Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Khái quát chung về phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.68 KB, 8 trang )

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN
1. Phá sản - hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản doanh nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã hội tồn
tại khách quan. Tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản doanh nghiệp được lý
giải bằng những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, về thực chất doanh nghiệp cũng chỉ là một thực thể xã hội và như vậy, cũng
như các thực thể xã hội khác, doanh nghiệp cũng có quá trình sinh ra, phát triển và
diệt vong. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của các sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường với đa hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, đa thành
phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp cùng song song tồn tại. Các loại hình
doanh nghiệp (trong đó có cả doanh nghiệp nhà nước) đều tự chủ về tài chính, bình
đẳng và tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Trong nền kinh tế này, lợi nhuận
luôn là mục đích tối cao mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới, là cơ sở cho sự tồn tại
của mỗi doanh nghiệp đồng thời cũng là động lực cơ bản thúc đẩy họ lao vào quá
trình cạnh tranh nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Do vậy, cạnh tranh là một quy luật khách
quan. Dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, một số doanh nghiệp mạnh dần lên
chiếm lĩnh thị trường, ngược lại, một số doanh nghiệp khác yếu dần đi, sản xuất kinh
doanh đình đốn, nợ nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả các nghĩa vụ tài
chính của mình và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ ba, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cái mà doanh nghiệp thu được
đó là lợi nhuận nhưng đồng thời doanh nghiệp cũng phải chịu những rủi ro là rất lớn.
Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, tỉ lệ rủi ro là 1/4, có nghĩa là cứ đầu tư thành
lập 100 doanh nghiệp thì sẽ có khoảng 25 doanh nghiệp bị phá sản. Thậm chí có
những doanh nghiệp bị phá sản ngay sau khi mới được thành lập. Nguyên nhân dẫn
đến sự phá sản của doanh nghiệp là hết sức đa dạng. Có thể là do sự yếu kém về năng
lực tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất – kinh doanh; là sự thiếu khả năng thích ứng
với những biến động trên thương trường; là sự vi phạm các chế độ thể lệ quản lý…
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy ngoài những nguyên nhân chủ quan trên thì bất trắc
và biến động khách quan trong nền kinh tế thị trường đều có thể là nguyên nhân gây
ra tình trạng mất khả năng thanh toán cho các doanh nghiệp.
Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả kinh tế - xã hội nhất định. (xem thêm


trong vở)
Tích cực
Tiêu cực
- Gíup đào thải doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, quản lý yếu kém.
- Bảo vệ các chủ nợ.
- Bảo vệ quyền lợi của người lao động
- Bảo vệ chính các doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp bị phá sản
- Là biện pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại nền kinh tế
- Sự hao hụt, mất mát tài sản của các chủ nợ.
- Gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm
và thu nhập của người lao động.
- Người lao động bị mất việc làm phát sinh.
- Các vấn đề XH mang tính chất tiêu cực phát sinh, tệ nạn xã hội gia tăng.
- Sự mất mát của 1 tổ chức kinh tế gây ra xáo trộn thị trường

Tóm lại, phá sản luôn là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó hiện
hữu như là một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của
nền kinh tế thị trường, bất kể đó là nền kinh tế thị trường phát triển ở các nước trên
thế giới hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Khái niệm phá sản doanh nghiệp
Luật phá sản không đưa ra khái niệm trực tiếp về phá sản doanh nghệp, chỉ đưa ra
khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy định tại điều 3 luật phá
sản: Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi
là lâm vào tình trạng phá sản.
Như vậy trên cơ sở khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng theo quy định của luật
phá sản ta có thể thấy: Phá sản doanh nghiệp là việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản bị toà án ra quyết định tuyên bố phá sản.
3. Phân loại phá sản
Dựa vào những căn cứ khác nhau, phá sản có thể được phân loại như sau:
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra phá sản: phá sản được chia ra: Phá sản trung thực và

phá sản gian trá.
Phá sản trung thực là hiện tượng phá sản do những nguyên nhân khách quan hay
những rủi ro trong kinh doanh gây ra. Ví dụ: do thiên tai, địch hoạ làm đình trệ quá
trình kinh doanh và từ đó dẫn đến việc mất khả năng thanh toán hoặc do một sự biến
động chính trị nào đó làm mất hẳn thị trường tiêu thụ sản phẩm và kéo theo đó là sự
đổ vỡ của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đó.
Phá sản gian trá là hiện tượng phá sản do con nợ có những thủ đoạn gian trá, có sắp
đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Ví dụ: để chiếm đoạt tài sản của
người khác, con nợ đã gian lận trong khi ký hợp đồng, tẩu tán tài sản, cố tình báo cáo
sai… và sau đó tạo ra lý do phá sản không đúng sự thật.
Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý, phá sản có thể chia ra: Phá sản tự nguyện
và phá sản bắt buộc.
Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy mình lâm vào tình
trạng phá sản. Theo Luật phá sản, việc nộp đơn yêu cầu phá sản chính doanh nghiệp
của mình là nghĩa vụ của doanh nghiệp khi nhận thấy lâm vào tình trạng phá sản.
Phá sản bắt buộc là phá sản được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ hoặc của đại diện
chủ sở hữu ở một số loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần,
công ty hợp danh).
4. Phân biệt phá sản với giải thể (xem kĩ cả phần bảng phía dưới)
Nếu chỉ xem xét về mặt hiện tượng thì phá sản và giải thể doanh nghiệp không có gì
khác nhau, bởi vì cả hai thủ tục này đều cơ bản dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải quyết quyền lợi cho
người làm công… Tuy nhiên, về bản chất đây là hai thủ tục pháp lý khác nhau.
Thứ nhất, lý do giải thể không đồng nhầt đối với các loại hình doanh nghiệp và rộng
hơn nhiều so với lý do phá sản.
Theo quy định của pháp luật hiện hành về giải thể, khi rơi vào những trường hợp pháp
luật quy định đối với các loại hình doanh nghịêp đó có thể tự giải thể hoặc bị giải thể.
Các trường hợp giải thể đối với loại hình được pháp luật quy định không giống nhau
mà tuỳ thuộc vào vị trí vai trò cũng như ảnh hưởng của doanh nghiệp đó trong nền
kính tế. Tuy nhiên, có thể khái quát lại rằng doanh nghiệp có thể tự chấm dứt hoạt

động của mình hoặc bị bắt buộc giải thể: Mục tiêu đề ra không thể đạt được hoặc đã
hoàn toàn xong mục tiêu đó hoặc bị thu hồi giấy phép hoạt động do vi phạm nghiêm
trọng pháp luật. Trong khi đó, việc phá sản chỉ có thể do một nguyên nhân duy nhất
gây ra, đó là sự mất khả năng thanh toán đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu.
Thứ hai, phá sản khác với giải thể ở bản chất của hai thủ tục pháp lý cũng như cơ
quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục đó.
Giải thể là một thủ tục hành chính là giải pháp tính chất tổ chức người chủ doanh
nghiệp tự mình quyết định do cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập quyết định
còn thủ tục phá sản lại là một thủ tục tư pháp, là hoạt động do một cơ quan nhà nước
duy nhất là toà án có thẩm quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của pháp
luật phá sản.
Thứ ba, giải thể và phá sản còn khác nhau về hậu quả
Giải thể bao giờ cũng dẫn đến chấm dứt hoạt động và xoá tên doanh nghiệp, hợp tác
xã, trong khí đó, đối với phá sản thì không phải bao giờ cũng đem đến kết quả như
vậy. Ví dụ: Một người nào đó mua lại toàn bộ doanh nghiệp phá sản, giữ nguyên tên
thậm chí cả nhãn hiệu hang hoá, tiếp tục duy trì sản xuất. Trong trường hợp này chỉ có
sự thay đổi sở hữu của chủ doanh nghiệp chứ không hề có sự chấm dứt hoạt động của
nó.
Thứ tư, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay ngươi quản lý, điều hành cơ sở
sản xuất kinh doanh trong hai trường hợp trên cũng có sự phân biệt. Chẳng hạn, pháp
luật nhiều nước quy định cẩm chủ sở hữu bị phá sản không được hành nghề trong một
thời gian nhất định. Còn trong trường hợp giải thể, vấn đề hạn chế quyền tự do kinh
doanh này không được đặt ra.
Phân biệt giải thể với phá sản?
Giống nhau:
- Doanh nghiệp ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh, chấm dứt sự tồn tại của DN .
- Bị thu hồi con dấu và giấy CNĐKKD.
- Phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản.
Khác nhau:
Khác nhau

Giaỉ thể
Phá sản
Lý do
Giaỉ thể vì mục tiêu đề ra không thể đạt được hoặc đã hoàn toàn xong mục tiêu đó hết
hoạt thời hạn hoạt động mà không gia hạn thêm, vì bị thu hồi giấy CNĐKKD hay đơn
giản là do quyết định của chủ DN muốn giải thể.
Phá sản khi DN không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
có yêu cầu thì lâm vào tình trạng phá sản.
Thủ tục
Pháp lý
Giải thể là một thủ tục hành chính là giải pháp tính chất tổ chức người chủ doanh
nghiệp tự mình quyết định do cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập quyết định
Là một thủ tục tư pháp, là hoạt động do một cơ quan nhà nước duy nhất là toà án có
thẩm quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của pháp luật phá sản.

Thời hạn giải quyết tranh chấp
Ngắn hơn phá sản
Dài hơn giải thể
Cách thức thanh toán tài sản
Khi giải thể chủ DN hoặc các DN, HTX tiến hành thanh toán giải quyết mối quan hệ
nợ nần vs chủ nợ
Khi phá sản, việc thanh toán tài sản, phân chia giá trị tài sản còn lại của DN, HTX
được thực hiện thông qua một cơ quan trung gian là tổ chức thanh toán tài sản sau khi
có quyết định tuyên bố phá sản
Thái độ của Nhà nước
- DN giải thể sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ tài sản vẫn có thể chuyển sang một
ngành nghề KD khác nếu có thể
- GĐ DN giải thể có thể đứng ra thành lập, điều hành công ty mới
- Chủ DN sau khi bị phá sản hầu như không có quyền gì liên quan đến tài sản của DN


- GĐ, CT HĐQT, TV HĐQT của Cty bị phá sản bị hạn chê quyền tự do kinh doanh,
thể hiện ở chỗ bị cấm giữ chức vụ đó từ 1 đến 3 năm ở bất kỳ DN nào
Hậu quả
Giải thể bao giờ cũng dẫn đến chấm dứt hoạt động và xoá tên doanh nghiệp, hợp tác

phá sản thì không phải bao giờ cũng đem đến kết quả như vậy. Ví dụ: Một người nào
đó mua lại toàn bộ doanh nghiệp phá sản, giữ nguyên tên thậm chí cả nhãn hiệu hang
hoá, tiếp tục duy trì sản xuất. Trong trường hợp này chỉ có sự thay đổi sở hữu của chủ
doanh nghiệp chứ không hề có sự chấm dứt hoạt động của nó.
Giải thể, phá sản DN, HTX là yếu tố tích cực hay tiêu cực?
Tích cực
Tiêu cực
- Gíup đào thải doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, quản lý yếu kém.
- Bảo vệ các chủ nợ.
- Bảo vệ quyền lợi của người lao động
- Bảo vệ chính các doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp bị phá sản
- Là biện pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại nền kinh tế
- Sự hao hụt, mất mát tài sản của các chủ nợ.
- Gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm
và thu nhập của người lao động.
- Người lao động bị mất việc làm phát sinh.
- Các vấn đề XH mang tính chất tiêu cực phát sinh, tệ nạn xã hội gia tăng.
- Sự mất mát của 1 tổ chức kinh tế gây ra xáo trộn thị trường

II. THỦ TỤC PHÁ SẢN
1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
* Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Chủ nợ của doanh nghiệp: khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì:
chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản.

Người lao động trong doanh nghiệp: trong trường hợp người lao động không được trả
lương và các khoản nợ khác và nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì
đại diện người lao động có quyền nộp đơn.
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản: khi nhận thấy doanh nghiệp mình lâm vào
tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp có nghĩa vụ phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước: khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào
tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn thì đại diện
chủ sở hữu có quyền nộp đơn.
Các cổ đông của các công ty cổ phần: khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình
trạng phá sản thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản.
Thành viên hợp danh: khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì
thành viên hợp danh có quyền nộp đơn.
* Mở thủ tục phá sản:

×