hiện các yêu cầu này trong thực
tiễn gặp nhiều khó khăn và kết quả còn hạn chế. Cần phải nghiên cứu để có
cơ chế phù hợp hơn, hiệu quả hơn.
Trong một nhà nước dân chủ một nguyên tắc phổ biến là công dân có
thể làm mọi điều mà pháp luật không cấm. Việc tiế
p cận thông tin cũng có
thể áp dụng nguyên tắc này: Công dân được quyền biết mọi thông tin nếu

những thông tin đó không thuộc bí mật nhà nước và việc thực hiện quyền
tiếp cận đó không ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Công ước của
Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam đã ký kết và trong quá
trình phê chuẩn đã có những nguyên tắc khá rõ ràng trong vấn đề này
1. Mỗi quốc gia thành viên của Công
ước, trong khả năng có thể và
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp nước mình, áp dụng các

×