Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tầm quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.4 KB, 29 trang )

phần i : Mở đầu
Đất nớc ta bớc vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền sản xuất cha vận
động theo con đờng bình thờng của nó. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một
nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lực lợng
sản xuất rất thấp kém. Nhng ngày nay khi độc lập dân tộc gắn kiền với
CNXH là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai cấp công nhân đã nắm quyền
lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cũng là lúc bắt
đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạnh XHCN ở nớc ta là một quá trình biến
đổi cách mạng toàn điện, sâu sắc và triệt để. đó là một quá trình vừa xoá bỏ cái
cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả cơ sở kinh tế lẫn kiến
trúc thợng tầng mới, tạo ra của cải đời sồng vật chất mới lẫn đời sống tinh thần
và văn hoá mới. Do đó, trong quá trình đi lên CNXH chúng ta phải tiến hành
công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nớc.theo quan điểm của ban chấp hành trung -
ơng Đảng khoá VII đã khẳng địnhCông nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình
chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản
lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến
hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ
tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quan điểm này đã gắn công nghiệp hoá
với hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai trò khoa học-công nghệ là then chốt
đẩy mạnh công nghiệp hoá. Trong điều kiện giao lu kinh tế giữa các nớc cha đợc
mở rộng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nớc cha phát triển mạnh mẽ
phảitự lực cánh sinh thì đó chính là một trình tự hợp lí để tiến hành công
nghiệp hoá. Song hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác
động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới khoảng thời gian để phát
minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng đợc rút ngắn lại, xu hớng
chuyển giao công nghệ giữa các nớc ngày càng trở thành đòi hỏi cấp bách,
không chỉ đối với các nớc lạc hậu, mà ngay cả đói với các nớc phát triển. Thực tế
cho thấy có thể chuyển giao một cách có hiệu quả cho các nớc đi sau khi mà các
nớc đi sau đã có sự chuẩn bị kĩ càng để đón nhận. Vấn đề đặt ra là các nớc đi sau
trong đó có nớc ta cần phải làm ngững gì đẻ iếp nhận một cách có hiệu quả nhất


những thành tựu mà các nớc đi trớc đã đạt đợc. Bài học thành công trong quá
trình công nghiệp hoá của các nớc NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu
kinh tế theo hớng mở cửa với bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có chọn lọc
những thành tựu của các nớc đi trớc kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng

1
khoa học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đờng ngắn nhất, có hiệu quả
nhất quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.


2
chơng I: cở sở lý luận
1. Nội dung khoa học công nghệ
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung phong
phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau:
- Cách mạng về phơng pháp sản xuất: đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi tự
động nh trớc đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi ng-
ời máy thay thế con ngời trong quá trình vận hành sản xuất.
- Cách mạng về năng lợng: bên cạnh những năng lợng truyền thống mà
con ngời sử dụng trớc kia nh nhiệt điện, thuỷ điện thì ngày nay con ngời càng tạo
ra nhiều năng lợng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất nh năng lợng
nguyên tử, năng lợng mặt trời.
- Cách mạng về vật liệu mới : ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự
nhiên, con ngời ngày càng tạo ra nhiều vật liệu tự nhiên, con ngời ngày càng tạo
ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật tự nhiên khi mà
các vật liệu tự nhiên đang có xu hớng ngày càng cạn dần .
- Cách mạng về công nghệ sinh học, các thành tựu của cuộc cách mạng
này đang đợc áp dụng rông rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế,
hoá chất, bảo vệ môi trờng sinh thái.
- Cách mạng về điện tử và tin học : đây là lĩnh vực hiện nay loài ngời đang

đặc biệt quan tâm trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử.
Nh vậy, khoa học công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó
không chỉ là các phơng tiện, thiết bị do con ngời sáng tạo ra mà còn là các bí
quyết biến các nguồn lực có sẵn thành sản phẩm. Với ý nghĩ đó khi mói tới công
nghệ thì sẽ cũng bao hàm cả kỹ thuật. đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khoa
học, kĩ thuật luôn nắn bó chặt chẽ với nhau : khoa học là tiền đề trực tiếp của
công nghệ và công nghệ lại là kết quả của khoa học.
2. Vai trò của khoa học công nghệ
Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức đợc rằng
khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát
triển. Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu đợc trông đời sống kinh tế
văn hoá của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở
lên đặc biệt quan trọng đối với nớc ta đang trên con đờng rút ngắn giai đoạn phát
triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt đầu tiến hành công
cuộc đổi mới đất nớc, Đảng ta đã xác định khoa học và công nghệ là cái giữ vai
trò quan trọng trong sự phát triển lực lợng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý,

3
bản đảm chất lợng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc vì mục tiêu dân giàu nớc mạnh xã hội công bằng, văn minh, khoa
học và công nghệ phải trở thành quốc sánh hàng đầu.
Nớc ta đang bớc vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH. Nghị quyết Trung ơng hai của Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá VIII
đã xác định rõ :CNH- HĐH đất nớc phải bằng và dựa vào khoa học và công
nghệ khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH-
HĐH. Chỉ bằng con đờng CNH- HĐH, phát triển khoa học và công nghệ mới
có thể đa nớc ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nớc giàu mạnh văn minh.
Việc đa khoa học và công nghệ, trớc hết là phổ cập những tri thức khoa học và
công nghê cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu cầu cấp thiết của
xã hội ta hiện nay. Nghị quyết trung ơng II cũng đã nhấn mạnh phải thật sự coi

Sự phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, phát
huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng. Bởi lẽ dù chúng ta có tiến hành
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đa trang thiết bị kỹ thuật tân tiến
nhất, những quy trình công nghệ hiện đại nhất vào nớc ta thì cũng không có gì để
có thể bảo đảm đẩy mạnh đợc CNH- HĐH. Nếu không có đợc những con ngời
am hiểu và sử dụng chúng. Do đó, xã hội hoá tri thức khoa học và công nghệ là
một trong những nhu cầu thiết thực và cấp bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp
CNH- HĐH đất nớc.
Phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình phát triển và nâng cao
trình độ công nghiệp. Việc nâng cao trình độ công nghệ đợc thực hiện trong quá
trình điện khí hoá, cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá và sinh học
hoá. Trong các ngành lĩnh vực kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế, các
vùng kinh tế của đát nớc trong đó cần u tiên đa ngành công nghệ hiện đại thích
hợp vào các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ mũi
nhọn trọng điểm, đạt hiệu quả kinh tế cao, tích luỹ nhanh và lớn. Có nh vậy mới
tạo khả năng thu hút và thúc đẩy CNH- HĐH các ngành, các lĩnh vực và các
thành phần kinh tế.

4
chơngII: cơ sở thực tiễn
1. Sự cần thiết phải phát triển KH- CN
Cách mạng KH- CN đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nớc phát triển, tức
là ở những nớc đã trải qua thời kì cách mạng công nghệ, đã xác lập đợc nền sản
xuất cơ khí hoá đã có nền KH và CN tiên tiến. Tuy nhiên, nó không chỉ hạn chế
trong ranh giới của các nớc phát triển mà ảnh hởng của nó đang lan ra tất cả các
nớc trên thế giới . Có thể nói cách mạng KH- CN là một hiện tợng toàn cầu, hiện
tợng quốc tế sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả dân tộc và các quốc gia trên trái
đất
Là một hiện tợng toàn cầu, cuộc mạng KH- CN mang trong bản thân nó
những qui luật chung, phổ biến, chúng tác động vào tất cả các loại hình cách

mạng KH- KT. Nhng mặt khác, mỗi nớc tiến hành cuộc cách mạng này trong
những điều kiện riêng của đất nớc mình cho nên cách mạng KH- KT ở những n-
ớc khác nhau cũng mang những màu sắc, những đặc điểm khác nhau. Do đó, khi
xem xét cuộc cách mạng KH- KT ở nớc ta cần phải đặt nó trong bối cảnh chung
của cách mạng KH- KT trên thê giới.
Sau khi giành đợc độc lập về chính trị, nớc ta có nguyện vọng sử dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại, muốn tiến hành cuộc
cách mạng đó để phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật để đa đất nớc
ta khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Nguyện vọng đó là hoàn toàn chính
đáng. Tuy nhiên, việc tiến hành cách mạng KH- CN ở nớc ta gặp phải những khó
khăn lớn, do nhiều nguyên nhân
Trớc hết, nớc ta còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và công
nghệ. Nông nghiệp và công nghiệp cha hết hợp thành một cơ cấu thống nhất, sự
mất cân đối trong các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm trọng
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ thì số đông dân c nớc ta vẫn ở
tình trạng mù chữ, thiếu lực lợng lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu cán
bộ văn hoá và kỹ thuật. Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh đã gây ra những
khó khăn cho việc bảo đảm lơng thực, giải quyết công ăn việc làm cho những
ngời lao động
Ngoài những khó khăn trong nớc, nớc ta còn phải chịu những di sản nặng
nề do sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để kại, đồng thời
các cờng đế quốc lại đang thực hiện chính sách kìm hãm sự phát triển khoa học
và kỹ thuật nhằm duy trì tình trạng bất bình đẳng của họ trong sự phân công lao
động quốc tế

5
Nếu nớc ta sau khi đã đợc giải phóng khỏi sự nô dịch của chủ nghĩa đế
quốc, lại chọn con đờng phát triển t bản chủ nghĩa hoặc đứng giữa ngã ba đờng
trong việc lựa chọn phơng hơng phát triển xã hội dù chúng ta có sự cố gắng nh
thế nào đi nữa trong việc sử dụng những thành tựu KH- CN hiện đại thì chúng ta

cũng không thoát khỏi địa vị phụ thuộc vào các nớc đế quốc về mặt KH- CN và
do đó phụ thuộc về mặt kinh tế, không thể khắc phục đợc những mâu thuẫn xã
hội do tiến bộ khoa học và kỹ thuật gây ra, không thể tiến hành thành công cuộc
cách mạng KH- CN
Do đó, điều kiện kiên quyết để tiến hành cách mạng KH- CN ở nớc ta là
phải tiến hành cải tạo xã hội sâu sắc, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa
thực dân mới và các thế lực phản động để đi lên CNXH.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ nớc ta b-
ớc đầu có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền khoa học và kỹ
thuật nớc ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển cha đáp ứng đợc
yêu cầu của đất nớc
Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nớc tiên tiến nhất trên thế giới,
chúng ta lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nớc tiên tiến ở mức trung bình ta
lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học công nghệ
ở nớc ta không chỉ đợc coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi hỏi bức xúc
để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ bản n-
ớc ta trở thành nớc công nghiệp. Khác với các nớc đi đàu, công nghiệp hoá nớc
ta đòi hỏi phải thực hiện rút ngắn. chỉ có nh thế, chúng ta mới có thể sớm rút
ngắn đợc khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nớc phát triển. Công nghiệp hoá
phải gắn liền với hiện đại hoá
Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trờng cũng đòi hỏi
chúng ta phải phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh tế thị
trờng hiện đại từ điểm xuất phát thấp, nớc ta không thể đi theo các bớc tuần tự
nh các nớc đi trớc đã làm, mà phải phát triển theo kiểu nhảy vọt,rút ngắn.
Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của nớc phát triển sau, vừa là thách thức
đòi hỏi phải vợt qua. Muốn phát triển nhanh kinh tế thị trờng theo cách thức nh
vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học- công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nớc ta không chỉ bắt

nguồn từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và quá trình phát triển kinh tế thị trờng, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát triển

6
đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Phát triển theo định hớng xã hội chủ
nghĩa, về bản chất, là một kiểu định hớng tổ chức nền kinh tế- xã hội vừa dựa
trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trờng, vừa dựa trên nguyên tắc và mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định hớng này không chỉ đòi hỏi nền kinh tế tăng tr-
ởng ở mức cao mà còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh.ở đó, phát triển con ngời và phát triển xã hội bền vững đợc coi là trung
tâm. Đâu là con đờng phát triển chacó tiền lệ. Muốn đạt tới đó, chúng ta phải có
nỗ lực và sáng tạo rất cao, phải biết vận dụng những thành tựu mới nhất của nhân
loại, tránh những sai lầm mà các nớc khác đã vấp phải. Nếu không đủ trình độ trí
tuệ, không đủ năng lực nội sinh thì khó có thể thành công. Do vậy, đẩy mạnh
phát triển khoa học và kỹ thuật càng trở nên rất quan trọng và bức thiết.
2.Về hớng tác động của KH- CN
a. Tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo, đồng bộ, hoá và hiện đại hoá có
chọn lọc các cơ sở sản xuất hiện có
Tuy cơ sở vật chất- kỹ thuật có của nớc ta còn nhỏ bé, trình độ công nghệ,
kỹ thuật vào loại lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị và công suất còn thấp. Bởi vậy,
nguồn dự trữ còn khá lớn và dới nhiều góc độ, đây thật sự đang là nguồn vốn quý
của đất nớc và phải bắt đầu từ đây để đi lên
b. Chủ động sử dụng có chọn lọc một số hớng công nghệ tiên tiến phù hợp
với thế mạnh của đất nớc nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển các ngành có
hàm lợng công nghệ cao
ở nớc ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu quả cơ
sở vật chất- kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần tiềm lực
d lớn cho việc thử nghiệm, lựa chọn một sồ hớng công nghệ cao phù hợp để một
mặt, hỗ trợ cho việc giải quyết có hiệu quả hơn, mặt khác thúc đẩy việc hình
thành một số lĩnh vực sản xuất công nghệ cao với quy mô phù hợp để tạo ta các

sản phẩm thay thế nhập và tạo chỗ đứng trên thị trờng quốc tế.
Trong số những hớng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu tin học
hoá một số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong việc đầu t
phát triển một số lĩnh vực sản xuất gắn với các hơng u tiên của chơng trình tổng
hợp tiến bộ KH- CN. Đó là dịp tốt để VN tham gia vào phân công lao động quốc
tế về một số sản phẩm có hàm lợng khoa học cao
c. Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp
nhỏ, của khu vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn.
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng để có thể thực hiện có hiệu quả chiếm
lợc này, việc nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu về công nghệ, sự yêú kém về
năng lực quản lý, sự thiếu hụt về lực lợng lao động có kỹ thuật là yêu cầu bức

7
bách phải giải quyết .Bởi vậy việc giành một phần nỗ lực đủ mạnh hớng vào việc
giải quyết các nhu cầu khoa học và công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp
nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt
Những phân tích nêu trên đã tới gợi ý quan trọng là chiến lợc phát triển
khoa học và kỹ thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình độ kỹ
thuật và công nghệ ,cải tiến và nên coi đây là một hớng có ý nghĩa chiến lợc cả
trớc mắt và lâu dài .
d.Kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trớc mắt và tiếp
tục tăng cờng tiềm lực khoa học và kỹ thuật nhằm đáp ứng những yêu cầu
mới của giai đoạn phát triển tiếp theo
3. Vai trò của KH- CN đối với một số lĩnh vực
a. Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển
nông thôn
Gần 20 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt đợc
những thành tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế xã hội
đa nớc ta bớc sang giai đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất n-
ớc.Tuy nhiên cho đến nay với gần 80% dân số của cả nớc sống ở nông thôn,

trong đó tỷ lệ đói nghèo vẫn còn trên 22%, có nơi nh ở một số huyện miền núi
còn trên 42%(theo chuân ngheò mơí). Mặt khác cũng do nền kinh tế nớc ta mới
bớc đầu chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN nên năng suất, chất lợng và sức cạnh
tranh của nông sản, hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nớc trong khu vực và thế
giới. Điều đó làm cho thu nhập và tích luỹ của đại bộ phận dân c nông thôn còn
bấp bênh, sức mua có khả năng thanh toán về t liệu sản xuất và t liệu tiêu dùng
đều rất hạn chế, gây ảnh hởng lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền
kinh tế, đồng thời gây cản trở việc, phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn
nông thôn
So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ yêu cầu
vốn đầu t không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá chung, trong
nông nghiệp ớc tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lơng thực thời gian vừa qua là
do ngời dân tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới vào sản xuất
Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nớc ta cha đợc phát huy đầy đủ cho sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc của sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn đặt ra đối với các lực lợng KH- CN đến nay
cha giải quyết đợc, trong đó đáng lu ý hơn cả là :
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung quan
trọng trong quá trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà sự

8
chuyển đổi đó phụ thuộc vào việc tổ chức áp dụng thành tựu KH- CN vào sản
xuất và các chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở có đủ giống
tốt và các tiến bộ kỹ thuật khác, kết hợp với việc phát triển các quan hệ thị trờng
đúng hớng mới có thể chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc
canh sang đa dạng hoá cây trồng. Hiện nay việc chuyển đổi kinh tế nông thôn từ
nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện ở một số ven vùng có
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, có trình độ dân trí cao, có khả năng tiếp thu các tiến bộ
kỹ thuật

-Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy
chiếm gần 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nớc, nhng nhìn chung,
năng suất, chất lợng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn thấp so với
các nớc trong khu vực và trên thế giới, khiến cho các sản phẩm làm ra tiêu thụ
khó khăn, ảnh hởng bất lợi đến thu nhập của ngời sản xuất. KH-CN cha có sự tác
động cần thiết và hiệu quả bản đảm tính ổn định, bền vững của nông sản hàng
hoá khi gặp phải rủi ro của thiên tai và thị trờng
- Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình thực
hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhng phát triển công nghiệp, chế biến
nh thế nào lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
- Gần đây, Nhà nớc tiếp tục tăng cờng đầu t xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo
đảm hiệu quả vốn đầu t của nhà nớc cha đợc giải quyết tốt. Do đó, nông nghiệp,
nông thôn đang rất cần có sự tác động của lực lợng KH- CN
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nớc ta hiện nay và đó cũng chính là
những yêu cầu bức xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để huy động đợc các lực lợng KH- CN phục vụ
nông nghiệp, nông thôn, chú ý các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và
các chính sách tác động, trong đó cốt lõi là giải quyết hợp lý lợi ích cho ngời làm
nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH- CN.
Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật phục vụ kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một việc làm hiệu quả, đã
khẳng định vai trò, động lực chủ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, cần tổ chức, vận động thành phong trào rộng lớn đ-
a KH- CN về phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn nhằm tạo ra bớc
chuyển biến rõ rệt về năng suất chất lợng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông
sản hàng hoá, chủ động hội nhập cới khu vực và quốc tế, góp phần chuyển đổi

9

nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện đa dạng hoá cây trồng
vật nuôi để có cơ sở lựa chọn, nhân giống các sản phẩm có u thế ở từng vùng,
từng địa phơng, phát triển công nghiệp, công nghệ chế biến, ứng dụng các công
nghệ sau thu hoạch nhằm hạn chế tổn thất, duy trì chất lợng nông sản, khai thác
các tiềm năng cha phát huy hết, tăng cờng luận cứ khoa học để bảo đảm hiệu quả
đầu t cho khu vực nông nghiệp và nông thôn.
b. Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất
Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống thực tiễn
của xã hội, con ngời. Nó không phải là bản thân công cụ lao động và sức lao
động, nhng cũng không nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực lợng sản xuất.
Nó không thay thế, nhng nó có thể làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng tính
năng hiệu lực của công cụ lao động, sức lao động và do đó, phơng thức con ngời
tác động đến giới tự nhiên theo chiều hớng ngày càng tăng cờng sức mạnh, vai
trò và tự do của con ngời trớc thiên nhiên. Tuy nhiên, với tính cách là sản phẩm,
giá trị đã đợc sáng tạo ra, đã có sẵn, thì khoa học không còn là kết quả, mà lại
dóng vai trò nh một trong những nguyên nhân, động lực bên trong, trực tiếp thúc
đẩy mạnh nhất sự phát triển lực lợng sản xuất
Trong điều kiện thông tin hoá , toàn cầu hoá của đời sống xã hội và
kinh tế thế giới ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có thể đ-
ợc chuyển giao tiếp nhận tơng đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội khách
quan thuận lợi cho sự phát triển đột biến, nhảy vọt và bứt phá về kinh tế ở những
dân tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định trong những thời điểm, thời kỳ hay giai
đoạn nhất định. Nhng để tranh thủ tân dụng và phát huy đợc hết tiềm năng của
cơ hội bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu là ở bên trong phải chuẩn
bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dỡng nhân tố con ngời lao động ở một
nức độ tơng ứng, thích đáng. Kinh nghiệm thế giới về việc giải quyết mối quan
hệ con ngời- t kiệu sản xuất- khoa học một cách cân đối, hài hoà để tạo ra
hiệu quả tổng hợp tối đa và tối u về kỹ thuật là khá toàn diện và
phong phú
Việc xây dựng rõ vị trí tơng quan vai trò và ảnh hởng của KH- CN trong hệ

thống các thành tố lực lợng sản xuất nh trên đã đồng thời làm sáng tỏ giới hạn
tác động của nó về mặt xã hội. Sự phát triển của khoa học không trực tiếp dẫn tới
sự thay đổi quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu. Trái lại, vai trò cách mạng hoá
của khoa học đối với việc thúc đẩy sự tăng trởng của lực lợng sản xuất lại bị chế
ớc bởi một quan hệ sản xuất và kiến trúc thợng tầng xã hội nhất định. Nói cách
khác, tiềm năng thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển của khoa học là vô tận, nh-

10
ng mức độ, giới hạn hiện thực hoá tiềm năng này lại phụ thuộc khuôn khổ
của quan hệ sản xuất thống trị
Tuy nhiên, sự phát triển nh vũ bão của cách mạng KH- CN hiện đại đang
diễn ra từng ngày, từng giờ ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có tác dụng cụ thể.
Sức tiến công vũ bão của phong trào giải phong dân tộc, giai cấp t sản đã chủ
động ra sức đẩy mạnh cuộc cách mạng KH- KT, sử dụng các thành quả của nó
để phát triển lực lợng sản xuất, phát triển kinh tế một cách thành công
Tuy không lạc quan đến mức vội vã và ngộ nhận mà cho rằng, cuộc cách
mạng KH- CN hiện đại sẽ tự động và trực tiếp đa ngay đến một xã hội thực sự là
hậu TBCN , nhng chúng ta vẫn có thể ghi nhận những thành tựu lớn lao của
cuộc cách mạng này và có đủ cơ sở để tin tởng rằng, những thành tựu ấy trong
hôm qua, hôm nay và ngày mai đều góp phần thiết thực thúc đẩy CNTB đi nhanh
hơn tới điểm kết thúc không thể tránh khỏi.
c. Khoa học công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lợng sản xuất trực
tiếp ở nớc ta
Việc khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp là dự đoán thiên tài của
C.Mác. Dựa trên cơ sở phân tích rõ vai trò của khoa học trong sự phát triển của
công nghiêp, ông đã kết luận : Việc biến khoa học thành lực lợng sản xuất trực
tiếp là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Ngày nay dự đoán ấy
đang trở thành hiện thực trong nhiều nớc công nghiệp phát triển
Khoa học là một hệ thống tri thức đợc tích luỹ trong quá trình lịch sử và đ-
ợc thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh những quy kuật khách quan của thế giới bên

ngoài cũng nh hoạt động tinh thần của con ngời, giúp con ngời có năng lực cải
tạo thế giới
Nh vậy, khoa học là văn hoá biết, còn sản xuất, kỹ thuật, công nghệ là
văn hóa làm . Từ biết đến làm có một khoảng nhất định nhng không hề có
bức tờng nào ngăn cản tuyệt đối cả. Khoảng cách ấy có thể bị rút ngắn và đợc rút
ngắn đến đâu là tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, của kỹ
thuật, công nghệ và khoa học
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhng
đến lợt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động sản xuất.
Do đó con ngời hoàn toàn có khả năng biến khoa học thành lực lợng sản xuất
trực tiếp.
Trong thực tế, sự phát triển của khoa học đã giúp con ngời tăng cờng sức
mạnh trong quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng có hiệu quả những sức mạnh
của nó. Nếu không có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, làm sao con ngời có
thể tạo ta năng lợng hạt nhân, phóng tàu vũ trụ lên thám hiểm các hành tinh, hay

11
sản xuất ra máy tính điện tử và ngời máy công nghiệp thay thế nhiều hoạt động
phức tạp của mình.
Khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất còn rất
yếu, nhng đã phát triển đến trình độ cao nh ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ và
trực tiếp tới sản xuất. Kỹ thuật và công nghệ là kết quả sự vận dụng những hiểu
biết, tri thức khoa học của con ngời để sáng tạo, cải biến các công cụ, phơng tiện
phục vụ cho hoạt động sản xuất và các hoạt động khác của xã hội. Khoa học trở
thành lực lợng sản xuất trực tiếp thì dứt khoát phải gắn liền với kỹ thuật và công
nghệ. Song nh thế cha đủ. Khoa học còn phải đợc ngời lai động tiếp thu vận
dụng để nâng cao kỹ năng, kỹ xảo lao động, phát triển t duy kinh tế nhanh nhạy,
trau dồi đạo đức, lối sống, v v, mới có thể trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp và
mạnh mẽ. Ngời lao động là chủ thể sử dụng các phơng tiện kỹ thuật. Do đó họ
không thể sử dụng đợc các phơng tiện hiện đại để lao động tốt nếu có trình độ

học vấn thấp và không đợc đào tạo, hay đào tạo kém.
Có thể nói, khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp vì mấy lẽ sau:
1. Nền sản xuất hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất
quốc tế cao, biến động mau lẹ, phức tạp đang đặt ra nhiều vần đề, mà thiếu khoa
học thì không thể giải quyết và phát triển nhanh chóng đợc. Đồng thời bản thân
nền khoa học hiện đại cũng đã phát tiển đến mức có đủ điều kiện để có thể giải
quyết đợc những vấn đề của sản xuất.
2.Ngày nay các máy móc kỹ thuật, công nghệ ngày càng hiện đại, tinh vi
và có hàm lợng trí tuệ cao, thị trờng mở rộng, phong phú, phức tạp và đầu biến
động, hợp tác giao lu nhng cạnh tranh giữa các quốc gia cũng gay gắt. Muốn sản
xuất đạt chất lợng và hiệu quả cao, ngời lao dộng không thể chỉ dừng lại ở những
kinh nghiệm cảm tính, mà còn rất cần có nhiều tri thức khoa học, kỹ thuật và
kinh tế. Mặt khác, khoa học phải đợc con ngời vận dụng vào hoạt đông thực tiễn
sản xuất, hình thành nên những thao tác công nghệ, kỹ năng, hợp thành năng
lực sáng tạo mới trở thành một lực lợng vật chất.
3. Kỹ thuật công nghệ hiện đại phải có khoa học định hớng, dẫn đờng và
làm cơ sở lý thuyết mới có thể phát triển nhanh. Đồng thời các lý thuyết khoa
học phải đợc vật chất hóa thành các phơng tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại mới
tác động trực tiếp tới lực lợng sản xuất.
4.Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật- công nghệ
hiện đại, thời gian để một lý thuyết khoa học đi vào thực tế sản xuất, trực tiếp tạo
tra sản phẩm hàng hoá đang ngày càng đợc rút ngắn
4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN

12
a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN
Nhân tố con ngời
Nhân tố con ngời, đã và đang là điều kiện quyết định trong sự nghiệp phát
triển KH- CN của nớc ta. Thành công của chúng ta là ở chỗ đã tạo ta một lực l-
ợng cán bộ KH- CN ban đầu tơng đối đông đảo. Mặt khác, chính lĩnh vực này

cũng là nơi đang đặt ta những vấn đề bức thiết, mà việc giải quyết chúng, về thực
chất, sẽ quyết định tính hiện thực của những bớc tiếp theo
Đối với KH- CN vấn đề không chỉ là những nhà khoa học, các kỹ s, kỹ
thuật viên với nghề nghiệp chính thức của họ là làm công tác KH- CN, mà trớc
hết phải nói đến cả phong trào quần chúng nhân dân đang tham dự vào hoạt đông
công nghệ trong sản xuất xã hội. Bất cứ hoạt động gì trong thực tiễn đời sống và
sản xuất đều có quan hệ tới KH- CN.
Yếu tố quan trọng hàng đầu cho tiến bộ khoa và công nghệ là phải tạo ra
một mội trờng xã hội thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển. ở một mức
độ đáng kể, môi trờng đó đợc tạo nên bởi nhận thức của con ngời ở mọi tầng lớp
xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ
Thấy đợc ý nghĩa của môi trờng khoa học và công nghệ dân chúng là để từ
đó cần chú trọng các biện pháp tác động về mọi mặt : giáo dục, đào tạo, tuyên
truyền, phổ biến, kích thích kinh tế và các biện pháp khác
Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
Đào tạo là khâu đầu tiên của một chu trình hình thành và sử dụng nguồn
nhân lực quốc gia về mặt khoa học và công nghệ. Nói đến đào tạo đối với nguồn
nhân lực này trớc hết phải kể đến toàn bộ hệ thống giáp dục các cấp, từ phổ
thông cơ sở, phổ thông trung học, giáo dục chuyên nghiệp đến đại học và trên
đại học.
Tuy nhiên, so với yêu cầu chuẩn bị cán bộ khoa học và công nghệ để đẩy
mạnh công nghệ hoá trong giai đoạn sắp tới thì đội ngũ cán bộ ấy vẫn thiếu về số
lợng và yếu về chất lợng. Không thể vì một số khó khăn trớc mắt mà hạn chế qui
mô và tốc độ đào tạo. Con ngời luôn luôn là vốn quý nhất và đào tạo nhân lực lao
động khoa học là vấn đề chiến lợc trọng yếu mà bất cứ nớc nào muốn phát triển
thành công cũng đều phải hết sức quan tâm
Hệ thống giáo dục phổ thông, khâu đầu của đào tạo khoa học và công
nghệ của chúng ta hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Và hệ thống giáo dục
đại học và chuyên nghiệp còn nhỏ bé, cha cân đối với các bậc học trong hệ thống
giáo dục quốc dân. Về cơ bản, cách giáo dục của ta còn nặng về trang bị kiến

thức, nặng về lý thuyết, nhẹ về bồi dỡng kỹ năng thực hành, ít chú trọng phơng
pháp tự đào tạo trong hoạt động thực tiễn. Đó cũng là nhợc điểm phổ biến của hệ

13
thống giáo dục của nhiển nớc xã hội chủ nghĩa mà một bộ phận quan trọng cán
bộ khoa học và công nghệ của chúng ta đã đợc đào tạo qua .
Chúng ta không thể vừa lòng với tình trạng sử dụng cán bộ khoa học và
công nghệ không bình thờng nh hiện nay và càng không thể định con đờng phát
triển của ngành đào tạo đại học,mà không tính đến bớc phát mạnh mẽ của nớc ta
sau này. Dù có những khó khăn tạm thời ngày hôm nay, chúng ta vẫn phải ra sức
mở rộng quy mô và tốc độ đào tạo nhân lực nhân lực khoa học và công nghệ cho
những thập kỷ sắp tới. Đào tạo con ngời, nh kinh nghiệm cho thấy không bao giờ
là thừa đối với một nớc đang phát triển nh nớc ta.
Vấn đề sử dụng cán bộ khoa học- công nghệ
Nếu ngời cán bộ đợc sử dụng tốt, trong quá trình làm việc sẽ diễn ra sự
hiện đại hóa,đổi mới kiến thức do đào tạo trớc đó, sẽ không có sự hao mòn vô
hình và cán bộ khoa học, công nghệ đó sẽ trởng thành, phát triển với đà tiến bộ
chung.
Bức tranh sẽ hoàn toàn ngợc lại khi nhân viên đợc đào tạo ra không đợc sử
dụng kiến thức nghề nghiệp của mình một cách thoả đáng. Khối lợng kiến thức
ban đầu sẽ không có cơ hội trau dồi và hiện đại hoá, không đợc bổ xung những
nhân tố mới, giá trị sử dụng ngày càng kém đi. Nó sẽ bị sói mòn với tốc độ cực
kỳ nhanh chóng.
Từ đây phải thờng xuyên đánh giá lại năng lực đã có, không thể coi năng
lợng khoa học- công nghệ là bất biến.Sử dụng là tiền đề và điều kiện tiên quyết
cho phát triển nhân lực khoa học- công nghệ. Tiềm lực cán bộ chỉ có thể phát
triển trong điều kiện đợc phát huy năng lực của mình một cách thoả đáng.
Không ít trờng hợp sự đánh gía tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nớc
ta hiện nay tỏ ra lạc quan, khi chỉ nhìn vào số lợng cơ cấu, trình độ đào tạo ban
đầu của đội ngũ cán bộ. Chúng ta hầu nh đã có đủ tất cả các ngành nghề với số l-

ợng khá đông cho một nền kinh tế nh nớc ta. Song nhiều lĩnh vực chúng ta không
thể huy động đợc lực lợng cần thiết, mặc dù, trên danh nghĩa, chuyên ngành nào
đó đã có một đội ngũ cán bộ đợc đào tạo không nhỏ. Nh vậy, năng lực thực tế
kém xa năng lực trên danh nghĩa.
Nh vậy nếu đào tạo không đi đôi với sử dụng và phát huy trình độ đã có thì
không làm tăng thêm tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nớc, trái lại còn có
thể giảm sút so với tích tụ ban đầu của nguồn nhân lực.
b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN
Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho phát triển khoa học-
công nghệ. Muốn cho sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đai hoá đợc tiến hành với

14
tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động đợc nguồn
vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
Vấn đề huy động vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý
nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nớc ta. Song song với việc huy động các
nguồn vốn, vấn đề sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn đợc thể hiện trớc hết trong công tác tổ chức tài
chính, có nghĩa là phải lựa chọn các phơng án tối u trong tạo nguồn tài chính. Sự
cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn trớc hết xuất phát từ yêu cầu của
cơ chế quản lý kinh tế mới, phải hoạch toán kinh tế kinh doanh, xuất phát từ yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đảm bảo tính hiệu quả
kinh tế cao. Vì vậy, để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và dản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải
bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
chơng III : Thực trạng KH- CN Việt Nam
1. Thành công
KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ
môi trờng. Đã áp dụng các công nghệ và phơng pháp nghiên cứu tiên tiến: viễn
thám, địa vật lý vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Nhiều

kết quả nghiên cứu môi trờng đợc đánh giá cao : nghiên cứu chính sánh và biện
pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và xử lý ô nhiễm nớc, không
khí ở các khu công nghiệp tập trung, các thành phố lớn các biện pháp trồng
rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất
KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ
cao. Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vất lý của ta đợc đánh giá cả ở nớc
ngoài. Công nghệ thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống
ngân hàng, quản lý hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, công nghệ chế
tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự động hoá đã từng bớc đợc quan tâm.
Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng những tiến bộ KH- CN về giống cây trồng, quy
trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã tuyển chọn,
lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức
tăng trởng quan trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia súc, gia cầm, có
giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 20 năm qua, năng suất lúa
bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lợng lơng thực 2004 đạt hơn 39,12 triệu
tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích thích tăng trởng thực
vật đã đợc sử dụng vào sản xuất, bảo vệ, phát triển các loại cây lơng thực. Cơ

15
cấu cây trồng đã đợc thay đổi cơ bản. Trớc năm 1989, từ chỗ còn thiếu lơng thực,
Việt Nam đã trở thành nớc xuất khẩu gạo đéng thứ 2 thế giới sau Thái Lan.
Về thuỷ sản nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay năng suất cao.
Tháng 5 năm 2006 sản lợng khai thác thuỷ sản ở Việt Nam đạt 166500 tấn đa
tổng sản lợng khai thác 5 tháng đầu năm 2006 ớc đạt 799.500. Trong đó sản lợng
nuôi trồng tháng 5 năm 2006 đạt 135.000 tấn. Theo ớc tính của Bộ Thuỷ
sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu tháng 5 năm 2006 đạt 250 triệu USD, nâng giá
trị kim ngạch xuất khẩu 5 tháng. Đặc biệt kỹ thuật nuôi tôm đã đợc ứg dụng
khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho 350000 ng dân ven biển góp phần cải thiện
và tăng kim ngạch xuất khẩu các ngành thuỷ sản.Việc nuôi trồng thuỷ sản đã có
sự đầu t khoa học thích đáng trong việc tận dụng mặt nớc ao, hồ, nớc biển mà

sản lợng khai thác,nuôi trồng ,xuất khẩu tăng đáng kể.
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến đợc áp dụng, tạo nhiều sản
phẩm chất lợng cao : hàng may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện
tử Công nghiệp tăng trởng bình quân khoảng 23% năm 2004 đạt 2,1 tỷ USD,
công nghiệp viễn thông đạt 200 triệu USD, máy tính 1 triệu USD, điện tử 730
triệu USD, công nghệ phần mềm 170 triệu USD.
Trong lĩnh vực năng lợng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập
trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lợng. Đổi mới CN
xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phơng pháp giảm
tổn thất năng lợng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng lợng đã
phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia
đình đã có điện sử dụng.
Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng
cấp và phát triển mạng lới, đờng bộ, đờng sắt, đờng thuỷ, đờng sông đã xây
dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu
biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng
thầu nhiều công trình giao thông ở Lào, Campuchia với việc áp dụng CN mới
trong gia cố nền móng và thi công mặt đờng.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại
bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang đủ mạnh để hoà
nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nớc ta hiện đợc xếp vào
một trong những nớc có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh mạng lới

16
hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ
thống thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, đợc
các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài nớc sử dụng. Thị trờng tin học nớc ta
những năm qua, có tốc độ tăng trởng trung bình hằng năm khoảng 40-50%. Hiện
các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó
lu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc

phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng máy vi tính ở nớc ta bắt đầu
chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình thức sử dụng mạng cục bộ và
mạng diện rộng.
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch
học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà,
bại liệt, sởi Kết hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt
hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa
bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản
Đến nay nớc ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn 800.000 ngời trình độ đại
hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo s- phó giáo s, hơn 45.000 cán bộ
nghiên cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn 20.000
nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trờng đại học, cao đẳng,
hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho sự nghiệp
CNH, HĐH, đợc đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau .
2. Hạn chế
Đầu t cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp
Việt Nam cha có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện bằng
hệ thống pháp luật nh các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nớc đã có
nhiều cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu t cho khoa học và công nghệ nhng cha
thể đáp ứng đợc nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ năm 1965 đến nay,
mức đầu t tài chính từ ngân sách nhà nớc dành cho hoạt đông nghiên cứu và triển
khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10 năm đổi mới, nớc ta
đạt đợc những thành tựu kinh tế đáng mừng, tổng kinh phí đầu t cho khoa học và
công nghệ đợc nâng lên dần, nhng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế
của vốn đầu t không tăng. Theo số liệu của Bộ KH- CN và môi trờng thì đầu t tài
chính cho kha học công nghệ cha vợt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm.
Chi phí bình quân hằng năm cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách
nhà nớc khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là
55.324 USD và kếm các nớc trong khu vực châu á . Mức đầu t thấp nhng lại
phân tán và không ít trờng hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà nớc đã có


17
nhiều chủ trơng, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công
nghệ và coi trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhng mức
đầu t cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất,
nếu huy động gấp đôi vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên
cứu khoa học có mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ quản
lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân sách nhà nớc trong nhiều năm
thâm hụt, phải bảo đảm chi cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu t
kinh phí cho khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của ngời lãnh đạo
và các cơ quan quản lý của Nhà nớc. Rốt cục quy định trong các văn bản và chỉ
thị của Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công
nghệ vẫn không thực hiện đợc.
Với mức đầu t nh vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng
thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có
thể hoạt động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trớc mắt mà không thể tạo
ra đợc thành quả khoa học có tầm chiến lợc. Nếu không có các chính sách điều
chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ
hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công việc
chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.
Lực l ợng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung ơng
cho thấy : trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số ngời có trình độ trên đại
học là 2.509 ngời, cao đẳng và đại học 11.447 ngời và dới cao đẳng là 8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ,
cũng trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức
vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lợng lao động có
trình độ khoa học- kỹ thuật. Trớc tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu t n-
ớc ngoài, công ty t nhân đã thu hút số lợng đáng kể lao động có trình độ chuyên

môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ của nhà nớc. ở tất cả các đối tợng
lao động, số trờng hợp ra đi nhiều hơn số trờng hợp đến, đặc biệt với số cán bộ
khoa học có học vị cao, số ra đi vợt hẳn số đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình
quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo s là 59,5 tuổi và phó giáp s là 56,4 tuổi. Số
cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56
trở lên là 65,7%, riêng giáo s chiếm tới 77,4% và phó giáo s chiếm 62%. Khi
phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm thì phần

18
đông giáo s có tuổi trên 60 và phó giáo s có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ phận
lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có khả năng làm việc
thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại cha đợc chuẩn bị bồi dỡng đào tạo. Hẫng hụt
đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tơng lai rất gần.
Sự phân bố lực l ợng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lợng lao động mất cân đối giữa các ngành, các
khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho
quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các
vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều ngời nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau
khi chuyển sang kinh tế thị trờng thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và
dờng nh đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau
một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa học công nghệ là một
hệ thống, cũng nh một nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì không thể
phát triển đợc. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành ứng dụng có lãi
nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đa khoa học đến chỗ bế tắc và
không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mới.
Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở VN
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động
kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy

nhiên, ở VN hiện nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế
lại bộc lộ những bất cập rõ rệt
1. Mặc dù tồn tại số lợng đáng kể các cơ quan nghiên cứu khoa học công
nghệ và dới nhiều dạng thực phong phú, nhng các viện nghiên cứu, các trờng đại
học thờng mạng nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức kinh tế.
Ngoài mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn vị kinh tế còn
một khía cạnh nữa là bản thân hệ thống cơ quan nghiên cứu vẫn thiếu phơng
pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. ở đây đòi hỏi sự hợp tác,
trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại diện của các khu vực
sản xuất. Các hãng luôn đợc coi nh nhân vật trung tâm của đổi mới khoa học
công nghệ Đáng tiếc phơng pháp này còn xa lạ đối với VN.
Thiếu những định hớng rõ ràng, cụ thể đã làm cho các chơng trình nghiên
cứu khoa học công nghệ trở nên kéo hiệu quả
2. Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ hiện mất cân đối
đáng kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc

19
khắc phục khoảng trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản
sang cũng cha đáp ứng đợc yêu cầu đòi hỏi tối thiểu.
Mặt khác, sự phân bố của lực lợng khoa học công nghệ không sát với địa
bản hoạt động kinh tế. Trên thực tế, có nhiều vùng kinh tế còn nh vùng trắng của
hoạt động khoa học công nghệ
3.Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch lý và mở của mang lại sự
khởi sắc cho nền kinh tế thì nó lại làm cho vị thế của các nhà khoa học trong nớc
giảm xuống tơng đối. Một bộ phận không nhỏ đội ngũ các nhà khoa học công
nghệ buộc phải làm thêm nghề khác hoặc đổi hẳn nghề.
Sự lão hoá của đội ngũ khoa học cũng lý giải một phần cho hiện tợng này.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở các viện nghiên cứu
là 45- 46 tuổi, tuổi trung bình của cán bộ nghiên cứu có trình độ cao vào khoảng
55 và 60 có thể do nhiều lý do, trong đó một lý do quan trọng là : coi giai đoạn

hiện nay nh là quá độ chuyển đổi từ mô hình nghiên cứu khoa học công nghệ
kiểu cũ sang mô hình nghiên cứu kiểu mới. Đối với lớp trẻ, hình mẫu các nhà
nghiên cứu thế hệ trớc không còn mấy hấp dẫn, họ đang tìm kiếm những con đ-
ờng khác, những phơng thức hoạt động khoa học khác
4. Chúng ta từng hy vọng có thể thông qua hoạt động đầu t nớc ngoài vào
VN để nhận đợc những công nghệ cần thiết tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên
thực tế diễn ra không nh mong muốn. Trớc hết, luồng đầu t nớc ngoài đang có xu
hớng chững lại sẽ hạn chế khuôn khổ chuyển giao công nghệ. Thứ hai, cơ cấu
đầu t với 18,7% vào khách sạn dụ lịch là một nhân tố góp phần hạn chế quy
mô chuyển giao công nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản thân lĩnh vực công
nghiệp, các chủ đầu t nớc ngoài dờng nh chẳng hề sốt sắng du nhập các công
nghệ tiên tiến vào VN, thay vào đó, họ chú ý nhiều đến các công nghệ thế hệ cũ
cho phép thu lại lợi nhuận tức thì từ lao động rẻ, môi trờng đầu t dễ dãi và miền
đất đầu t mới mẻ.
3. Nguyên nhân của những thực trạng ấy
Do tỷ lệ cán bộ KH- CN trong các doanh nghiệp còn thấp ; cấu trúc và
phân bố đội ngũ cha hợp lý ; số cán bộ đợc đào tạo về các ngành KH và KT chỉ
chiếm 15,4% trong tổng số đội ngũ cán bộ KH- CN ; sự phân bố cán bộ KH- CN
theo vùng lãnh thổ còn mất cân đối lớn. Đội ngũ cán bộ KH đông nhng cha
mạnh
Chất lợng đào tạo cán bộ KH- CN thấp. Về trình độ, cha cập nhật CN và
tri thức hiện đại của thế giới, bị hổng nhiều về CN cao, quản tri kinh doanh, tiếp
thị, ngoại ngữ Đội ngũ cán bộ KH- CN nớc ta có tiềm năng trí tuệ đáng kể, tiếp

20
thu nhanh tri thức mới, nhng còn thiếu tính liên kết cộng đồng, khó hợp tác giữa
cơ quan và cá nhân, thiếu cán bộ đầu đàn có khả năng tổ chức và thực hiện
những chơng trình nghiên cứu mang tính đột phá cao. Lực lợng chuyên gia giỏi ở
các ngành hiện nay rất mỏng, phần lớn chỉ nắm lý thuyết, thiếu thực hành.
Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh thổ mạng lới các cơ

quan nghiên cứu- triển khai. Nhiều cơ quan nghiên cứu có chức năng trùng lắp,
không đồng bộ. Việc sắp xếp và đầu t cho các cơ quan này không theo các hớng
u tiên trọng điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên cứu- triển khai các trờng
đại học, nghèo nàn, lạc hậu : phần lớn đợc xây dựng và trang bị đã trên 30 năm
trình độ thiếu bị thua kém ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nớc.
Đầu t tài chính cho KH- CN từ ngân sách, nhà nớc ở nớc ta, hiện còn thấp.
Do vậy, nền khoa học của ta chỉ giải quyết những vấn đề trớc mắt, cha tạo đợc
kết quả KH lớn, tầm cỡ chiến lợc. Việc sử dụng tài chính cho KH- CN hiện nay
với một cơ chế thờng thúc ép chúng ta rơi vào thế phả chi, chia bị động,. Số ch-
ơng trình và đề tà cấp nhà nớc, cấp bộ còn nhiều và dàn trải so với khả năng kinh
phí hiện có. Nguồn ngoại tệ viện trợ không điều chỉnh đợc trong phạm vi quản lý
nguồn vốn KH- CN, nên hiệu quả còn thấp. Việc huy động các nguồn vốn ngoài
ngân sách Nhà nớc cho hoạt động nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, cha có cơ
chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức t nhân
tự nguyện đầu t. Nhiều cơ quan nghiên cứu- triển khai, hoạt đông KH- CN còn
dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nớc. Thực tế trên đã dẫn đến một nghịch lý: vốn
cho KH-CN gần nh duy nhất từ nhà nớc lại bị phân chia dàn trải.Trong khi đó,
một số lĩnh vực cần đầu t thích đáng :giáo dục y tế bảo vệ môi trờng hoặc những
hớng nghiên cứu triển khách quan trọng mang ý nghĩa chiến lợc lại bị hạn chế do
thiếu vốn .Việc thực hiện một phần vốn trong tổng giá trị dự án đầu t cho công
tác nghiên cứu triển khai vẫn cha đợc thực hiện, do nghiên cứu khoa học công
nghệ cha đợc coi là một nội dung chỉ trong cơ chế quản lý đầu t.Vai trò của khoa
học công nghệ cha thể hiện bằng biện pháp cụ thể về mức đầu t tài chính,chế độ
cán bộ, cha tạo lập đợc hệ thống chính sách thích hợp để thúc đẩy các nhà hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phảI dựa trên KH- CN và hớng theo nhu cầu
của sự phát triển kinh tế- xã hội.
Sau khi đợc chuyển thành cơ quan quản lý nhà nớc về các hoạt động KH-
CN, Bộ KH- CN và môI trờng đã từng bớc phát huy vai trò quản lý nhà nớc trong
việc giám sát, kiểm tra các hoạt động KH- CN, quản lý nhà nớc về chuyển giao
CN, trình độ CN trong sản xuất và bảo vệ môi trờng. Tuy nhiên, công tác quản lý

cha thể hiện đợc tính đồng bộ, cha gắn kết chặt chẽ với quản lý kinh tế và xã hội,

21
cha tạo lập thị trờng rộng rãi cho KH- CN. Nhiều công trình KH khi áp dụng vào
sản xuất, còn gặp trở ngại. Bởi sản xuất cha thực sự có nhu cầu KH. Cạnh đó,
nhiều viện nghiên cứu có khả năng đáp ứng nhu cầu của sản xuất, lại không có
đơn đặt hàng. Hiện tợng tách rời gữa KH và sản xuất còn phổ biến.
Thành tựu KH, các tiến bộ CN, cha đợc áp dụng rộng rãi nên cha tạo
chuyển biến rõ nét về năng suất, chất lợng, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh
và dịch vụ. Cha tạo đợc những ngành nghề mới xuất phát từ kết quả của hoạt
động KH- CN. Thị trờng cho KH- CN cha đợc hình thành. Trình độ CN nói
chung còn ở mức thấp. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị
hiện tại lạc hậu so với thế giới và hình thành từ nhiều nguồn chắp vá. Mẫu mã
hàng hoá đơn điệu, chất lợng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh, xuất khẩu
kém. Quy mô dự án còn nhỏ, cha tơng xứng với tầm nhiệm vụ cấp nhà nớc, phần
lớn chỉ dừng ở quy mô ngành, địa phơng, hoặc cấp cơ sở, ít có tác dụng thúc đẩu
sản xuất.
Công tác quản lý KH- CN tuy đã đợc đổi mới, nhng cha đồng bộ và hoàn
chỉnh. Cơ chế quản lý các chơng trình trọng đIúm cấp nhà nớc còn nhiều thủ tục
rờm ràc không chặt chẽ, cha bảo đảm tập trung các nguồn lực vào những mục
tiêu chủ yếu. Cơ chế chính sách hiện hành không khuyến khích và bắt buộc các
doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu triển khai hoặc có chiến lợc lâu dàI về đổi
mới CN, đổi mới sản phẩm.

chơng IV: Một số giảI pháp
Khoa học có tính độc lập tơng đối trong sự phát triển của nó, luôn đợc tích
luỹ, có tính kế thừa, đợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nớc này qua n-
ớc khác. Nhờ thế một nớc lạc hậu đI sau có thể đuổi kịp các nớc phát triển nếu
có những chính sách khôn ngoan, biết tiếp thu thành tựu khoa học của nớc khác
và biết vận dụng phù hợp với điều kiện nớc mình. Chúng ta cần biết tranh thủ

tiếp thu những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại của các nớc
phát triển bằng mọi cách có thể đợc, nếu việc làm ấy có hiệu quả cao hơn, dỡ tốn
kém hơn đầu t nghiên cứu trong nớc.
Mục tiêu lâu dài của chúng ta là tiến tới độc lập, tự chủ về khoa về học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, nhng trong giai đoạn trớc mắt cũng nên đi bắt chớc,
mô phỏng, làm thủ để rồi rút kinh nghiệm tiến tới cải tiến và phát minh công
nghệ mới.
Đồng thời chúng ta cần phải tạo vốn cho hoạt động KH- CN. Vốn là nguồn
lực để phát triển khoa học công nghệ. Không có vốn hoặc có nhng thấp hơn mức
cần thiết đều không có điều kiện thực hiện các mục tiêu KH- CN. Kinh nghiệm ở

22
các nớc cho thấy, vốn để phát triển khoa học- công nghệ thờng đợc huy động từ
hai phía nhà nớc và khu vực doanh nghiệp, trong đó phần nhiều là từ các doanh
nghiệp.
Nguồn nhân lực khoa học công nghệ là lực lợng chủ chốt của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và triển khai khoa hoc- công nghệ. Thiếu nguồn lực này thì
không thể nói tới phát triển. Trong thời đại ngày nay, vai trò của nguồn lực này
lạI càng phải đặc biệt coi trọng. Để tăng nguồn lực này, chúng ta cần đẩy nhanh
việc đào tạo các cán bộ khoa học- công nghệ, nhất là cho các ngành kinh tế trọng
yếu và các ngành công nghệ cao, trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ
trong các cơ sở nghiên cứu, các trờng học và các cơ sở kinh doanh, đẩy nhanh
tôc độ phát triển thị trờng nhân lực khoa học- công nghệ.
Nhà nớc cần tăng cờng phát triển giáo dục, quan tâm đào tạo nhân tài để
trong tơng lai không xa lắm tạo ra đợc một đội ngũ các tri thức giỏi, các nhà
khoa học lớn, các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ có tầm cỡ thế giới, nhng cần
sắp xếp lại cho hợp lý, có chính sách thoả đáng để sử dụng có hiệu quả coa hơn
đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật hiện có. Chúng ta phảu làm sao để những ngời
có năng lực, có nhiệt tình và có tính thần trách nhiệm trong hoạt đông xã hội xây
dựng đất nớc có thể sống ổn định vững chắc bằng lợng mà không phải làm thêm

bằng những việc ngoài chuyên môn của mình. Những chuyên gia giỏi phải có
cuộc sống khá giả và sung túc bằng lao động trí tuệ tơng xứng với cống hiến của
họ. Nh vậy mới đảm bảo công bằng xã hội và mới toạ ra động lực trong hoạt
đông khoa học sáng tạo.
Quan tâm hơn nữa, u tiên phát triển đội ngũ cán bộ khao học- kỹ thuật là
một việc làm cần thiết, nhng cha đủ làm cho khoa học trở thành lực lợng sản
xuất một cách nhanh chóng. Những tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ
hiện đại còn phải đợc thâm nhập vào và làm giàu trí tuệ cho tất cả những ngời
lao động, nâng cao năng lực sản xuất của họ. Muốn vậy chúng ta phải tăng cờng
việc nâng cao dân trí, không chỉ bằng hệ thống nhà trờng, mà bằng nhiều phơng
tiện thông tin đại chúng.
Thêm vào đó, chúng ta cần tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt
động khoa học- công nghệ, bởi tính hiệu quả của hoạt động này một phần rất
quan trọng là ở hệ thống tổ chức quản lý. Hệ thống này đóng vai trò phân phối,
tập trung và quản lý lực lợng cán bộ khoa học- công nghệ, đảm bảo tính hiệu quả
của các mục tiêu phát triển. Một trong những nguyên nhân cơ bản của sự yếu
kém về năng lực khoa học- công nghệ quốc gia hiện nay là do tổ chức quản lý
khoa học- công nghệ còn kém hiệu quả. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục đổi mới hệ

23
thống này theo hớng Nhà nớc thống nhất quản lý các hoạt động KH- CN, đảm
nhận những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lợc, phát triển tiềm lực, đón đầu và phát
triển những công nghệ mới có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ nền kinh tế.
Các doanh nghiệp đảm nhân thực hiện việc ứng dụng các hết quả nghiên cứu
khoa học và những tiến bộ KH- CN.


24

c- kết luận

Vì vậy muốn tiên lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá thành công phải xây
dựng một tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng với đòi hỏi của sự nghiệp
công nghiệp hoá. Chính vì vậy Đảng ra quyết định chuyển mọi hoạt động của đất
nớc sang thời kỳ hoạt động mới với đặc trng là nền kinh tế trí thức thực hiện dân
giàu nớc mạnh xã hội công bằng văn minh đa nớc ta tiến theo con đờng xã hội
chủ nghĩa.

25

×