Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Vai trò của lợi nhuận là một động lực cơ bản của nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.6 KB, 40 trang )

LờI NóI ĐầU
Sự phát triển của Việt Nam cũng nh của các nớc Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN)
khác đợc đánh dấu bằng sự chuyển hớng trong t tởng,nhận thức của các Đảng va
Nhà Nớc về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đờng đi lên CNXH.ở Việt Nam,từ
sau những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự chỉ là một
khoảng thời gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một đất nớc.
Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển vợt
bậc.Từ một nớc nghèo đói va thiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào các
khoản viện trợ,trợ giúp của các nớc khác,Việt Nam đã trở thành một nớc xuất khẩu
gạo đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-Nông
Nghiệp và Dịch Vụ đã đạt đợc những thành quả đáng kể,đời sống của nhân dân đ-
ợc cải thiện vv Có đợc sự phát triển đó,nh trên đã nêu,chính là nhờ sự đổi mới
trong nhận thức,t duy về CNXH và con đờng
đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới
trong nhận thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng nh sự
đánh giá lại vai trò của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng
.Đảng và Nhà Nớc ta đã khẳng
định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và
vai trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm đa
Việt Nam hội nhập với các nớc trong khu vực và trên thế giới cũng nh xây dựng
thành công CNXH.
Vậy thì lợi nhuận là gì?Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận?Vai trò của lợi nhuận
trong việc phát triển nền kinh tế là nh thế nào?Những câu hỏi nay không phải dến
bây giờ mới đợc đặt ra mà từ rất lâu rồi con ngời đã có nhiều những quan điểm
khác nhau về lợi nhuận.Từ những quan điểm của các trờng phái lý luận trớc Mác
cho đến những trờng phái lý luận ngày nay,mỗi trờng phái đều có những luận
điểm,học thuyết của mình để trả lời những câu hỏi đó.Trong số những quan điểm
đó,học thuyết của Chủ Nghĩa Mác(CN Mác),đợc xây dựng trên nền tảng lý luận
1
giá trị thặng d(GTTD),đã giải thích đợc một cách đầy đủ,chính xác và khoa học
nhất về nguồc gốc,bản chất và vai trò của lợi nhuận.Chính vì vậy mà toàn bộ học


thuyết của CN Mác nói chung và những lý luận về lợi nhuận của CN Mác nói riêng
đã đợc Đảng ta coi là cơ sở lý luận quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở
nớc ta.
Hơn nữa,do những hạn chế về mặt lịch sử cho nên dù các học thuyết này có
đúng đến mấy cũng luôn đòi hỏi phải đợc vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện
hoàn cảnh của mỗi quốc gia .Chính vì vậy mà đề án này,không chỉ phân tích nguồn
gốc,bản chất của lợi nhuận trong quan điểm của một số các trờng phái từ trớc đến
nay,đặc biệt là học thuyết của Mác , xem xét tới vai trò của lợi nhuận nh là một
động lực cơ bản của nền kinh tế thị trờng(KTTT) mà còn xem xét tới quá trình vận
dụng lý luận vào thực tiễn ở nớc ta để thấy đợc rõ nét hơn vai trò động lực của lợi
nhuận.
Trong phạm vi cho phép của bàiviết và do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết này
khó tránh khỏi những sai sót .Vì vậy,em rất mong nhận đợc sự chỉ dẫn,giúp đỡ của
thầy giáo để em có đợc những nhận thức đúng đắn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
2
PHầN I : Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
i / Quan điểm về lợi nhuận trong các học thuyết phi Mác-xít:
1/Quan điểm của tr ờng phái Trọng Th ơng về lợi nhuận:
Về mặt hoàn cảnh lịch sử,Chủ Nghĩa Trọng Thơng(CNTT) đợc ra đời vào thời
kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của giai cấp t bản.ở giai đoạn này,vấn đề đợc quan tâm
hàng đầu và mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đó là tiền.Mọi cá nhân,mọi tổ
chức,thậm chí là mọi quốc gia đều tìm mọi cách để tích trữ thật nhiều tiền,nh nhận
xét của Engels sau này thì
"các dân tộc chống đối nhau nh những kẻ bủn xỉn,hai tay ôm kh kh túi tiền quí
báu, nhìn sang ngời láng giềng với con mắt ghen tỵ,đa nghi".
Do đợc hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử nh vậy cho nên toàn bộ học
thuyết của CNTT nói chung và quan điểm về lợi nhuận nói riêng đều đợc xây dựng
trên cơ sở đồng nhất giá trị với tiền bạc và lấy đối tợng nghiên cứu của Kinh Tế
Chính Trị(KTCT) là lĩnh vực lu thông,coi KTCT "là khoa học về của cải thơng mại

mà nhiệm vụ của nó là bán nhiều mua ít".Chính vì vậy,CNTT cho rằng lợi nhuận là
do lĩnh vực lu thông,do sự mua bán trao đổi mà sinh ra.Nó là kết quả của việc mua
ít bán nhiều ,mua rẻ bán đắt mà có.Họ cho rằng muốn có đợclợi nhuận thì không
có cách nào khác ngoài việc trao đổi buôn bán.
Về vai trò của lợi nhuận thì CNTT đã khẳng định rằng lợi nhuận luôn là mục
tiêu của mọi hoạt động trao đổi mua bán trên thị trờng.Điều này đợc thể hiện qua
việc một quốc gia phải luôn đảm bảo xuất siêu nh Thomas Mun đã viết:" Chúng ta
phải thờng xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho ngời nớc ngoài với số
lợng hàng hoá lớn hơn số lợng chúng ta phải mua của họ".Còn đối với các thơng
nhân thì mục tiêu của họ luôn là mua rẻ bán đắt nhằm thu đợc phần lợi nhuận
chênh lệch.
Nhìn chung thì các quan điểm về lợi nhuận của CNTT,cũng nh các quan điểm
khác của họ,cha có đợc sự nhận thức,phân tích mang tính khoa học sâu sắc ,cha
mang tính quy luật.Tuy nhiên,các quan điểm này cũng đóng vai trò khá quan
trọng, làm tiền đề cho các học thuyết kinh tế sau này.

2/Quan điểm của tr ờng phái T Sản Cổ Điển về lợi nhuận:
Có thể nói rằng,trong giai đoạn trớc Mác,trờng phái T Sản Cổ Điển(TSCĐ) là tr-
ờng phái tiến bộ nhất.Đây cũng là một trong ba trờng phái đợc Mác chọn làm tiền
đề lý luận cho học thuyết của mình.Sở dĩ trờng phái TSCĐ đợc đánh giá cao nh vậy
là do đây là trờng phái đầu tiên chuyển đối tợng nghiên cứu của KTCT từ lĩnh vực
lu thông sang lĩnh vực sản xuất.Đó cũng là lần đầu tiên các nhà kinh tế học không
dừng lại ở việc nghiên cứu,xem xét hiện tợng bên ngoài mà đã sử dụng phơng pháp
trừu tợng hoá khoa học để đi sâu vào nhận thức,phân tích nhằm tìm ra bản chất và
tính quy luật của các sự vật,hiện tợng đồng thời xây dựng một hệ thống các phạm
trù nh giá trị,giá cả,lợi nhuận vv
Đợc hình thành trong giai đoạn đầu của Chủ Nghĩa T Bản(CNTB),trờng phái
TSCĐ đã có một số những đại biểu kiệt xuất nh
3
W.Petty,A.Smith,D.Ricardo,vv Quan điểm của các đại biểu này về lợi nhuận vừa

mang tính kế thừa ngời đi trớc vừa mang tính sáng tạo mà trong đó có một số quan
điểm nổi bật về lợi nhuận cuả phái Trọng Nông,A.Smith hay D.ricardo mà ta sẽ
xem xét sau đây.
Trớc tiên là phái Trọng Nông,mặc dù thừa nhận quy luật giá trị tuy nhiên họ lại
cho rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới tạo ra giá trị,tạo ra cái mà họ gọi
là sản phẩm thuần tuý còn lao động trong các nghành nghề khác nh trong công
nghiệp hay thơng nghiệp thì không tạo ra giá trị.Sở dĩ nh vậy,theo họ giải thích,là
do trong nông nghiệp ngoài sức lao động của chính mình ra thì ngời nông dân còn
đợc sự trợ giúp của thiên nhiên.Vì vậy mà lợi nhuận,theo quan điểm của họ,chính
là phần thu nhập không lao động của nhà t bản do ngời nông dân tạo ra.ở đây,mặc
dù còn hạn chế khi cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm
thuần tuý tuy nhiên trờng phái Trọng Nông đã có một đóng góp quan trọng đó là
bớc đầu tìm ra nguồn gốc của cái gọi là sản phẩm thuần tuý,xét về bản chất chính
là GTTD.Ngoài ra,trong lý luận của phái Trọng Nông,đã xuất hiện những mầm
mống t tởng về lợi nhuận bình quân và xu hớng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.
Đến A.Smith,ngời đợc coi là đại biểu của trờng phái TSCĐ trong thời kỳ công tr-
ờng
thủ công,thì đã có những bớc tiến đáng kể về lý luận so với phái Trọng Nông.Ông
khẳng định rằng không chỉ lao động trong nông nghiệp mà tất cả mọi hình thức lao
động khác cũng đều tạo ra giá trị và lao động chính là thớc đo của giá trị.Dựa trên
quan điểm đúng đắn về giá trị lao động,A.Smith đã đa ra những lý luận của mình
về lợi nhuận.Ông cho rằng phần giá trị mà ngời lao động tạo ra đợc phân chia
thành tiền lơng trả cho ngời lao động,địa tô trả cho địa chủ và lợi nhuận trả cho
nhà t bản.Nói nh vậy có nghĩa là nếu nh ta coi địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất thì
lợi nhuận chính là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của ngời lao động và
chúng đều có chung một nguồn gốc là lao động không dợc trả công của ngời lao
động.Xét về mặt lợng thì địa tô và lợi nhuận chính là những khoản dôi ra ngoài
tiền lơng của ngời lao động còn xét về mặt chất thì chúng phản ánh quan hệ bóc lột
của t bản và địa chủ đối với ngời lao động.Ông chỉ rõ rằng " Khi sở hữu TBCN
xuất hiện,ngời công nhân trở thành lao động làm thuê thì tiền lơng của họ không

phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ sản xuất ra nữa,mà chỉ là một bộ
phận của giá trị đó".Ngoài ra,A.Smith cũng đã thấy đợc xu hớng bình quân hoá tỷ
suất lợi nhuận và xu hớng tỷ suất lợi nhuận giảm sút do khối lợng t bản đầu t tăng
lên.
D.Ricardo đã kế thừa một cách xuất sắc những t tởng của A.Smith.Là ngời sống
trong thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp nên D.Ricardo đã có đợc những
điều kiện khách quan để tiếp tục phát triển học thuyết của A.Smith.Về lợi
nhuận,D.Ricardo cho rằng lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lơng mà nhà t bản trả
cho ngời công nhân.Tiến bộ hơn A.Smith,Ricardo không những đã thấy đợc xu h-
ớng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận bình quân mà còn giải thích đợc nguyên nhân
của sự giảm sút là do sự vận động , biến đổi của thu nhập giữa ba giai cấp địa
chủ,công nhân và nhà t bản.Ông giải thích rằng do trong nông nghiệp có tồn tại
quy luật màu mỡ của đất đai ngày càng giảm,vì vậy,giá cả của nông phẩm sẽ ngày
4
càng tăng lên làm cho tiền công của công nhân và địa tô của địa chủ cũng tăng lên
trong khi lợi nhuận của nhà t bản thì không tăng theo.Do vậy mà tỷ suất lợi nhuận
sẽ ngày càng giảm xuống,gây thiệt hại cho nhà t bản.Tuy nhiên, đây chỉ là những
luận giải đợc thiết lập trên cơ sở những quan sát bên ngoài sự vật,hiện tợng chứ
không hề mang tính khoa học.Chỉ đến khi Chủ Nghĩa Mác-Lênin(CN M-L) xuất
hiện,với việc phân chia t bản thành t bản bất biến và t bản khả biến,mới giải thích
đợc đúng đắn quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hớng giảm dần.
Trên đây,chúng ta đã xét tới một số trờng phái lý luận trớc Mác,các trờng phái
này đều là các trờng phái có những quan điểm tiến bộ ,về lợi nhuận nói riêng và về
các phạm trù kinh tế học khác nói chung,đặc biệt là trờng phái TSCĐ.Những quan
điểm này đều đã đạt đợc những thành tựu nhất định mặc dù vẫn còn rất nhiều hạn
chế.Sở dĩ nh vậy là do các học thuyết này phát sinh vào giai đoạn đầu mới hình
thành của CNTB , lúc này mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp t sản cha
gay gắt lắm còn mâu thuẫn cơ bản của xã hội lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa t sản
và địa chủ.Hơn nữa,vào lúc đó,cha có một học thuyết nào,đứng về phe giai cấp
công nhân,đợc hình thành để giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và chủ

t bản.Chính vì vậy cho nên các nhà lý luận của giai cấp t bản mới có thể đa ra các
học thuyết ít nhiều còn mang tính khoa học.
Tuy nhiên,trong giai đoạn sau của CNTB,sự phát triển của CNTB đã bắt đầu bộc
lộ ngày càng rõ nét những mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp t sản.Đã
bắt đầu có những xung đột ngày càng gay gắt về quyền lợi giữa hai giai cấp đợc
thể hiện qua các hiện tợng xã hội nh khủng hoảng,thất nghiệp,sự phá sản của sản
xuất nhỏ hay quá trình bần cùng hoá giai cấp vô sản vv Các phong trào đấu tranh
của công nhân bùng nổ ngày càng nhiều.Đặc biệt là từ sau khi xuất hiện CN M-
L ,với vai trò nh một lý luận chỉ đờng cho giai cấp công nhân,chỉ ra sứ mệnh lịch
sử của họ trong việc xoá bỏ và thay thế PTSX TBCN bằng một PTSX tiến bộ
hơn,PTSX XHCN ,thì sức ép lên giai cấp t sản ngày càng tăng.Chính vì vậy,trong
giai đoạn này,các nhà lý luận của giai cấp t bản đã ra sức xuyên tạc,bẻ cong những
lú luận đúng đắn trớc kia và đa ra những lý luận sai lầm nhằm giải thích các hiện t-
ợng xã hội kể trên với mục đích che dấu bản chất bóc lột của CNTB.Do đó
các học thuyết hình thành trong thời kỳ này nói chung và các lý luận về lợi nhuận
nói riêng không còn mang tính khoa học nữa.Sau đây chúng ta sẽ xem xét một số
trờng phái nh vậy,trên cơ sở phân tích các lý luận về lợi nhuận để thấy rõ bản chất
phi khoa học của các học thuyết này.
3/Quan điểm về lợi nhuận của tr ờng phái Hậu Cổ Điển:
Trờng phái Hậu Cổ Điển(HCĐ),mặc dù xuất hiện ngay sau trờng phái TSCĐ nh-
ng các nhà lý luận của trờng phái HCĐ lại hoàn toàn xa rời những lý luận cuả tr-
ờng phái TSCĐ.Họ rời bỏ phơng pháp trừu tợng hoá khoa học,không đi sâu vào
phân tích bản chất của sự vật,hiện tợng mà chỉ xem xét hời hợt bên ngoài.Đặc biệt
là họ đã áp dụng phơng pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế,"coi KTCT là
khoa học nghiên cứu về đạo đức xã hội".Hơn nữa,họ lại xa rời lý thuyết về giá trị
lao động và đa ra các lý luận về giá trị ích lợi hay giá trị các nhân tố sản xuất
vv Ta có thể thấy đợc điều đó qua các học thuyết của một số đại diện tiêu biểu
cho trờng phái này nh R.Malthus và J.B.Say.
5
Đối với Malthus,trên cơ sở quan điểm sai lầm của A.Smith về giá trị,ông đã phát

triển lên và cho rằng:"Giá trị của hàng hoá do lao động mà hàng hoá đó có thể mua
đợc bằng những chi phí để sản xuất ra nó.Các chi phí này bao gồm chi phí về lao
động sống,chi phí về lao động vật hoá cộng với lợi nhuận t bản ứng trớc".Nh vậy là
dựa trên quan điểm sai lầm về giá trị,Malthus đã đa ra quan niệm sai lầm về lợi
nhuận,coi lợi nhuận"là khoản dôi ra ngoài chi phí về lao động sống và lao động vật
hoá".Với quan niệm này về lợi nhuận
vô hình chung,Malthus đã dẫn tới một cách giải thích sai lầm về nguồn gốc của lợi
nhuận,cho rằng không chỉ sức lao động của ngời công nhân mà cả các công cụ lao
động và đối tợng lao động cũng tham gia vào quá trình hình thành lợi nhuận.
Còn theo J.B.Say,ngời ủng hộ quan điểm giá trị ích lợi,thì cho rằng ích lợi của
vật quyết định giá trị của nó,ích lợi càng cao thì giá trị của vật càng lớn,coi ích lợi
là thớc đo của giá trị.Dựa trên cơ sở thuyết giá trị ích lợi,Say đã đa ra lý thuyết về
ba nhân tố sản xuất.Ông cho rằng có ba nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất là
lao động,đất đai và t bản,mỗi nhân tố có ích lợi riêng và tạo ra những phần giá trị t-
ơng ứng.Do vậy,Say đã coi lợi nhuận nh là phần giá trị của hàng hoá đợc tạo ra do
ích lợi của t bản,có nghĩa là ,coi lợi nhuận nh là hiệu suất đầu t của t bản.Luận
điểm này tất yếu dẫn tới việc cho rằng những máy móc tham gia vào quá trình sản
xuất cũng tham gia vào quá trình tạo ra giá trị chứ không phải chỉ riêng lao động
của công nhân mới tạo ra giá trị.Hơn nữa,Say còn cho rằng lợi nhuận là tiền lơng
của nhà quản lý kinh doanh,là phần thởng cho những nhà đầu t dám mạo hiểm.Ta
có thể thấy rằng đó hoàn toàn là những quan điểm sai lầm.

4/Quan điểm về lợi nhuận của tr ờng phái Cổ Điển Mới:
Xuất hiện trong giai đoạn bắt đầu sự chuyển đổi từ CNTB tự do cạnh tranh sang
CNTB độc quyền,đặc biệt là đợc hình thành sau khi CN Mác ra đời,trờng phái Cổ
Điển Mới (CĐM) ra đời nhằm mục đích biện hộ cho CNTB trớc những hiện tợng
kinh tế mới phát sinh nh tình trạng độc quyền và những hậu quả về mặt xã hội của
nó vv Ngoài ra nó còn có một nhiệm vụ khác là phê phán CN Mác,phủ nhận
những lý luận khoa học của Mác về bản chất bóc lột của giai cấp t bản,sự diệt vong
tất yếu của CNTB và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vv nhằm bảo vệ lợi

ích của giai cấp t sản.ủng hộ t tởng tự do cạnh tranh,áp dụng phép phân tích vi mô
nền kinh tế,kế thừa và tiếp tục phát triển lý thuyết giá trị tâm lý chủ quan là các
đặc điểm nổi bật của trờng phái CĐM.Dựa trên các đặc điểm cơ bản đó thì mỗi đại
biểu của trờng phái CĐM lại có những quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Với J.B.Clark,ông đã phát triển lý thuyết 'ích lợi giới hạn' lên thành lý thuyết
'năng suất giới hạn' và từ đó đa ra lý thuyết 'năng lực chịu trách nhiệm' của các
nhân tố sản xuất.Ông cho rằng thu nhập là năng lực chịu trách của các nhân tố sản
xuất,cụ thể là,tiền lơng là năng lực chịu trách nhiệm của lao động,địa tô là năng
lực chịu trách nhiệm của đất đai còn lợi nhuận là năng lực chịu trách nhiệm của t
bản.Nói nh vậy có nghĩa là lợi nhuận,thực chất,đợc coi là tiền lơng trả cho nhà sản
xuất-kinh doanh.Hoặc nh Alfred Marshall thì lại coi lợi nhuận nh là khoản tiền thù
lao thuần túy cho năng khiếu quản lý kinh doanh,sử dụng t bản và năng lực tổ chức
hoạt động sản xuất.
6
Nhìn chung,các quan điểm về lợi nhuận của một số trờng phái phi Mácxit kể
trên,mặc dù có một số trờng phái có những quan điểm tiến bộ,đặc biệt là các trờng
phái trớc Mác, nhng chúng vẫn cha thể có đợc tính chính xác và khoa học một
cách trọn vẹn.Sở dĩ nh vậy là vì các quan điểm này đợc xây dựng trên cơ sở những
luận điểm,hoặc là cha đúng đắn,chính xác hoặc là sai lầm hoàn toàn,về giá trị.Vì
vậy mà ngay cả những nhà t tởng tiến bộ nhất của trờng phái TSCĐ cũng cha thể
xác định đợc đầy đủ và chính xác về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.Chỉ đến
khi CN Mác xuất hiện,trên cơ sở kế thừa và phát triển tiếp tục những quan điểm
đúng đắn của các trờng phái trớc đó,mới có thể giải thích một cách khoa học,chính
xác và đầy đủ về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
ii /Quan điểm về lợi nhuận trong học thuyết của Mác:

Nh trên đã phân tích,chỉ đến khi CN Mác xuất hiện thì nguồn gốc và bản chất
của lợi nhuận mới đợc làm sáng tỏ thông qua các học thuyết kinh tế của CN
Mác.Dựa trên việc kế thừa những t tởng tiến bộ,khoa học của các trờng phái lý
luận trớc đó,Mác đã sáng tạo ra học thuyết của mình mà trong đó,nổi bật và có vai

trò nh "một hòn đá tảng" trong toàn bộ học thuyết chính là những lý luận về giá trị
thặng d(GTTD).Dựa cơ sở đó,Mác đã phân tích và làm sáng tỏ nguồn gốc và bản
chất của lợi nhuận cũng nh đã giải thích đợc sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận
bình quân và bản chất của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hớng giảm dần.Ngoài
ra,Mác cũng đã thấy đợc và phân tích một cách khoa học sự phân chia của lợi
nhuận thành các hình thức khác nhau nh lợi nhuận công nghiệp(LNCN),lợi nhuận
thơng nghiệp(LNTN),lợi tức cho vay(LTCV),lợi nhuận ngân hàng(LNNH),địa
tô(ĐT) và cuối cùng là lợi nhuận độc quyền(LNĐQ).
Sau đây,chúng ta sẽ lần lợt xem xét các vấn đề trên trong học thuyết của Mác.
1/Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:
Để thấy đợc sự hình thành của lợi nhuận,trớc tiên ta hãy xem xét về khái niệm
mà mác gọi là chi phí sản xuất(CPSX).
Nh chúng ta đã biết,giá trị của hàng hoá đợc cấu thành nên từ chi phí cho lao
động trong quá khứ,chi phí cho lao động sống và phần giá trị mới đợc tạo ra trong
quá trình sản xuất.Tuy nhiên,đối với nhà t bản thì họ không quan tâm tới sự cấu
thành của giá trị hàng hoá mà họ chỉ quan tâm tới việc phải bỏ ra bao nhiêu t bản
và sẽ thu lại đợc cái gì.
Để tiến hành sản xuất ra một sản phẩm thì trên thực tế nhà t bản sẽ phải ứng t
bản ra để mua các t liệu sản xuất(TLSX),đợc ký hiệu là (c), và để thuê lao động,đ-
ợc ký hiệu là (v).Toàn bộ phần t bản này đợc gọi là t bản ứng trớc(TBƯT).Tuy
nhiên,theo Mác thì không phải toàn bộ phần TBƯT này đều đợc chuyển dịch hết
vào giá trị của hàng hoá mà chỉ có một phần lợng t bản đợc dùng để ứng trớc cho
TLSX và toàn bộ lợng t bản đợc dùng để ứng trớc cho lao động là cấu tạo trực tiếp
nên giá trị của hàng hoá. Phần giá trị này đợc Mác gọi là CPSX ,đợc ký hiệu là (k)
và đợc biểu diễn dới công thức:
k=c+v
7
Với sự hình thành khái niệm CPSX,nhà t bản đã bớc đầu che dấu đợc sự hình
thành của giá trị thặng d(GTTD) và tạo điều kiện để hình thành nên khái niệm lợi
nhuận.Có thể thấy rõ đợc điều này qua việc nghiên cứu những phân tích của Mác

về công thức của CFSX trên.
Trớc tiên,ta hãy xen lại định nghĩa của Mác về GTTD.Theo Mác thì "giá trị
thặng d là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị
nhà t bản chiếm không".Nh vậy,theo Mác thì GTTD chính là phần lao động không
đợc trả công của ngời công nhân mà nhà t bản đã chiếm đoạt,điều đó có nghĩa là
GTTD (hay chính là phần giá trị mới) dợc tạo ra bởi lao động của ngời công
nhân.Nói cách khác,chính lao động của ngời công nhân và chỉ duy nhất một mình
nó là tạo ra GTTD.Lý luận về GTTD của Mác đã vạch trần bản chất bóc lột của
CNTB,chỉ rõ nguồn gốc sự giàu có của CNTB nói chung và của nhà t bản nói riêng
chính là nhờ chiếm đoạt GTTD.
Tuy nhiên,với sự hình thành khái niệm CPSX (k=c+v) thì nguồn gốc và bản chất
bóc lột của GTTD đã bị che lấp.ở đây,dờng nh phần giá trị mới đợc tạo ra là do tác
động của toàn bộ lợng t bản mà nhà t bản đã ứng ra.Có nghĩa là,cả bộ phận t bản
bỏ vào lao động (v) và bộ phận t bản bỏ vào TLSX (c) đều có vai trò nh nhau trong
việc tạo ra phần giá trị mới,nh Mác đã viết:"Bộ phận t bản bỏ vào lao động,khác
với bộ phận t bản bỏ vào TLSX,vào bông hay than chẳng hạn,ở chỗ là nó đợc dùng
để trả tiền cho một yếu tố sản xuất khác về mặt vật chất,chứ hoàn toàn không phải
là vì,do chức năng của nó,nó đã đóng một vai trò khác trong quá trình sáng tạo ra
giá trị của hàng hoá và do đó trong quá trình làm cho t bản tăng thêm giá trị".Nh
vậy là,với sự hình thành khái niệm CPSX ,vô hình chung đã xoá đi sự khác nhau
giữa t bản bất biến(TBBB) và t bản khả biến(TBKB) trong chức năng sáng tạo ra
giá trị.
Nh vậy,phần giá trị mới,đợc tạo ra trong quá trình sản xuất,nếu coi là phần dôi
ra ngoài giá trị sức lao động do ngời công nhân tạo ra thì đợc gọi là GTTD còn
nếu,vẫn với lợng giá trị đó,mà đợc đem so sánh với toàn bộ t bản ứng trớc thì sẽ
mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận.Vậy,xét cho cùng,lợi nhuận chẳng qua chỉ
là một hình thái chuyển hoá của GTTD," một hình thái mà PTSX TBCN tất nhiên
phải đẻ ra" nhằm che đậy bản chất bóc lột của nó.
Nếu ký hiệu lợi nhuận là (p) thì công thức giá trị của hàng hoá trớc là :
gt=c+v+m nay sẽ chuyển thành :gt=k+p,với k (=c+v) chính là CPSX để tạo ra hàng

hoá.Từ công thức này,ta có thể thấy rằng CPSX của một hàng hoá luôn nhỏ hơn
giá trị thực tế của hàng hoá đó một lợng đúng bằng phần GTTD đợc tạo ra.Nh
vậy,nếu hàng hoá đợc bán đúng với giá trị của nó thì nhà t bản sẽ thu về đợc một
khoản lợi nhuận đúng bằng phần GTTD (m) chứa đựng trong hàng hoá đó.Tuy
nhiên,nhà t bản cũng vẫn có thể bán một hàng hoá nhất định nào đó với giá cả nhỏ
hơn hoặc lớn hơn giá trị thực tế của nó.Chừng nào mà giá bán vẫn còn cao hơn
CPSX để sản xuất ra hàng hoá đó thì nhà t bản còn thu đợc lợi nhuận.Chính vì vậy
đã làm cho lợi nhuận dờng nh là kết quả của hoạt động kinh doanh, do tài nghệ
kinh doanh của nhà t bản tạo ra.Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự hình
thành và tồn tại của một số quan điểm sai lầm về lợi nhuận mà ta đã nghiên cứu ở
phần trên.
8

2/Tỷ suất lợi nhuận,tỷ suất lợi nhuận bình quân,giá cả sản xuất và quy luật tỷ
suất lợi nhuận có xu h ớng giảm dần :
Nh trên chúng ta đã phân tích,lợi nhuận thực chất chỉ là một hình thức biến tớng
của GTTD.Tuy nhiên,đối với nhà t bản thì họ không quan tâm,không cần biết đến
điều đó.Khi tiến hành một hoạt động sản xuất hàng hoá,mục tiêu của nhà t bản
không phải là hàng hoá đợc sản xuất ra cũng không phải là giá trị sử dụng của
hàng hoá đó.Cái mà nhà t bản cần là cái phần giá trị mới thừa ra so với toàn bộ
phần t bản đã tiêu dùng,nó đợc nhà t bản gọi dới cái tên là lợi nhuận.Mặc dù cái
đích cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất-kinh doanh của nhà t bản là lợi nhuận
tuy nhiên nhà t bản lại chẳng quan tâm xem phần lợi nhuận đó đợc tạo ra từ đâu,từ
TBBB hay từ TBKB vv Đối với nhà t bản,lợi nhuận đợc tạo nên từ toàn bộ phần t
bản đã tiêu dùng,đúng nh Mác đã viết :" nhà t bản trông mong là tất cả các bộ
phận của t bản mà hắn ứng ra đều sẽ đem lại lợi nhuận nh nhau cả ".Từ quan niệm
trên đã nảy sinh khái niệm về tỷ suất lợi nhuận.Theo định nghĩa của Mác thì "Tỷ
suất lợi nhuận (p') là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng d và toàn bộ t bản
ứng trớc".Ta có : p'=(m/(c+v))*100%.
Với sự xuất hiện khái niệm tỷ suất lợi nhuận,ta có thể thấy rằng,một lần nữa bản

chất bóc lột của CNTB lạiđợc che dấu đi.Nếu nh tỷ suất GTTD (m') đã phản ánh đ-
ợc sự bóc lột của nhà t bản đối với công nhân làm thuê,là thớc đo trình độ bóc lột
của giai cấp t sản thì tỷ suất lợi nhuận,đơn thuần,chỉ phản ánh mức lãi của việc đầu
t t bản,nó chỉ cho nhà t bản biết nên đầu t vào đâu thì có lợi hơn.
Trên đây,chúng ta đã nghiên cứu,xem xét về sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận
cũng nh vai trò của nó trong phản ánh mức lãi của hoạt động đầu t.Tuy nhiên,tỷ
suất lợi nhuận chỉ phản ánh trong phạm vi một nghành sản xuất,mỗi nghành có
một tỷ suất lợi nhuận riêng.Còn trong nền kinh tế TBCN với sự đa dạng về nghành
nghề thì tất yếu dẫn tới sự hình thành khái niệm tỷ suất lợi nhuận bình quân.Sở dĩ
hình thành khái niệm này là do trong nền kinh tế TBCN luôn tồn tại sự cạnh
tranh,đó là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những ngời sản xuất hàng hoá dựa trên
chế độ sở hữu khác nhauvề TLSX,nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.Trong nền kinh tế TBCN,do chế độ chiếm hữu t nhân
TBCN cho nên sự tồn tại tình trạng cạnh tranh là tất yếu dới hai dạng là cạnh tranh
trong nội bộ nghành và cạnh tranh giữa các nghành.Mỗi hình thức cạnh tranh sẽ
đem lại một kết quả khác nhau.Với cạnh tranh trong nội bộ nghành,kết quả cuối
cùng là làm cho tỷ suất lợi nhuận của nghành giảm xuống.Còn cạnh tranh giữa các
nghành thì lại dẫn tới sự hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.Sở dĩ nh vậy là
do,nh ta đã biết,mỗi nghành sản xuất có một tỷ suất lợi nhuận riêng rất khác
nhau,nó phụ thuộc vào cấu tạo hữu cơ của lợng t bản đầu t vào các nghành đó.Do
đó,luôn tồn tại những nghành mà ở đó có tỷ suất lợi nhuận cao hơn các nghành
khác mà tỷ suất lợi nhuận của một nghành phản ánh mức lãi đạt đợc nếu đầu t vào
nghành đó.Chính vì vậy mà các nhà t bản sẽ đua nhau rút t bản ra khỏi những
nghành có tỷ suất lợi nhuận thấp để đầu t vào những nghành có tỷ suất lợi nhuận
cao.Và kết quả của sự di chuyển tự do,liên tực này là hình thành nên tỷ suất lợi
nhuận bình quân.
9
Vậy "Tỷ suất lợi nhuận bình quân chính là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng
giá trị thặng d trong xã hội t bản và tổng t bản xã hội đã đầu t vào tất cả các lĩnh
vực,các nghành của nền sản xuất t bản chủ nghĩa ".Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là

p' thì ta có :
p'=
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân đã dẫn tới sự biến đổi từ giá trị hàng
hoá thành giá cả sản xuất.Giá cả sản xuất đợc định nghĩa "bằng chi phí sản xuất
cộng với lợi nhuận bình quân".Ta có : giá cả sản xuất = k + p .
Ta có thể thấy rằng,trớc đây,khi cha xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả
xoay quanh giá trị của hàng hoá.Giờ đây,với việc hình thành khái niệm giá cả sản
xuất thì giá cả của hàng hoá lại xoay quanh giá cả sản xuất.Đã từng có một số nhà
kinh tế học t sản,dựa vào sự thật là giá cả sản xuất trong một số nghành không phù
hợp với giá trị của hàng hoá trong các nghành đó,để hòng bác bỏ lý luận giá trị lao
động của Mác.Tuy nhiên,cần phải thấy rằng quy luật giá trị vẫn hoàn toàn đúng
đắn trong giai đoạnTBCN,giá trị vẫn đóng vai trò là cơ sở là nội dung bên trong
của giá cả sản xuất.Nói cách khác,giá cả sản xuất thực chất chỉ là mộthình thức
biến tớng của giá trị mà thôi.
Ta có thể thấy rõ đợc điều đó qua một số phân tích sau:
Một là,tổng số lợi nhuận của toàn bộ giai cấp t sản thì đúng bằng với tổng số
GTTD do lao động không công của giai cấp công nhân tạo ra.Và do đó,tỷ suất lợi
nhuận bình quân cao hay thấp là do lợng GTTD đợc tạo ra trong xã hội quyết
định.Sở dĩ nh vậy vì,nh trên đã phân tích,nguồn gốc của lợi nhuận chỉ có thể xuất
phát từ lao động không công của công nhân bị nhà t bản chiếm đoạt chứ không thể
từ một nguồn gốc nào khác.Các nhà t bản,nh Mác nói,sẽ không thể bóc lột lẫn
nhau,bóc lột trên lng nhau đợc.
Hai là, mặc dù trên thực tế,trong một số nghành,giá cả sản xuất của một hàng
hoá có thể cao hơn giá trị của nó trong khi ở một số nghành khác thì giá cả sản
xuất của hàng hoá lại thấp hơn giá trị của nó.Nhng xét về tổng thể,trên phạm vi
toàn xã hội,thì tổng số giá cả sản xuất vẫn đúng bằng tổng số giá trị của tất cả hàng
hoá.
Ba là,giá trị của một hàng hoá biến động tăng hoặc giảm cũng sẽ kéo theo sự
biến động tơng ứng của giá cả sản xuất của hàng hoá đó.
Nói tóm lại,Mác đã giải thích đợc một cách chính xác và khoa học về nguồn

gốc,bản chất của lợi nhuận cũng nh các khái niệm khác liên quan tới lợi nhuận,đặc
biệt là những khái niệm về tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.Điều này
thể hiện sự tiến bộ vợt trội của học thuyết kinh tế của Mác so với các học thuyết
kinh tế khác.Hơn thế nữa, không chỉ lý giải về sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận
bình quân mà Mác còn giải thích và chứng minh một cách đúng đắn và khoa học
về quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm dần.Một quy luật mà mặc dù một số nhà lý luận
của trờng phái TSCĐ nh A.Smith hay D.Ricardo tuy đã nhận thức đợc về sự hiện
diện của quy luật này nhng vẫn cha thể giải thích đợc nó một cách đúng đắn và
khoa học.
Mác đã chứng minh rằng sự tồn tại của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hớng
giảm dần là do sự tăng lên của TBBB so với tổng t bản đã dẫn tới sự giảm sút một
cách tơng đối của TBKB so với tổng t bản.Kết quả là TBBB sẽ tăng lên một cách t-
10
ơng đối so với TBKB và do đó làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng giảm dần.Sở dĩ có
hiện tợng TBBB tăng lên tơng đối so với TBKB,theo Mác giải thích, là do " sự
phát triển ngày càng nhanh chóng của CNTB đã đem lại những phơng pháp sản
xuất mới cho phép vẫn một số lợng công nhân nh thế,vẫn một khối lợng sức lao
động nh thế do một khối lợng t bản khả biến nhất định thuê mớn, cùng trong một
khoảng thời gian nh thế,lại sẽ vận động đợc một khối lợng t liệu lao động,máy móc
và các loại t bản cố định ngày càng lớn " .Ta sẽ xem xét một ví dụ dới đây để có
thể thấy rõ hơn về lý luận trên :
Giả sử có một lợng TBBB v=100 ; tỷ suất giá trị thặng d m'=100%
do đó lợng GTTD tơng ứng sẽ bằng m'*v = 100%*100=100
Sau đây,với sự tăng lên dần của TBBB (c),ta sẽ thấy rằng tỷ suất lợi nhuận (p') sẽ
giảm dần xuống.Ta có p'=m/(c+v) và nếu :
c=50 ,v=100 thì : p'=100/(50+100)=66,666%
c=200,v=100 thì : p'=100/(200+100)=33,333%
c=300,v=100 thì : p'=100/(300+100)=25%
c=400,v=100 thì : p'=100/(400+100)=20%
Nh vậy là,với một lợng TBKB (v) và một trình độ bóc lột (m') không thay đổi thì

sự tăng lên dần của lợng TBKB (c) sẽ gây ra sự giảm dần của tỷ suất lợi nhuận p'.
Mặt khác,có thể nói rằng,nguyên nhân sâu xa của quy luật tỷ suất lợi nhuận có
xu hớng giản dần chính là sự tăng dần của năng suất lao động xã
hội(NSLĐXH).Với nền đại công nghiệp của CNTB , NSLĐXH ngày càng đợc
nâng cao.Điều đó cho phép một số lợng ít hơn về lao động có thể vận động đợc
một khối lợng máy móc ngày càng nhiều hơn để biến một lợng,cũng ngày càng
nhiều hơn,các TLLĐ thành sản phẩm hàng hoá.Nói khác đi,trong cơ cấu giá trị của
hàng hoá thì phần TBBB (c) ngày càng tăng trong khi phần TBKB (v) thì ngày
càng giảm.Và vì vậy,mặc dù trình độ bóc lột là không giảm nhng tỷ suất lợi nhuận
vẫn ngày càng giảm.
Tuy nhiên,cần phải thấy rằng,nh Mác đã khẳng định,sự đúng đắn của quy luật tỷ
suất lợi nhuận giảm dần không có nghĩa là lợng GTTD,hay chính là lợng lao động
không đợc trả công mà nhà t bản chiếm đoạt của ngời công nhân,không tăng lên
một cách tuyệt đối.Sở dĩ nh vậy là do nhà t bản không ngừng nâng cao tỷ suất giá
trị thặng d cũng nh không ngừng tăng thêm tổng số lao động bị t bản bóc lột.Hơn
thế nữa,quy luật này còn làm cho nhà t bản càng tăng cờng bóc lột công nhân tới
mức tối đa nhằm kìm hãm xu hớng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.Ngoài ra,nó còn
làm cho cuộc tranh giành phân chia tổng khối lợng lợi nhuận ngay trong nội bộ
giai cấp t bản cũng diễn ra ngày càng gay gắt.
Không chỉ có vậy mà trong nỗ lực tìm mọi cách kìm hãm xu hớng giảm dần của
tỷ suất lợi nhuận và nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận,nhà t bản đã đua nhau đầu
t t bản ra nớc ngoài đặc biệt là các quốc gia kém phát triển nơi có nguồn nhân công
giá rẻ và cấu tạo hữu cơ của t bản thấp hơn so với các nớc phát triển.ở các nớc
này,bọn t bản ra sức vơ vét,bóc lột nhân dân các nớc thuộc địa.Điều đó làm cho
mâu thuẫn giữa các nớc t bản phát triển và các nớc chậm tiến,giữa chính quốc và
các nớc thuộc địa ngày càng gay gắt.
11
Ngoài ra,với tham vọng tăng thêm lợi nhuận để bù đắp vào chỗ giảm sút lợi nhuận
do xu hớng giảm sút lợi nhuận gây ra,nhà t bản đã tăng cờng mở rộng quy mô sản
xuất,đẩy sức cung của thị trờng vợt xa khỏi giới hạn nhu cầu của ngời mua.Đây là

một trong các nguyên nhân dẫn tới các cuộc khủng hoảng thừa,loại khủng hoảng
đặc trng của CNTB.
Nói tóm lại,có thể thấy rằng,quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hớng giảm dần
không chỉ đơn thuần phản ánh xu hớng giảm dần của tỷ suất lợi nhuận trong xã hội
t bản mà nó còn làm cho những mâu thuẫn nội tại của CNTB ngày càng trở nên sâu
sắc và từ đó,chỉ ra các hạn chế mang tính chất lịch sử của PTSX TBCN .Vì
vậy,việc giải thích một cách khoa học sự hình thành cũng nh các tác động của quy
luật tỷ suất lợi nhuận giảm dần trong xã hội t bản đã làm cho học thuyết kinh tế
của Mác nói riêng và toàn bộ hệ thống lý luận của Mác nói chung tăng thêm tính
khoa học và phù hợp với thời đại.Những lý luận này góp phần làm sáng tỏ những
hạn chế mang tính lịch sử của CNTB.Nó chỉ ra rằng tới một lúc nào đó thì những
mâu thuẫn nội tại của CNTB cũng nh những hạn chế lịch sử của nó sẽ làm cho
PTSX TBCN trở thành một trở ngại ngăn cản,kìm hãm sự phát triển của LLSX và
vì vậy,tất yếu tới một lúc nào đó,CNTB sẽ bị diệt vong và thay thế nó sẽ là một xã
hội khác tiến bộ hơn.
3/ Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận:
Học thuyết kinh tế của Mác xét về hoàn cảnh ra đời đã có một số u thế thuận lợi
hơn các học thuyết kinh tế trớc đó. Ra đời trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của
CNTB vì vậy học thuyết kinh tế của Mác không chỉ giải thích đợc nguồn gốc,bản
chất của lợi nhuận mà còn thấy đợc những hình thái biểu hiện khác của lợi nhuận.
Sở dĩ nh vậy là do cùng với quá trình phát triển của mình,CNTB không ngừng tăng
cờng sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong xã hội. Do vậy, nếu trớc kia trong xã
hội chỉ tồn tại t bản trong lĩnh vực sản xuất Công nghiệp thì nay đã đợc phân chia
ra cả các lĩnh vực khác nh Thơng nghiệp, tín dụng và cả trong Nông nghiệp nữa .
Trên cơ sở sự phân chia đó của t bản, học thuyết của Mác cũng đã chỉ ra đợc sự
phân chia tơng ứng của lợi nhuận. Nếu trớc đây, toàn bộ phần giá trị thặng d bị nhà
T bản Công nghiệp chiếm đoạt hết thì nay phần giá trị thặng d đó lại đợc chia cho
các lĩnh vực khác nữa và từ đó dẫn tới sự hình thành của lợi nhuận Thơng nghiệp,
lợi tức cho vay và địa tô T bản Chủ nghĩa.
Tuy nhiên, mặc dù lợi nhuận Công nghiệp, lợi nhuận Thơng nghiệp, lợi tức cho

vay và địa tô T bản Chủ nghĩa đều có cùng nguồn gốc là phần giá trị thặng d do lao
động không công của ngời lao động tạo ra, đều là các hình thức biểu hiện khác
nhau của lợi nhuận nhng mỗi một hình thức lại có một số đặc điểm riêng khác biệt
với các hình thức khác. Để thấy rõ đợc điều này,sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu,
xem xét lần lợt từng hình thức này.
a/ Lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận Th ơng nghiệp:
Trớc tiên, xét trong lĩnh vực sản xuất và lu thông hàng hóa ta sẽ thấy tồn tại hai
dạng t bản là t bản Thơng nghiệp và t bản Công nghiệp và tơng ứng với chúng là
hai hình thức lợi nhuận, lợi nhuận Thơng nghiệp và lợi nhuận Công nghiệp .
Không phải chỉ tới CNTB thì mới tồn tại hai dạng t bản cũng nh hai hình thái lợi
nhuận này. Nhng trong các xã hội trớc CNTB thì hai dạng t bản này hoàn toàn độc
12
lập với nhau. Nhà t bản sau khi sản xuất ra sản phẩm rồi phải tự mình mang sản
phẩm ra thị trờng để tiêu thụ do đó toàn bộ t bản của họ ban đầu không chỉ đợc đầu
t vào mỗi quá trình sản xuất mà còn phải chi phí cho cả quá trình bán hàng do vậy
lợi nhuận của nhà t bản Công nghiệp sẽ bị giảm đáng kể.Còn t bản Thơng nghiệp
trong giai đoạn này,hay còn đợc gọi là Thơng nghiệp cổ xa với chức năng lu thông
hàng hoá dựa trên cơ sở mua rẻ, bán đắt và vì vậy lợi nhuận Thơng nghiệp lúc
này thực chất là kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo. Ta có thể thấy rõ điều này
qua quan điểm của trờng phái trọng thơng, cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự
trao đổi không ngang giá , cho rằng không một ngời nào thu đợc lợi mà không
làm thiệt kẻ khác.
Nhng trong giai đoạn TBCN,do nhu cầu của sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá
thì Công nghiệp và Thơng nghiệp hay nói rộng hơn là quá trình sản xuất và lu
thông không thể tách biệt độc lập mà đã trở nên phụ thuộc, gắn kết lẫn nhau. Lúc
này thì t bản Thơng nghiệp, thực chất là một bộ phận của t bản Công nghiệp tách
rời ra, phục vụ qúa trình lu thông hàng hoá của nhà t bản Công nghiệp. Khi đó,
với sự hình thành của t bản Thơng nghiệp thì cả t bản Công nghiệp và t bản Thơng
nghiệp đều thu đợc những lợi ích mà đợc thể hiện ra là lợi nhuận Công nghiệp và
lợi nhuận Thơng nghiệp. Đối với t bản Thơng nghiệp, mặc dù chỉ tham gia vào lĩnh

vực lu thông, tức là chỉ tham gia vào việc thực hiện giá trị, trong đó có giá trị thặng
d, chứ không hề tham gia vào quá trình sản xuất ra giá trị nhng vẫn thu đợc một
phần lợi nhuận. Phần lợi nhuận này đợc gọi là lợi nhuận Thơng nghiệp. Nếu chỉ xét
tới vai trò của t bản Thơng nghiệp là thực hiện giá trị của hàng hoá mà tạm thời bỏ
qua chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong lĩnh vực lu thông của nó thì đúng là
t bản Thơng nghiệp không hề tạo ra giá trị và giá trị thặng d do vậy nhìn bề ngoài
có thể lầm tởng lợi nhuận Thơng nghiệp là do mua rẻ, bán đắt mà có . Tuy
nhiên,lợi nhuận Thơng nghiệp thực chất, là một phần giá trị trị thặng d đợc sáng
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà t bản Công nghiệp nhờng cho nhà t bản Th-
ơng nghiệp.
Sở dĩ nhà t bản Công nghiệp chịu nhờng và phải nhờng một phần của thặng d mà
mình chiếm đoạt đợc hay một phần lợi nhuận của mình cho nhà t bản Thơng
nghiệp là do:
Thứ nhất, với việc hình thành bộ phận t bản Thơng nghiệp chuyên trách việc lu
thông hàng hoá thì t bản Công nghiệp đã thu đợc nhiều lợi nhuận hơn so với khi
mà t bản Công nghiệp phải đảm nhiệm cả việc lu thông hàng hoá. Ngay cả khi phải
chia sẻ một phần lợi nhuận cho t bản Thơng nghiệp thì phần lợi nhuận còn lại vẫn
nhiều hơn cho nên nhà t bản có thể nhờng một phần lợi nhuận nhằm duy trì bộ
phận t bản Thơng nghiệp.
Thứ hai là, nh trên đã phân tích, nếu chỉ xét t bản Thơng nghiệp với vai trò thuần
tuý là thực hiện giá trị thì t bản Thơng nghiệp không hề tạo ra một chút giá trị nào,
tức là hoạt động đó sẽ không mang lại một chút lợi nhuận nào cho nhà t bản Thơng
nghiệp. Do vậy,nếu muốn t bản Thơng nghiệp tiếp tục đảm nhiệm việc tiêu thụ
hàng hóa, thực hiện gia trị thì nhà t bản Công nghiệp buộc phải nhờng một phần
giá trị thặng d cho t bản Thơng nghiệp.
Ngoài ra,sự chuyên môn hoá này còn góp phần mở rộng qui mô tái sản xuất,mở
rộng thị trờng, tạo điều kiện cho Công nghiệp phát triển. Hơn nữa, tuy không trực
13
tiếp tạo ra giá trị thặng d nhng t bản Thơng nghiệp lại góp phần làm tăng năng suất
lao động, tăng lợi nhuận và do đó, làm cho tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội

tăng.
Nh vậy, khái quát lại thì lợi nhuận Thơng nghiệp có nguồn gốc từ phần giá trị
thặng d đợc tạo ra trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên lợi nhuận đó đợc thực hiện
nh thế nào? Do t bản Thơng nghiệp chỉ tham gia vào quá trình lu thông cho nên lợi
nhuận Thơng nghiệp chính là phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng
hoá.Nhng nói thế không có nghĩa là nhà t bản Thơnh nghiệp phải mua hàng hoá
với đúng giá trị của nó để rồi bán cao hơn giá trị nhằm thu lợi nhuận chênh lệch.
Mà thực chất thì nhà T bản Thơng nghiệp
sẽ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và bán đúng bằng giá trị của hàng hoá. Nguyên
nhân của hiện tợng này là do sự hình thành một tỉ suất lợi nhuận bình quân mới là
bình quân các tỉ suất lợi nhuận của hai nghành Công nghiệp và Thơng nghiệp. Ta
có thể thấy rõ điều này khi phân tích ví dụ sau:
Một nhà T bản Công nghiệp có một lợng t bản là 800 với cấu tạo: 700c + 100v
với tỉ suất giá trị thặng d: m = 100% => giá trị hàng hóa là: 700c + 100v + 100 =
900
Tỉ suất lợi nhuận nghành Công nghiệp sẽ là:
P
CN
= 100/800 * 100% = 12,5%
Bây giờ,nếu có thêm một nhà t bản Thơng nghiệp bỏ ra 200 để mua hàng hoá
=>lúc đó ta có tỉ suất lợi nhuận bình quân sẽ bằng:
100
*100% = 10%
800 + 200
Theo tỉ suất lợi nhuận chung mới này thì phần lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận
Thơng nghiệp tơng ứng sẽ bằng:
LnCN = 800 * 10% = 80
LnTN = 200 * 10% = 20
Khi đó nhà t bản Thơng nghiệp sẽ mua hàng hoá từ nhà t bản Công nghiệp với giá
thấp hơn giá trị:

800 + 80 = 880 (<900)
và sẽ bán với giá đúng bằng giá trị và thu đợc lợi nhuận Thơng nghiệp:
880 + 20 = 900
Nh vậy là, với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận chung giữa hai ngành Công nghiệp
và Thơng nghiệp thì lợi nhuận Thơng nghiệp đã đợc thực hiện. Với sự xuất hiện
của lợi nhuận Thơng nghiệp trong xã hội t bản,đã hình thành nên hai loại giá cả
sản xuất là giá cả sản xuất Công nghiệp và giá cả sản xuất thị trờng. Nó cũng góp
phần che dấu thêm một mức nữa quan hệ bóc lột TBCN.
b/ Lợi tức cho vay và lợi nhuận ngân hàng:
Nh trên đã phân tích,t bản Thơng nghiệp là một bộ phận t bản Công nghiệp tách
ra, phục vụ quá trình lu thông hàng hoá của nhà t bản Công nghiệp. Còn t bản cho
vay, thực chất cũng là một bộ phận của t bản Công nghiệp đợc tách ra nhng là
để,một mặt vừa đáp ứng nhu cầu về t bản,mặt khác là để thoả mãn sự thèm khát lợi
nhuận của nhà t bản. Sau đây, ta sẽ tiến hành xem xét nguồn gốc hình thành của t
bản cho vay để làm rõ thêm điều đó.
14
Trớc hết, cần phải thấy rằng trong quá trình chu chuyển của t bản, có nhiều lúc,
nhà t bản Công nghiệp hoặc Thơng nghiệp có một số t bản tiền tệ nhàn rỗi, ví dụ
nh tiền trong quỹ khấu hao tái sản cố định, tiền dùng để mua nguyên nhiên liệu,
vật liệu nhng cha tới kỳ mua Nếu nhà t bản chỉ để tiền ở dạng nhàn rỗi, không
hoạt động nh vậy thì lợng tiền đó sẽ không mang lại cho nhà t bản một thu nhập
nào.Mà đối với nhà t bản thì tiền phải đẻ ra tiền,bất cứ một đơn vị t bản nào cũng
phải mang lại lợi nhuận. Do vậy mà nhà t bản nẩy sinh ý định đem lợng t bản
nhàn rỗi đó cho ngời khác vay để kiếm lời.
Mặt khác, cũng chính trong những thời gian đó, lại có những nhà t bản lại đang
rất cần tiền, ví dụ nh đang cần mua nguyên nhiên vật liệu để tiếp tục sản xuất nhng
lại cha bán đợc hàng hoá, cần tiền để đổi mới tài sản cố định nhng quỹ khấu hao
không đủ Do đó, những nhà t bản này tất yếu có nhu cầu vay t bản của ngời
khác.
Nh vậy là cùng một lúc vừa có những nhà t bản có nhu cầu đi vay lại vừa có

những nhà t bản có nhu cầu cho vay. Và tất yếu sẽ hình thành nên mối quan hệ tín
dụng TBCN và nhà t bản Công nghiệp có t bản nhàn rỗi sẽ trở thành nhà t bản cho
vay.
Vậy t bản cho vay "là t bản tiền tệ mà ngời chủ của nó nhờng cho một ngời khác
sử dụng trong một thời gian để nhận đợc một số lời nào đó". Đặc điểm nổi bật của
t bản cho vay là nó không thuộc sở hữu của nhà t bản sử dụng nó vào sản xuất. Có
nghĩa là khi nhà t bản cho vay cho ngời khác vay một lợng t bản tiền tệ là chỉ cho
ngời đó quyền sử dụng lợng t bản tiền tệ đó chứ không cho quyền sở hữu lợng t
bản đó. Do vậy mà ở t bản cho vay thì quyền sử dụng và quyền sở hữu đợc tách rời
nhau, đây cũng là sự khác biệt căn bản của t bản cho vay với t bản Công nghiệp và
t bản Thơng nghiệp.
Nh trên đã phân tích, nhà t bản cho vay cho ngời khác sử dụng lợng t bản tiền tệ
nhàn rỗi của mình không phải do lòng tốt hay vì một cái gì khác mà chỉ đơn thuần
là để kiếm lời. Chính vì vậy mà nhà t bản đi vay phải trả cho nhà t bản cho vay một
số tiền nào đó, khoản tiền này đợc gọi là lợi tức và nó dợc trích từ phần lợi nhuận
thu đợc của nhà t bản đi vay sau khi anh ta sử dụng lợng t bản đi vay vào quá trình
sản xuất.
Vậy lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà t bản đi vay phải trả cho
nhà t bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà t bản cho vay đã đa cho nhà t bản
đi vay sử dụng. Nh vậy thì xét cho cùng nguồn gốc của lợi tức chính là phần giá trị
thặng d mà nhà t bản Công nghiệp chiếm đoạt của ngời lao động.
Với sự hình thành của t bản cho vay và tơng ứngvới nó là lợi tức cho vay thì lúc
này phần lợi nhuận bình quân mà các nhà t bản Công nghiệp và t bản Thơng
nghiệp thu đợc không còn thuộc hoàn toàn về họ mà phần lợi nhuận bình quân đó
đợc chia ra thành lợi tức cho vay là khoản đem trả cho nhà t bản cho vay, phần còn
lại sau khi trả lợi tức đợc gọi là thu nhập của chủ xí nghiệp. Lợng lợi tức đem trả
nhiều hay ít tuỳ theo quan hệ cung cầu về t bản cho vay và nó phụ thuộc vào tỉ suất
lợi tức, là tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và tổng số t bản tiền tệ cho vay.
Nếu kí hiệu lợi tức là Z còn tỉ suất lợi tức là Z thì ta có:
Z = ( Z/t bản cho vay) * 100%

15
Phần lợi tức cao hay thấp là do tỉ suất lợi tức quy định,đến lợt nó thì tỉ suất lợi
tức lại bị quy định bởi các yếu tố:
Giới hạn cao nhất của tỉ suất lợi tức chính là tỉ suất lợi nhuận bình quân do vậy
mà sự thay đổi của tỉ suất lợi nhuận bình quân cũng dẫn tới sự thay đổi thuận chiều
tơng ứng của tỉ suất lợi tức. Cũng chính vì vậy cho nên,vì tồn tại quy luật giảm dần
của tỉ suất lợi nhuận do đó tỷ suất lợi tức cũng có xu hớng giảm dần.
Tỉ suất lợi tức phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu về t bản cho vay.
Nói tóm lại,xuất phát từ việc nảy sinh mối quan hệ tín dụng TBCN cho nên đã
nảy sinh các nhu cầu cho vay và đi vay đã dẫn tới sự hình thành t bản cho vay và
lợi tức cho vay. Tuy nhiên, quan hệ tín dụng TBCN ở thời kỳ này mới chỉ ở dạng
đơn giản mang tính trực tiếp, tức là nhà t bản cho vay thiết lập trực tiếp mối quan
hệ tín dụng với nhà t bản đi vay. Nhng cùng với sự phát triển của CNTB thì nhu
cầu đi vay và cho vay ngày càng nhiều, các quan hệ tín dụng trong xã hội t bản trở
nên trồng chéo, phức tạp. Do vậy đã đòi hỏi phải xuất hiện một tổ chức đóng vai
trò trung gian để đơn giản hoá các quan hệ tín dụng này. Đó chính là ngân hàng
TBCN, là một tổ chức kinh doanh t bản tiền tệ, đóng vai trò môi giới giữa ngời đi
vay và ngời cho vay. Ngân hàng thực hiện chức năng môi giới này thông qua hai
nghiệp vụ cơ bản của nó là nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ nhận gửi. Với nghiệp
vụ nhận gửi, ngân hàng thu hút tiền vốn vào quỹ của nó bằng cách tập hợp các t
bản và thu nhập nhàn rỗi không hoat động. Còn với nghiệp vụ cho vay, ngân hàng
cho các nhà t bản trực tiếp kinh doanh,tức là các nhà t bản Công nghiệp và t bản
Thơng nghiệp vay t bản tiền tệ để sử dụng hay nói khác đi nghiệp vụ cho vay là
nghiệp vụ phân phối và sử dụng những t bản ngân hàng có đợc qua nghiệp vụ nhận
gửi.
Trong nghiệp vụ nhận gửi,để huy động đợc các nguồn t bản nhàn rỗi, Ngân hàng
trả một khoản lợi tức nhận gửi cho các khoản gửi. Đồng thời, trong nghiệp vụ cho
vay, Ngân hàng lại thu một khoản lợi tức cho vay của những ngời đi vay.Và nh
mọi tổ chức kinh doanh TBCN khác,mọi hoạt động của Ngân hàng cũng phải
nhằm mục tiêu đem lại lợi nhuận.Chính vì vậy, dựa trên việc quy định lợi tức nhận

gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay, Ngân hàng đã thu đợc lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh của mình.Khoản lợi nhuận này đợc gọi là lợi nhuận Ngân hàng,nó chính là
khoản chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi đã trừ đi những
khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ Ngân hàng và cộng với các khoản thu nhập
khác về kinh doanh tiền tệ.Khác với lợi tức vận động theo quy luật tỉ suất lợi tức
giảm dần, lợi nhuận ngân hàng hoạt động theo quy luật tỉ suât lợi nhuận bình quân
giảm dần,có nghĩa là lợi nhuận ngân hàng ngang bằng với lợi nhuận bình quân.
c/ Địa tô T bản Chủ nghĩa:
ở trên chúng ta đã nghiên cứu và xem xét sự hình thành và xâm nhập của
CNTB vào lĩnh vực Thơng nghiệp và tín dụngvà tơng ứng là sự hình thành nên các
bộ phận t bản Thơng nghiệp; t bản cho vay và t bản Ngân hàng. Đến phần này,
chúng ta sẽ xem xét sự xâm nhập của CNTB vào trong Nông nghiệp dẫn tới sự
hình thành bộ phận t bản kinh doanh trong Nông nghiệp và sự xuất hiện một hình
thức mới của lợi nhuận là địa tô T bản Chủ nghĩa.
16
Trớc tiên, ta sẽ xem xét sự xâm nhập của PTSX TBCN vào trong Nông nghiệp.
Với sự phát triển của CNTB, giai cấp T bản không chỉ thống trị nghành Công
nghiệp mà còn dần dần thao túng cả lĩnh vực Nông nghiệp. Sự xâm nhập của
CNTB vào lĩnh vực Nông nghiệp có thể diễn ra theo hai cách sau
Một là, trớc hết vẫn duy trì về căn bản nền kinh tế phong kiến địa chủ trớc kia và
sau đó thông qua các cuộc cải cách mà dần dần chuyển sang đờng lối kinh tế theo
kiểu T bản Chủ nghĩa.
Cách thứ hai là,ngay từ đầu, thông qua con đờng Cách mạng T sản lật đổ chế độ
kinh tế phong kiến cũ; giải phóng lực lợng sản xuất thoát khỏi xiềng xích nông nô.
Trên cơ sở đã xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, thiết lập QHSX TBCN trong
Nông nghiệp từ đó phát triển nhanh chóng Nông nghiệp theo con đờng các ấp trại
TBCN.
Nh vậy, dù sự xâm nhập của PTSX TBCN vào Nông nghiệp đợc thực hiện theo
cách nào đi chăng nữa thì hậu quả của sự xâm nhập này vẫn là hình thành nên
trong nền Nông nghiệp TBCN ba giai cấp chủ yếu là giai cấp địa chủ,giai cấp t bản

Nông nghiệp và giai cấp công nhân Nông nghiệp. Nhng cần phải thấy rằng giai cấp
địa chủ lúc này không phải là những địa chủ xuất thân từ tầng lớp quí tộc, tăng lữ
nh trong giai đoạn phong kiến mà địa chủ lúc này, thực chất là những nhà t sản,đã
đầu t t bảnđể nhằm thu gom,thao túng ruộng đất, gây ra tình trạng'lũng đoạn quyền
t hữu ruộng đất'.
Chính vì sự xuất hiện của giai cấp địa chủ trong nông nghiệp cho nên giá trị
thặng d ,đợc hình thành do lao động không công của những công nhân làm thuê
trong Nông nghiệp, sẽ đợc phân chia khác với trong lĩnh vực Công nghiệp trên cơ
sơ đảm bảo lợi nhuận cho không chỉ giai cấp t sản Nông nghiệp mà còn cho cả giai
cấp địa chủ,những ngời mà thực chất là các nhà t bản đã đầu t vào ruộng đất. Điều
đó có nghĩa là lợng giá trị thặng d mà giai cấp t bản Nông nghiệp chiếm đoạt đợc
sẽ phải không những đủ để họ có thể thu đợc lợi nhuận bằng với lợi nhuận bình
quân mà còn phải d ra một khoản để trả cho chủ ruộng đất mà nhà t bản đã thuê.
Khoản d ra để trả cho ruộng đất đó đợc gọi là địa tô T bản Chủ nghĩa.
Vậy địa tô T bản Chủ nghĩa là một phần giá trị thặng d còn lại sau khi đã khấu
trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà t bản kinh doanh ruộng đất. Sở dĩ ở đây,
phần lợi nhuận mà nhà t bản kinh doanh ruộng đất thu đợc phải bằng với lợi nhuận
bình quân vì nếu nhỏ hơn lợi nhuận bình quân thì các nhà t bản sẽ rút t bản ra khỏi
lĩnh vực Nông nghiệp dể đầu t vào các lĩnh vực khác mang lại lợi nhuận nhiều
hơn. Tuy nhiên nếu lợi nhuận của nhà t bản Nông nghiệp đã bằng lợi nhuận bình
quân,mà nh ta đã biết thì tổng số lợi nhuận bao giờ cũng bằng tổng giá trị thặng d.
Nh vậy thì giai cấp t sản kinh doanh trong Nông nghiệp đã kiếm đâu ra phần lợi
nhuận siêu ngạch để trả cho giai cấp địa chủ dới hình thức địa tô T bản Chủ nghĩa.
Để trả lời câu hỏi này ta sẽ phải xem xét sự hình thành của địa tô T bản Chủ nghĩa
để thấy đợc nguồn gốc, bản chất và các hình thái của nó.
Trớc tiên ta sẽ xem xét nguyên nhân tạo ra phần lợi nhuận siêu ngạch trong sản
xuất Nông nghiệp. Trong lĩnh vực Công nghiệp, lợi nhuận siêu ngạch đợc hiểu là
phần lợi nhuận chênh lệch so với lợi nhuận bình quân mà các nhà t bản,có những
điều kiện sản xuất cá biệt tốt hơn điều kiện sản xuất trung bình của toàn xã hội, thu
đợc.Phần lợi nhuận siêu ngạch này chỉ mang tính tạm thời, cá biệt. Còn trong lĩnh

17
vực Nông nghiệp,lợi nhuận siêu ngạch cũng mang ý nghĩa tơng tự, nó cũng là phần
lợi nhuận chênh lệch mà những nhà t bản đầu t vào những mảnh đất mầu mỡ hơn
có thể thu đợc. Tuy nhiên, khác với trong lĩnh vực Công nghiệp, phần lợi nhuận
siêu ngạch trong lĩnh vực Nông nghiệp mang tính ổn định, lâu dài và khá phổ biến.
Sở dĩ nh vậy là vì trong Nông nghiệp, một t liệu lao đông chủ yếu là đất đai lại có
tính chất hạn chế,đại bộ phận đất đai là xấu, cằn cỗi chỉ có một số ít là đất trồng
trọt mầu mỡ. Hơn thế nữa, các ruộng đất xấu thì hoặc là không thể cải tạo đợc hoặc
là cải tạo đợc nhng đòi hỏi những chi phí rất lớn còn các ruộng đất tốt thì lại bị
độc quyền kinh doanh kiểu TBCN. Chính vì vậy mà các nhà t bản Nông nghiệp bắt
buộc phải thuê ruộng đất xấu. Điều đó dẫn tới thực trạng là các nhà t bản kinh
doanh trên ruộng đất tốt luôn tốn ít chi phí hơn các nhà t bản kinh doanh trên
ruộng đất xấu để cùng sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Hơn nữa,nếu nh trong Công nghiệp, giá cả là do giá thành sản xuất trong điều
kiện trung bình quyết định thì trong Nông nghiệp,vì ruộng đất tốt sản xuất không
đủ sản phẩm để thoả mãn nhu cầu do vậy bắt buộc phải tiến hành sản xuất trên
ruộng đất xấu. Vì vậy nếu vẫn để giá cả sản xuất do điều kiện sản xuất trung bình
quyết định thì các nhà sản xuất kinh doanh trên ruộng đất xấu sẽ thu đợc ít lợi
nhuận hơn. Điều đó làm cho họ sẽ chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác và sẽ gây
ra khan hiếm các sản phẩm Nông nghiệp. Chính vì vậy mà trong Nông nghiệp thì
giá cả sản xuất là do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu quyết định.
Từ hai nguyên nhân trên,đã dẫn tới việc hình thành nên lợi nhuận siêu ngạch
trong sản xuất Nông nghiệp. Dạng lợi nhuận siêu ngạch này khi nộp cho chủ đất d-
ới dạng địa tô còn đợc gọi là địa tô chênh lệch. Vậy địa tô chênh lệch chính là
phần lợi nhuận thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân, thu đợc trên những ruộng đất có
điều kiện sản xuất trung bình và tốt, trên cơ sở giá cả sản xuất cá biệt nhỏ hơn giá
cả sản xuất chung do điều kiện sản xuất xấu nhất quy định. Xét cho cùng thì nguồn
gốc của địa tô chênh lệch cũng chính là một phần giá trị thặng d do công nhân
Công nghiệp tạo ra.
Nhà t bản có thể có đợc địa tô chênh lệch nhờ hai cách và do đó tơng ứng có hai

dạng địa tô chênh lệch khác nhau. Cách thứ nhất, địa tô chênh lệch có đợc nhờ việc
kinh doanh trên ruộng đất có độ mầu mỡ tự nhiên hoặc có vị trí giao thông thuận
lợi,theo cách này thì địa tô chênh lệch đợc gọi là địa tô chênh lệch I. Ngoài ra
cũng có thể đạt đợc địa tô chênh lệch thông qua việc thâm canh, cải tạo ruông đất
mà có.Với cách này thì địa tô đợc tạo ra gọi là địa tô chênh lệch II.
Việc nghiên cứu địa tô chênh lệch và các hình thức biểu hiện của nó còn phản
ánh đợc sự mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp t sản và giai cấp địa chủ. Một khi mà
nhà t bản, nhờ thâm canh tăng vụ hoặc nhờ phơng pháp sản xuất mới mà tăng đ-
ợc phần lợi nhuận siêu ngạch nhằm mục đích tăng lợi nhuận thu đợc thì ngay sau
đó chủ đất lại tìm mọi cách để tăng khoản địa tô phải nộp lên đúng bằng phần lợi
nhuận siêu ngạch thu đợc. Chính vì vậy mà trong CNTB, sự tồn tại của địa tô
chênh lệch đã không thúc đẩy các nhà t bản kinh doanh quan tâm tới việc cải tạo,
duy trì và nâng cao chất lợng đất trồng mà họ chỉ tìm mọi cách để khai thác hết độ
màu mỡ của đất đai nhằm thu lợi nhuận nhiều hơn.Do đó, đất đai sẽ ngày càng bị
thoái hoá.
18
Trên đây, ta đã nghiên cứu, xem xét nguồn gốc và bản chất của địa tô chênh
lệch, là phần địa tô mà những nhà t bản kinh doanh trên ruộng đất trung bình và tốt
phải nộp cho chủ đất còn giả định là những nhà t bản kinh doanh trên ruộng đất
xấu thì sẽ không phải nộp. Tuy nhiên, trên thực tế thì ngay cả những nhà t bản kinh
doanh trên ruộng đất xấu cũng vẫn phải nộp địa tô cho chủ đất.Khoản địa tô này đ-
ợc gọi là địa tô tơng đối.Vậy thì lợng địa tô tơng đối này do đâu mà có? Nguồn
gốc, bản chất của nó là gì?
Để trả lời các câu hỏi này, chúng ta sẽ nghiên cứu dựa trên nhận định là với
cùng một lợng t bản nh nhau đầu t vào lĩnh vực Công nghiệp và Nông nghiệp thì
cấu tạo hữu cơ của lợng t bản đầu t vào Nông nghiệp sẽ thấp hơn trong Công
nghiệp.Nhận định này xuất phát từ thực tế là do tồn tại sự độc quyền về t hữu
ruộng đấtcho nên đã cản trở sự phát triển của quan hệ sở hữu T bản Chủ nghĩa
trong Nông nghiệp. Do đó dẫn tới tình trạng là Nông nghiệp thờng lạc hậu hơn so
với Công nghiệp về cả kinh tế và kỹ thuật.Do vậy mà chi phí cho lao động sống

trong Nông nghiệp luôn lớn hơn chi phí trong Công nghiệp. Chính vì vậy nếu với
một trình độ bóc lột ngang nhau,có nghĩa là tỷ suất giá trị thặng d trong hai
nghành là nh nhau, thì một lợng t bản đầu t vào Nông nghiệp sẽ tạo ra nhiều gia trị
thặng d hơn so với một lợng tơng ứng đầu t vào Công nghiệp.Do vậy, giá trị của
nông sản đợc tạo ra bao giờ cũng lớn hơn giá cả sản xuất chung.Chính sự chênh
lệch này đã tạo ra địa to tơng đối.
Sở dĩ tồn tại sự chênh lệch đó là do tồn tại chế độ t bản ruộng đất.Nếu không có
chế độ t hữu về ruộng đất thì số thừa ra,do cấu tạo hữu cơ Công nghiệp thấp hơn
gây ra, sẽ đợc phân phối lại cho toàn bộ các nhà t bản và lúc đó, nông sản sẽ đợc
bán theo giá cả sản xuất (= k+p = c+v+p). Tuy nhiên,do tồn tại sự độc quyền về t
hữu ruộng đất nên đã ngăn cản sự tự do cạnh tranh, đã ngăn cản việc hình thành lợi
nhuận bình quân giữa hai nghành Công nghiệp và Nông nghiệp.Vì vậy mà cái phần
chênh lệch dôi ra đó không tham gia vào việc bình quân lợi nhuận mà đợc giữ lại
trong Nông nghiệp để trả cho chủ đất. Lợng chênh lệch này nhiều hay ít phụ thuộc
vào sự chênh lệch giữa giá bán và giá cả sản xuất chung mà giá bán lại dựa trên cơ
sở là giá trị của nông sản và thờng bằng đúng giá trị.
Vậy địa tô tuyệt đối "cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi
nhuận bình quân, đợc hình thành do cấu tạo hữu cơ của t bản trong Nông nghiệp
thấp hơn trong Công nghiệp,nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản
xuất chung".
Nói tóm lại, địa tô,dù là địa tô tuyệt đối hay địa tô chênh lệch, nh Mác nói,đều
là một thứ cống vật mà xã hội, dới chế độ T Bản Chủ Nghĩa, phải hiến cho những
ngời nhiều ruộng đất. Xét về nguồn gốc thì địa tô cũng nh các hình thức khác của
lợi nhuận,đều có nguồn gốc từ giá trị thặng d mà nhà t bản đã chiếm đoạt của ngời
công nhân. Hơn nữa, địa tô còn phản ánh tính ăn bám của giai cấp địa chủ, phản
ánh những thiệt hại mà sự ăn bám đó mang lại.Vì có địa tô tuyệt đối nên các nông
phẩm ngày càng trở nên đắt đỏ làm cho mức sống của con ngời giảm sút.Vì có địa
tô chênh lệch nên xã hội không đợc hởng những lợi ích từ việc tăng năng suất lao
động trong Nông nghiệp cũng nh nhiều lợi ích do đất đai phì nhiêu mang lại.
d/ Lợi nhuận độc quyền:

19
ở trên,ta thấy rằng do tồn tại sự độc quyền về t hữu ruộng đất cho nên đã hình
thành nên địa tô tuyệt đối mà thực chất là một dạng lợi nhuận trả cho sự độc quyền
về t hữu ruộng đất.Nhng dần dần cùng với sự mạnh mẽ của CNTB thì hiện tợng
độc quyền không chỉ xuất hiện và tồn tại trong Nông nghiệp mà còn hình thành cả
trong lĩnh vực Công nghiệp, dẫn tới sự ra đời của một hình thức mới của CNTB, đó
là Chủ nghĩa T bản độc quyền.
Sự hình thành của T bản độc quyền đã dẫn tới hình thành thêm một hình thức
mới của lợi nhuận là lợi nhuận độc quyền và gắn với nó là một phơng thức phân
phối lợi nhuận (hay chính là giá trị thặng d) mới. Để thấy rõ đợc nguồn gốc, bản
chất của lợi nhuận độc quyền,ta sẽ nghiên cứu,xem xét những lý luận của Lênin,
ngời đã kế thừa và phát triển tiếp tục học thuyết của Mác trong giai đoạn độc
quyền của CNTB.
Trong lý luận của mình,Lênin đã chỉ ra rằng,với sự xuất hiện của T bản độc
quyền mà đặc biệt là T bản tài chính,đã dẫn tới sự hình thành nên lợi nhuận độc
quyền.T bản tài chính,đợc hình thành từ sự kết hợp giữa t bản Công nghiệp và t bản
Ngân hàng, đã dần dần khống chế toàn bộ hoạt động của nền kinh tế và chính trị
trong nớc, giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lu thông. Chính vì vậy mà ngoài
việc sử dụng các phơng pháp bóc lột giá trị thặng d nh trong giai đoạn tự do cạnh
tranh, các nhà T bản độc quyền còn sử dụng phơng pháp cỡng bức kinh tế nhằm
tạo ra lợi nhuận độc quyền. Lênin đã chỉ rõ rằng lợi nhuận độc quyền,thực chất,là
một hình thức biểu hiện của giá trị thặng d hình thành trong giai đoạn Chủ nghĩa
T bản độc quyền,nó bao gồm lợi nhuận bình quân cộng với lợi nhuận độc quyền
siêu ngạch có đợc do địa vị thống trị của độc quyền mang lại. Nguồn gốc và cơ cấu
của lợi nhuận độc quyền bao gồm giá trị thặng d của công nhân làm việc trong các
tổ chức độc quyền ,một phần giá trị thặng d của công nhân làm việc ngoài tổ chức
độc quyền,một phần giá trị mới do ngời sản xuất hàng hoá nhỏ trong nớc tạo ra, lợi
nhuận thu đợc do xuất khẩu t bản và sản xuất hàng hoá cho các nớc kém phát triển,
lợi nhuận thu đợc do lợi dụng việc quân sự hoá nền kinh tế
Sự hình thành của lợi nhuận độc quyền đã dẫn tới sự hình thành tơng ứng của

giá cả độc quyền, bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền.Thông thờng
thì các tổ chức độc quyền,dựa trên sức mạnh độc quyền,để mà ép giá mua vào thấp
hơn giá trị của hàng hoá mua vào và nâng giá trị của hàng hoá bán ra lớn hơn giá
trị của nó.
Nói tóm lại, trong mục này,chúng ta đã tiến hành nghiên cứu những lý luận của
học thuyết kinh tế Mác-Lênin và thông qua những lý luận đó, chúng ta đã phần
nào thấy đợc các biểu hiện khác nhau của lợi nhuận.Các hình thức này,hầu hết là
đợc hình thành nên do nhu cầu chuyên môn hoá, hợp tác hoá của giai cấp t sản.Sự
phân biệt lợi nhuận thành các hình thức khác nhau cũng chính là sự chia nhỏ giá trị
thặng d thành các phần lợi nhuận khác nhau ứng với các bộ phận t bản khác
nhau.Tuy nhiên,điều đó không có nghĩa là phần giá trị thặng d mà mỗi bộ phận có
đợc sẽ ít đi mà trên thực tế, nhờ sự phân công, hợp tác trong quá trình bóc lột giá
trị thặng d, giai cấp t bản đã ngày càng hoàn thiện các thủ đoạn bóc lột giá trị
thặng d làm cho toàn bộ khối lợng giá trị thặng d nói chung cũng nh phần giá trị
thặng d mà mỗi bộ phận t bản nhận đợc không ngừng tăng lên.Chính vì vậy mà,với
20
việc giải thích đợc sự hình thành và tồn tại của các hình thái khác nhau của lợi
nhuận,Mác đã thể hiện sự khoa học và tiến bộ hơn so với các nhà lý luận trớc Mác
cũng nh sau này.Hơn thế nữa, thông qua việc vạch rõ bản chất bóc lột của các hình
thái khác nhau của lợi nhuận,Mác đã vạch rõ bản chất bóc lột của giai cấp t bản
cũng nh của PTSX TBCN.
Nh vậy là, ở phần I này, thông qua các học thuyết kinh tế mà đặc biệt là học
thuyết kinh tế của CN Mác -Lênin, chúng ta đã nghiên cứu và xem xét nguồn gốc
và bản chất của phạm trù lợi nhuận.Qua đó, ta đã thấy đợc rõ tính khoa học và tiến
bộ hơn hẳn của học thuyết kinh tế của CN Mác-Lênin đối với các lý luận về lợi
nhuận nói riêng và mọi vấn đề khác nói chung. Trên cơ sở hiểu rõ đợc nguồn
gốc,bản chất của lợi nhuận cũng nh các hình thái biểu hiện khác nhau của nó, sau
đây, trong phần II, ta sẽ tiến hành phân tích nhằm thấy đợc vai trò của lợi nhuận
trong nền kinh tế thị trờng hiện nay.
21

Phần II : Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trờng
Nh trên đã nêu,trong phần II này, chúng ta sẽ tiến hành phân tích nhằm thấy đợc
vai trò mang tính động lực của lợi nhuận trong nền KTTT.
Để phân tích vai trò đông lực của lợi nhuận, trớc hết cần phải thấy rằng:
Phạm trù lợi nhuận trong các học thuyết của các trờng phái lý luận t sản thờng đ-
ợc hiểu là phần lợi ích đem lại nh một phần thởng của sự thành công trong kinh
doanh hoặc là tiền lơng của nhà kinh doanh . Còn phạm trù lợi nhuận trong học
thuyết kinh tế của Mác,với mục đích vạch rõ bản chất bóc lột của giá trị t bản,đã
chỉ ra rằng lợi nhuận là phần giá trị thặng d khi đợc đem so với toàn bộ t bản ứng
trớc.Ta có thể thấy rằng cả hai định nghĩa trên về lợi nhuận đều mang nặng tính
giai cấp, nhằm mục tiêu hoặc là bảo vệ giai cấp mình, nh lý luận của truờng phái t
sản, hoặc là phản ánh bản chất bóc lột của giai cấp đối kháng nh lý luận của Chủ
nghĩa Mác.Tuy nhiên ở đây ta muốn nghiên cứu vai trò của lợi nhuận nh là một
động lực của mọi con ngời, không phân biệt giai cấp, cũng nh là động lực của toàn
xã hội.Chính vì vậy mà ta sẽ không phân tích vai trò của lợi nhuận trên cơ sở các lý
luận về lợi nhuận mang tính giai cấp ở trên mà ta sẽ phân tích vai trò của lợi nhuận
trên cơ sở coi lợi nhuận là một hình thức đặc biệt của lợi ích kinh tế, một thành
phần quan trọng trong các lợi ích của con ngời.Trên cơ sở các phân tích nhằm thấy
đợc vai trò của lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế và từ đó thấy đợc vai trò của lợi
nhuận, ta sẽ đi ngợc lại xem xét vai trò động lực của lợi nhuận, cả trong lý thuyết
và thực tiễn, ở hai khối nớc T Bản Chủ Nghĩa và Xã Hội Chủ Nghĩa, đại diện cho
hai trờng phái lý luận t sản và trờng phái lý luận Macxit, nhằm thấy đợc những
biểu hiện tiêu cực và tích cực cũng nh vai trò cơ bản của động lực lợi nhuận.

1/ Vai trò động lực của lợi nhuận - xét từ khía cạnh lợi ích:
Nh vậy, trên cơ sở những phân tích trên, chúng ta sẽ nghiên cứu, phân tích nhằm
thấy đợc vai trò động lực của lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế để từ đó thấy đợc
vai trò động lực của lợi nhuận, không chỉ đối với từng cá nhân mà còn đối với toàn
xã hội.
Trớc hết, nh chúng ta đều biết, động lực bên trong thúc đẩy toàn bộ hoạt động

của con ngời chính là nhu cầu.Nhu cầu đã tạo nên những trạng thái căng thẳng
thôi thúc con ngời hành động để thoả mãn các nhu cầu đó. Tuy nhiên, nhu cầu thúc
đẩy con ngời hoạt động không phải một cách trực tiếp mà nó đợc thể hiện dới hình
thức lợi ích thúc đẩy con ngời hoạt động. Do vậy, trong những hoàn cảnh cụ thể,
lợi ích với t cách là phơng tiện thoả mãn nhu cầu của chủ thể, trớc sự thôi thúc của
các nhu cầu có nguy cơ không thoả mãn đợc, đã trở thành động lực trực tiếp quyết
định sự hoạt động của chủ thể. Nói nh vậy có nghĩa là,con ngời một mặt bị thúc ép
bởi những nhu cầu cấp bách cha đợc thoả mãn, mặt khác họ đã nhận thức đợc rằng
để đạt đợc sự thoả mãn các nhu cầu đó thì phải làm gì và sẽ đạt đợc những lợi ích
cụ thể nào.Vì vậy, lợi ích đã trở thành một động lực trực tiếp thôi thúc chủ thể hoạt
động, và với t cách là động lực thúc đẩy sự phát triển của con ngời, lợi ích bao hàm
trong nó các lực thúc đẩy của các nhu cầu của chủ thể.
22
Tuy nhiên, phạm trù lợi ích, tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà có thể chia ra làm
nhiều loại nh lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp hoặc lợi ích kinh tế, lợi
ích chính trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần Nhng trong tất cả các hình thức đa
dạng đó thì lợi ích kinh tế của từng cá nhân là có vai trò quyết định. Sở dĩ nh vậy là
vì:
Trớc hết, cần phải thấy rằng con ngời hoạt động không phải là những con ngời
trừu tợng mà là những con ngời cụ thể, những ngời mà hoạt động luôn diễn ra trớc
hết vì lợi ích của bản thân họ nh Mác đã viết các cá nhân chỉ theo đuổi lợi ích
của riêng mình,lợi ích mà họ coi là không nhất trí với lợi ích chung của họ cho
nên họ coi lợi ích chung đó là một cái gì xa lạ, không phụ thuộc vào họ.Sở dĩ
lợi ích cá nhân có vai trò quan trọng hàng đầu là vì nó đợc cá nhân nhận biết trớc
hết và hơn nữa, nó đáp ứng ngay những nhu cầu thiết thân của mỗi cá nhân
đó.Chính vì vậy mà lợi ích cá nhân luôn luôn là động lực trực tiếp và mạnh mẽ
nhất đối với mọi hoạt động của con ngời ; tất cả các lợi ích khác đều thực hiện
thông qua lợi ích cá nhân.
Tiếp đó, trong các lợi ích khác nhau của cá nhân nh lợi ích kinh tế, lợi ích chính
trị, lợi ích văn hoá xã hội thì lợi ích kinh tế là sự biểu hiện của những quan hệ

kinh tế đối với việc thoả mãn những nhu cầu vật chất cần thiết phản ánh đời sống
của con ngời dới hình thức xác định mục đích hoạt động kinh tế của con ngời, đợc
coi là động lực cơ bản nhất thôi thúc con ngời thoả mãn những nhu cầu đó. Lợi ích
kinh tế có vai trò quan trọng nh vậy là do nó đáp ứng trực tiếp những nhu cầu bức
thiết mang tính sống còn của con ngời, nh Enghen đã viết giống nh Đac Uyn đã
tìm ra qui luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của
lịch sử loài ngời: con ngời trớc hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có
thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và đợc.
Nh vậy, theo sự phân tích ở trên, lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân có vai trò quyết
định đối với toàn bộ hoạt động của con ngời với t cách là những cá nhân cụ thể. Và
vì lợi nhuận,nếu hiểu một cách đơn giản, thuần tuý là khoản lợi mà mỗi cá nhân có
thể nhận đợc do các hoạt động của mình đem lại, có thể coi nh một hình thức đặc
biệt của lợi ích kinh tế cá nhân. Cho nên lợi ích kinh tế cá nhân nói chung và lợi
nhuận nói riêng có vai trò nh một động lực của mọi hoạt động của con ngời và do
đó là một động lực cơ bản của sự phát triển của mỗi cá nhân.
Không chỉ có vai trò là động lực cho sự phát triển của mỗi cá nhân mà trên cơ sở
là động lực của mỗi cá nhân, lợi nhuận còn trở thành động lực cho sự phát triển
của toàn bộ xã hội. Để thấy đợc điều này, chúng ta sẽ quay trở lại tiếp tục phân
tích phạm trù lợi ích để chỉ ra sự chuyển biến của lợi ích cá nhân, mà trong đó
quan trọng nhất là lợi ích kinh tế cá nhân, từ vai trò là động lực của mỗi cá nhân
tiến tới vai trò là động lực phản ánh sự phát triển của toàn bộ xã hội.
Nh đã phân tích ở trên, ta có lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp thúc đẩy sự
phát triển của con ngời.Tuy nhiên,mỗi một con ngời cụ thể không thể tồn tại một
cách độc lập mà phải tồn tại trong một cộng đồng, một xã hội. Và mặc dù mỗi cá
nhân đợc thúc đẩy bởi các động lực lợi ích cụ thể khác nhng nhìn chung,các cá
nhân này đều phát triển theo những xu hớng cụ thể nhất định.Mặt khác,mỗi một
cộng đồng, một xã hội không chỉ đơn thuần là một tập hợp những cá nhân đợc xếp
cạnh nhau mà giữa những cá nhân đó luôn có những mối quan hệ qua lại, luôn có
23
sự gắn bó hữu cơ với nhau.Cho nên,sự hình thành,tồn tại và phát triển của cá nhân

này sẽ ảnh hởng đến những cá nhân khác và tới cả cộng đồng, xã hội. Nói cụ thể
hơn, sự hoạt động theo đuổi những lợi ích cá nhân riêng lẻ đã tạo nên sự vận động
chung của một tập thể hay của cả một cộng đồng xã hội theo những xu hớng vận
động phát triển nào đó. Những xu hớng rất đa dạng, khác nhau thậm chí trái ngợc
nhau này đã tạo ra những lực đẩy thúc đẩy xã hội theo những hớng khác nhau và
tổng hợp các lực đó sẽ tạo nên một lực bình hành thúc đẩy xã hội phát triển theo
một xu hớng chung. Đúng nh F. Anghen đã viết con ngời làm ra lịch sử của
mình - vô luận là lịch sử này diễn ra nh thế nào - bằng cách là mỗi con ngời theo
đuổi những mục đích riêng, mong muốn một cách có ý thức,và chính kết quả
chung của vô số những ý muốn tác động theo nhiều hớng khác nhau đó và của
những ảnh hởng muôn vẻ của những ý muốn đó vào thế giới bên ngoài đã tạo ra
lịch sử .
Nh vậy, từ chỗ là động lực quyết định sự hoạt động của từng cá nhân riêng lẻ,
lợi ích trở thành động lực thúc đẩy sự hoạt động của các nhóm,các tập đoàn và các
cộng đồng xã hội, tạo nên các xu hớng vận động chung của xã hội. Và từ chỗ là
động lực thúc đẩy các nhóm, các tập đoàn, các cộng đồng ngời hoạt động, lợi ích
đã trở thành một trong những động lực cơ bản quyết định sự vận động và phát triển
chung của cả xã hội.
Tuy nhiên không phải bất kì lợi ích cá nhân nào cũng là động lực thúc đẩy lịch
sự phát triển theo hớng tiến bộ. Có những lợi ích mà khi con ngời hành động nhằm
thoả mãn những lợi ích đó thì sẽ gây tổn hại tới lợi ích của những cá nhân khác,tới
lợi ích của cộng đồng và xã hội.Chính vì vậy mà vai trò động lực của lợi ích cá
nhân,đặc biệt là các lợi ích kinh tế, còn thể hiện qua sự phù hợp giữa một lợi ích cá
nhân nào đó với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội.
Lợi ích chung là lợi ích phản ánh và đáp ứng nhu cầu của một cộng đồng. Đối
với những lợi ích cá nhân có vai trò không chỉ là động lực cho sự phát triển của
mỗi cá nhân mà còn là động lực phát triển của toàn xã hội thì giữa chúng và những
lợi ích chung của xã hội có mối quan hệ biện chứng thể hiện qua:
Một mặt lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của lợi ích chung. Sở dĩ nh vậy là vì
không có lợi ích riêng sẽ không có sự tồn tại của các cá nhân riêng lẻ, và do đó sẽ

không có cộng đồng và lợi ích chung của cộng đồng.Thêm vào đó, trong quá trình
hoạt động nhằm thoả mãn những lợi ích cá nhân của riêng mình, dù ý thức đợc hay
không, các chủ thể cũng sẽ tạo ra những điều kiện cho việc thực hiện các lợi ích
riêng của các chủ thể khác và đồng thời cùng tham gia đóng góp cho lợi ích chung
của cộng đồng, xã hội mà ngời đó là thành viên.Nh C.Mác đã viết sức mạnh
duy nhất ràng buộc họ với nhau là lòng vị kỷ, là điều lợi riêng, là lợi ích t nhân.
Nhng chính vì mỗi ngời chỉ lo cho mình và không ai lo cho ngời khác,cho nên tất
cả bọn họ,do một sự nhịp nhàng đã định trớc của sự vật,hay do sự che chở của một
thợng đế rất khôn khéo,đều chỉ là một công việc có lợi cho cả hai bên, cho điều lợi
chung,cho lợi ích chung
Mặt khác thì lợi ích chung đợc hình thành và tồn tại thông qua các hoạt động của
những con ngời cụ thể nhằm theo đuổi những lợi ích cá nhân của riêng họ. Đến lợt
nó, lợi ích chung lại tạo ra những điều kiện,phơng tiện và môi trờng thuận lợi cho
những cá nhân trong các hoạt động nhằm chiếm lĩnh lợi ích riêng. Hơn thế nữa, lợi
24
ích chung còn tạo ra sự thống nhất giữa các lợi ích riêng, các mục đích riêng và
qua đó tạo ra sự thống nhất trong hoạt động của các chủ thể khác nhau trong cộng
đồng. Và do đó lợi ích chung đóng vai trò định hớng cho lợi ích riêng.
Vậy nói tóm lại, qua các phân tích ở trên, ta đã chứng minh đợc vai trò của lợi
nhuận không chỉ mang ý nghĩa động lực đối với mỗi cá nhân trong một cộng đồng
xã hội mà còn là động lực cho toàn bộ xã hội. Tuy nhiên,không phải lúc nào lợi
nhuận với t cách là một lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân cũng đóng vai trò là động
lực cho sự phát triển của toàn xã hội mà lợi nhuận cũng có thể trở thành nhân tố
gây ra sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội,gây ra những xung đột
và từ đó có thể trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Sở dĩ nh vậy là vì,đối với mỗi cá nhân thì lợi ích sẽ liên quan tới tính ích kỉ.
Chính tính ích kỉ này làm cho mỗi một cá nhân chỉ thấy đợc lợi ích của mình mà
không thấy đợc lợi ích của ngời khác, lợi ích của cộng đồng thậm chí sẵn sàng đi
ngợc lại lợi ích cộng đồng để thoả mãn lợi ích của riêng mình,nh Mác đã viết
bởi vì theo bản tính của nó, lợi ích là mù quáng, không biết đến mức độ, phiến

diện, tóm lại, là một bản năng bẩm sinh vô pháp luật . Chính vì vậy,khi chúng ta
quá đề cao, coi trọng lợi ích cá nhân, đặc biệt là các lợi ích kinh tế mà biểu hiện
trong thực tiễn là xu hớng chạy theo lợi nhuận, thì không những không thúc đẩy
phát triển mà còn đẩy xã hội vào tình trạng rối loạn khủng hoảng.
Nh vậy là,trong mục này, chúng ta đã dựa trên cơ sở phân tích, giải thích về vai
trò động lực của lợi ích để nhằm chứng minh vai trò động lực của lợi nhuận đối với
sự phát triển của từng cá nhân cũng nh của toàn xã hội. Tuy nhiên, ở phần này,
khái niệm lợi nhuận mới chỉ đợc xem xét với ý nghĩa thuần tuý, đợc coi nh một
hình thức đặc biệt của lợi ích kinh tế. Trong hai mục sau, chúng ta sẽ lần lợt xem
xét những biểu hiện mang tính động lực của lợi nhuận qua việc xem xét những học
thuyết kinh tế của hai trờng phái lý luận TBCN và XHCN cũng nh qua việc phân
tích những biểu hiện thực tiễn ở hai khối nớc TBCN và XHCN tơng ứng với hai tr-
ờng phái lý luận trên.

2/ Vai trò của lợi nhuận đối với các n ớc T bản Chủ nghĩa:
a/ Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội:
Nh trên đã phân tích,lợi nhuận trớc hết là một động lực cơ bản trong mọi hoạt
động của mỗi cá nhân,đặc biệt là trong nền kinh tế thị trờng. Chính vì vậy mà ở
các nớc TBCN, những nớc vẫn luôn coi trọng và đề cao lợi ích cá nhân lên trên lợi
ích cộng đồng xã hội, thì vai trò động lực của lợi nhuận đợc thể hiện rất rõ nét. Đối
với các nớc này thì lợi nhuận đợc coi là một động lực trực tiếp mạnh mẽ và cơ bản
nhất thúc đẩy nhà t bản lao vào tiến hành sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận đa các
doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất hàng hoá mà ngời tiêu dùng cần nhiều
hơn,bỏ các khu vực có ít ngời tiêu dùng.Lợi nhuận đa các nhà doanh nghiệp đến
việc sử dụng kỹ thuật sản xuất có hiệu quả nhất.Vì vậy,hệ thống thị trờng luôn phải
dùng lãi và lỗ để quyết định ba vấn đề của sản xuất nh:cái gì,thế nào và cho ai?,
nh một nhà kinh tế đã nói lợi nhuận là phần thởng và hình phạt đối với nhà sản
xuất kinh doanh,nó là kim chỉ nam cho cơ chế thị trờng :Cũng giống nh ngời nông
dân sử dụng củ cà rốt và cây gậy để nhử con lừa đi tới,hệ thống thị trờng lấy lợi
25

×