Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Xuất khẩu lao động việt nam giai đoạn 2008 2012 và giải pháp thúc đẩy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.76 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
Trong hơn 10 năm trở lại đây thế giới đã chứng kiến các cuộc khủng hoảng kinh
tế làm suy giảm đáng kể nền kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng tài chính 1997
– 1998 và mới đây là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2009. Trong thời gian gần
đây nền kinh tế của các nước chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
có dấu hiệu phục hồi trở lại, tuy nhiên tình trạng thất nghiệp vẫn còn diễn ra với số
lượng lớn. Và cần có một hướng giải quyết cho những lao động thất nghiệp này.
Một trong những hướng giải quyết đó là: Xuất khẩu lao động. Nắm bắt được thời
cơ thuận lợi đó trong những năm qua Việt Nam đã đề ra những chính sách, mục
tiêu phương hướng cho việc xuất khẩu lao động nhằm giải quyết việc làm cho
người lao động. Với định hướng xuất khẩu lao động rõ ràng và phù hợp với xu
hướng phát triển của nền kinh tế đã được Đảng và Nhà nước xác định như là một
trong những lĩnh vực đối ngoại đặc biệt, một trong những chiến lược để phát triển
nền kinh tế đất nước. Tuy vậy việc xuất khẩu lao động của nước ta còn gặp một số
hạn chế về trình độ tay nghề, ngoại ngữ, kỉ luật lao động… Đòi hỏi sự nhập cuộc
của các nhà quản lý, doanh nghiệp, người lao động đi xuất khẩu để cùng “chung
tay” giải quyết vấn đề trên. Đó là lý do để nhóm tìm hiểu về vấn đề: “ Giải pháp
thúc đẩy xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Mục tiêu
chính của việc tìm hiểu vấn đề này là làm rõ vấn đề xuất khẩu lao động và công tác
mở rộng thị trường và từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế,
nhược điểm của lao động Việt Nam để lao động xuất khẩu của nước ta ngày càng
có vị thế vững chắc trên thị trường lao động quốc tế.
1
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG
1. Các khái niệm cơ bản:
Nguồn lao động:
Là nguồn lực về con người bao gồm số lượng dân cư trong độ tuổi lao động và
có khả năng lao động. Nguồn lao động được nghiên cứu ở đây là nhằm vào khía
cạnh khác: Trước hết nó là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, sau nữa xét về
khía cạnh kinh tế - xã hội, nó là khả năng lao động của xã hội.


Sức lao động:
Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải xã hội,
phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong
quá trình lao động xã hội.
Thị trường lao động:
Là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những người sở
hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó. Thị trường
lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị trường và chịu sự
tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường. Một thị trường lao động
tốt là thị trường mà ở đó lượng cầu về lao động tương ứng với lượng cung về lao
động.
• Thị trường lao động trong nước
Là một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển từ
nơi này đến nơi khác nhưng trong phạm vi biên giới một quốc gia.
• Thị trường lao động quốc tế
Là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao
động từ nước này có thể di chuyển sang nước khác thông qua Hiệp định, các thỏa
thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới.
Xuất khẩu lao động:
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung
ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có
tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động.
2
2. Thị trường hàng hóa lao động quốc tế
Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, cũng như
sự phân bố không đồng đều về tài nguyên, dân cư, khoa học công nghệ giữa các
vùng, khu vực, và giữa các quốc gia, dẫn đến không một quốc gia nào lại có thể
đầy đủ, đồng bộ các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế.
Để giải quyết tình trạng bất cân đối trên, tất yếu sẽ dẫn đến việc các quốc gia
phải tìm kiếm và sử dụng những nguồn lực từ bên ngoài để bù đắp một phần thiếu

hụt các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế của đất nước mình.
Thường thì các nước xuất khẩu lao động đều là những quốc gia kém hoặc đang
phát triển, có dân số đông, thiếu việc làm hoặc có thu nhập thấp không đủ đảm bảo
cuộc sống gia đình và chính bản thân người lao động. Nhằm khắc phục tình trạng
khó khăn này, thì các quốc gia này phải tìm kiếm việc làm cho những người lao
động đó từ bên ngoài. Trong khi đó, ở những nước có nền kinh tế phát triển thường
lại có ít dân, thậm chí có nước đông dân nhưng vẫn không đủ nhân lực để đáp ứng
nhu cầu sản xuất do nhiều nguyên nhân như: Công việc nặng nhọc, nguy hiểm và
độc hại nên không hấp dẫn lao động của chính nước họ gây ra thiếu hụt lao động.
Để duy trì phát triển sản xuất thì các nước này chỉ còn cách là đi thuê lao động từ
nước ngoài về làm việc ở những nước kém phát triển hơn, có nhiều lao động dư và
có khả năng cung ứng lao động làm thuê.
Như vậy đã xuất hiện nhu cầu trao đổi giữa một bên là những quốc gia có nguồn
lao động dôi dư với một bên là các nước có nhiều việc làm, cần thiết phải có đủ số
lượng lao động để sản xuất. Do đó vô hình chung đã làm xuất hiện (Cung - Cầu):
cung là đại diện cho bên có nguồn lao động, còn cầu là đại diện cho bên các nước
có nhiều việc lam, đi thuê lao động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đã hình
thành lên một loại thị trường, đó là thị trường hành hóa lao động quốc tế.

3. Các hình thức xuất khẩu lao động
a.Chia theo hàng hóa sức lao động
Xuất khẩu lao đông có nghề: là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm việc thì
đã được đào tạo thành thạo một loại nghề nào đó và khi số lao động này ra nước
ngoại làm việc có thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải bỏ ra thời gian và
chi phí để đào tạo nữa.
Xuất khẩu lao động không có nghề: là loại lao động mà khi ra nước ngoài làm
việc chưa được đào tạo một loại nghề nào cả. Loại lao động này thích hợp với
những công việc dơn giản, không cần trình độ chuyên môn hoặc phía nước ngoài
cần phải tiến hành đào tạo cho mục đích của mình trước khi đưa vào sử dụng.
3

b.Chia theo cách thực hiện
Xuất khẩu lao động trực tiếp là hình thức các công ty cung ứng lao động trực tiếp
cho các chủ sử dụng ở nước ngoài thông qua hợp đồng cung ứng đi làm việc ở
nước ngoài. Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng
khi làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về xuất khẩu lao
động để thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước.
Xuất khẩu lao động tại chỗ là hình thức người lao động làm việc cho các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công
nghệ cao, các tổ chức cơ quan ngoại giao của nước ngoài đóng tại nước của người
lao động.
c.Các hình thức xuất khẩu lao động mà nước ta đã sử dụng
Sau gần 30 năm thực hiện phát triển lĩnh vực xuất khẩu lao động với những
kinh nghiệm bước đầu có được thi nước ta đã áp dụng được một số hình thức khác
nhau trong hoạt động xuất khẩu lao động như:
 Đưa lao động đi bồi dưỡng học nghề, nâng cao trình độ và làm việc có thời
gian ở nước ngoài.
 Hợp tác lao động và chuyên gia.
 Đưa lao động đi làm việc tại các công trình doanh nghiệp Việt Nam nhận
thầu khoán xây dựng, liên doanh hay liên kết tạo ra sản phẩm ở nước ngoài.
 Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài thông
qua các hợp đồng lao động được ký kết bởi các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch
vụ cung ứng lao động.
 Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng khi làm
thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về xuất khẩu lao động.
 Xuất khẩu lao động tại chỗ.
4. Những đặc điểm, sự cần thiết và vai trò của việc xuất khẩu lao động
a.Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
-Xuất khẩu lao động là một loại hoạt động kinh tế và diễn ra trên toàn thế giới.
Ở nhiều nước trên thế giới, xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp
quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu ngoại tệ

bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác. Những
lợi ích này đã buộc các nước xuất khẩu lao động phải chiếm lĩnh mức cao nhất thị
trường lao động ở nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh được hay không lại dựa trên
quan hệ cung cầu sức lao động.
-Xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội.
4
Thực chất, xuất khẩu lao động không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi
chính sách pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phải kết hợp với chính sách
xã hội: Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài được lao động như
cam kết ở trong hợp đồng, cũng như đảm bảo các hoạt động công đoàn hơn nữa,
người lao động xuất khẩu dẫu sao cũng chỉ có thời hạn do vậy cần phải có những
chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi họ hoàn thành hợp đồng và trở
về nước.
-Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hòa giữa quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự
chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất khẩu lao động đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài.
-Phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao động
Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động lợi ích kinh tế của Nhà nước chính là khoản
ngoại tệ mà người lao động gửi về nước và các khoản thuế. Lợi ích của các tổ chức
xuất khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu từ các loại phí giải quyết việc
làm ngoài nước. Còn lợi ích của người lao động chính là các khoản thu nhập.
-Xuất khẩu lao động là hoạt động mang tính biến đổi
Hoạt động xuất khẩu lao động phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu cầu nhập
khẩu lao động do vậy cần phải có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước ngoài
đang và sẽ được thực hiện để xây dưng chính sách và chương trình đào tạo giáo
dục định hướng phù hợp và linh hoạt.
b.Sự cần thiết của việc xuất khẩu lao động
Theo số liệu điều tra năm 2009 cho thấy dân số Việt Nam là hơn 86 triệu người,
trong độ tuổi lao động là 66% so với tổng dân số, hằng năm tăng thêm 1,2 triệu lao
động/năm, chiếm 3% trong tổng số lực lượng lao động. Riêng lao động kỹ thuật

cao 3 triệu người tốt nghiệp trung cấp (chiếm 3,9%), 1,1 triệu tốt nghiệp cao đẳng
(chiểm 1,3%), 2,7 triệu tốt nghiệp đại học (chiếm 3,4%), 141 nghìn người có học
vị trên đại học (chiếm 0,2%). Chỉ có 4 triệu người chưa đi học (chiếm 5,1%) so với
dân số từ 5 tuổi trở lên
Với tình trạng tốc độ phát triển nguồn lao động nêu trên, mâu thuẫn giữa lao
động và việc làm ngày càng trở nên gay gắt với nền kinh tế. Nếu không giải quyết
một cách hài hòa và có những bước đi thích hợp giữa mục tiêu kinh tế và xã hội sẽ
dẫn tới mất ổn định nghiêm trọng về mặt xã hội. Cùng với hướng giải quyết việc
làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một định hướng chiến lược tích cực
quan trọng, lâu dài, cần phải được phát triển lên một tầm cao mới.
Để giải quyết được vấn đề này, xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực cứu
cánh cho bài toán giải quyết việc làm không những của Việt Nam mà còn đối với
cả hầu hết các nước xuất khẩu lao động trong khu vực và trên thế giới.
5
c.Vai trò của việc xuất khẩu lao động
Với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh tế, cần phải đươc xem xét, đánh giá
các mặt hiệu quả tích cực mà xuất khẩu lao động đã mang lại. Một khi nhận thức
đúng đắn về hiệu quả của xuất khẩu lao động, cùng với việc vạch ra các chỉ tiêu,
xác định nó là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá hiện trạng và chỉ ra các phương
hướng cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu
lao động.
• Về mục tiêu kinh tế
Trong khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế chưa lâu, kinh tế nước ta còn gặp
vô vàn khó khăn, mọi nguồn lực còn eo hẹp thì việc hàng năm chúng ta đưa hàng
vạn lao động ra nước ngoài làm việc đã mang về cho đất nước hàng tỷ USD/năm,
đóng góp quan trọng vào việc phát triển đất nước.
• Về mục tiêu xã hội
Mặc dù còn những hạn chế nhất định với tiềm năng, song xuất khẩu lao
động Việt Nam trong những năm qua đã góp phần giải quyết vấn đề công ăn việc
làm, ổn định đời sống dân cư và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bước đầu đã đạt

được những thành công nhất định về mục tiêu mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng
và Nhà nước đề ra.
Trước hàng loạt những khó khăn và gánh nặng thất nghiệp của người lao động
trong nước, cùng với các biện pháp tìm kiếm và tạo công ăn, việc làm trong nước
là chủ yếu thì xuất khẩu lao động đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan
trọng, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng vạn lao động mỗi năm,
đồng thời làm giảm sức ép về việc làm và tạo sự ổn định xã hội ở trong nước
II.XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1. Khái quát chung về lực lượng lao động ở Việt Nam.
Theo số liệu thống kê năm 2009 dân số Việt Nam là 85.789.573 người, là một
nước đông dân thứ 3 khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 13 trong những nước đông
dân nhất thế giới. Theo báo cáo thì dân số của nước ta đã đạt đến “cơ cấu dân số
vàng” với tỉ trọng dân số dưới độ tuổi lao động chiếm 25%, tỉ trọng dân số trong
độ tuổi lao động là 66% và dân số trên độ tuổi lao động là 9%. Điều đó cho thấy
nước ta đang sở hữu một lực lượng lao động tương đối dồi dào và đây cũng chính
là tiềm năng lớn để phát triển đất nước.
Có thể khái quát cơ bản về đặc điểm của lực lượng lao động của nước ta như sau:
6
• Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, nhanh nhẹn cần cù và có
khả năng nắm bắt công việc nhanh, có thể nói thương hiệu “lao động Việt
Nam” đã và đang được đánh giá cao trên thị trường lao động quốc tế.
• Tỉ lệ lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên rõ rệt, hiện nay nước ta tỉ lệ
lao động đã qua đào tạo của nước ta chiếm khoảng hơn 25,3% trong đó tỉ lệ
qua đào tạo chuyên môn kĩ thuật chiếm khoảng 16,8% lực lượng lao động.
Điều này chứng tỏ rằng lực lượng lao động Việt Nam ngày càng được củng
cố về chất lượng.
Tuy vậy lực lượng lao động nước ta còn gặp một số hạn chế như sau:
• Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung cấp và công nhân kĩ thuật rất
bất hợp lý, nó thể hiện ở chỗ tỉ lệ này là 1 – 2,6 – 4,2 trong khi đó ở các
nước khác là 1 – 4 – 10.

• Lực lượng lao động nước ta chưa có tác phong công nghiệp còn thấp, tính kỉ
luật trong quá trình làm việc chưa cao.
Nhìn chung, nước ta là một nước có nguồn lao động dồi dào, tốc độ phát triển
tương đối cao tuy nhiên lao động nước ta còn yếu về kĩ năng và trình độ lao động,
một cơ cấu lao động bất hợp lý nên đã tạo ra một khó khăn lớn trong quá trình giải
quyết việc làm. Trong tương lai nếu không được khắc phục thì nguồn nhân lực
không còn là điểm mạnh của nước ta trong quá trình phát triển đất nước.
2. Khái quát chung về thị trường xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Chi phí nhân công rẻ và cung lao động dồi dào nên thị trường xuất khẩu lao động
Việt Nam có tính hấp dẫn cao. Và cũng thật dễ hiểu tại sao thị trường xuất khẩu lao
động của Việt Nam ngày càng được mở rộng.
Thị trường lao động của nước ta khá đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhiều
yêu cầu lao động của các nước. Chính vì vậy mà lao động Việt Nam đã có mặt ở
hầu hết khắp các châu lục trên thế giới. Nhưng có thể thấy thị trường xuất khẩu lao
động của Việt Nam tập trung chủ yếu ở một số quốc gia ở châu Á có nhiều điểm
tương đồng về văn hóa, phong tục tập quán và khí hậu… cộng thêm vào đó là chi
phí đi lại rẻ nên thu hút được nhiều lao động Việt Nam như: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan, Malaysia…
Bên cạnh những thị trường lao động ở khu vực châu Á đang tiếp nhận lao động
Việt Nam thì còn một số thị trường lao động khác vẫn tiếp nhận một số lượng lao
động của nước ta không nhiều và chủ yếu tập trung ở các ngành nghề lao động
giản đơn.
7
3. Những thành tựu và hạn chế của xuất khẩu lao động Việt Nam từ năm 1980
đến nay
a.Những thành tựu của xuất khẩu lao động trong những năm qua
Trong những năm qua hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những vấn
đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, đó là một trong những hoạt động nhằm giải
quyết việc làm cho người lao động và cải thiện đời sống dân sinh. Có thể nói đây là
một trong những hoạt động thường niên mà Quốc hội đưa vào chỉ tiêu kế hoạch

hằng năm, đây cũng à xu hướng tất yếu trong thời kì hội nhập với kinh tế quốc tế.
Trong nhiều năm qua hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta đã có nhiều
chuyển biến rõ rệt, số lao động được đi làm việc không chỉ tăng theo cấp số cộng
mà đã tăng theo cấp số nhân trong những năm gần đây. Nhìn lại thành tựu mà xuất
khẩu lao đông nước ta đã mang lại qua các thời kì từ năm 1980 đến nay sẽ cho
chúng ta thấy rõ điều đó.
THỐNG KÊ SỐ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU QUA CÁC THỜI KÌ
(Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
8
Tóm lại, gần 30 năm đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nước ta đã
giải quyết được rất nhiều việc làm cho người lao động và góp phần cải thiện đời
sống cho rất nhiều người lao động. Có thể nói gần 30 năm qua xuất khẩu lao động
là một lĩnh vực xuất khẩu đặc biệt mang lại lợi nhuận kinh tế tương đối cao cho các
doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này và góp phần vào công cuộc phát triển
kinh tế trong 30 năm qua. Tuy nhiên xuất khẩu lao động ở nước ta vẫn còn nhiều
hạn chế và thiếu sót cần được khắc phục kịp thời.
b.Những hạn chế của xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Trải qua gần 30 năm thực hiện việc xuất khẩu lao động đi nước ngoài nước ta đã
đạt được những thành tựu đáng kể như ta đã thấy ở trên nhưng công tác xuất khẩu
lao động vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế đang nổi cộm mà chúng ta cần phải chấn
chỉnh và khắc phục.
Về chất lượng lao động là một điều rất được quan tâm của lao động Việt Nam,
lao động nước ta được biết đến với những bất lợi thể hiện ở “ba không”: Không
nghề, không ngoại ngữ và không tác phong công nghiệp. Điều này trở thành một
bất lợi lớn cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài.
Như ta đã biết trình độ tay nghề của lao động Việt Nam khi xuất khẩu ra nước
ngoài là rất thấp, chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao động phổ thông chưa qua
đào tạo nghề, không có trình độ chuyên môn kĩ thuật.
Sức khỏe của lao động nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế, lao động của nước ta
chỉ đủ sức khỏe làm các công việc ở các ngành nghề như công nghiệp, nông

nghiệp, dịch vụ, làm việc trong các nhà máy còn các công việc như đi biển, xây
dựng thì chưa đạt yêu cầu.
Trình độ ngoại ngữ của lao động được đánh giá là rất kém. Nhiều lao động bị trả
về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ ngoại ngữ.
Kỉ luật lao động là một điều mà đã gây ra tai tiếng cho lao động nước ta khi làm
việc ở nước ngoài. Lao động nước ta khi làm việc ở các nước sở tại đều thiếu kỉ
luật và thiếu nghiêm túc trong việc thực hiện bảo hộ lao động.
Bên cạnh đó tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta còn tồn tại một số vấn đề
trong công tác quản lý xuất khẩu lao động. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài tuy nhiên có rất ít doanh nghiệp có văn
phòng đại diện để giải quyết các vấn đề liên quan đến lao động của mình.
Một điều đáng lo ngại nữa là tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn còn diễn ra nhưng
chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Ở một số thị trường truyền thống như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động nước ta vẫn
cao ( khoảng 10 – 15%) làm ảnh hưởng tới uy tín của lao động Việt Nam.
9
Hiện tượng các tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính của người
lao động đi xuất khẩu lao động vẫn còn.
Ngoài ra vẫn còn một số hạn chế trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu lao
động của nước ta còn hạn chế. Hiện nay nước ta vẫn đang tập trung chủ yếu vào
việc xuất khẩu lao động ở các thị trường truyền thống và chưa có sự phát triển
những thị trường mới trong bối cảnh mà thị trường truyền thống đang ngày càng bị
thu hẹp.
III.XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2008-2012
NĂM 2008
Tình hình kinh tế thế giới 2008:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng
loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và
mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng

hoảng tài chính ở Hoa Kỳ - đã gây ra sự phá sản một loạt các công ty, các tập đoàn
trên thế giới. Khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo
theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ. Thị trường chứng
khoán khuynh đảo. Kinh tế thế giới suy thoái. Thị trường hàng hoá biến động khôn
lường. Hậu quả là tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, tình trạng thiếu việc làm trở nên trầm
trọng. Các ngành kinh doanh dịch vụ việc làm cũng vì thế mà rơi vào tình trạng
khó khăn chồng chất khó khăn; ngành xuất khẩu lao động cũng có thể nói là một điển
hình.
Theo dự đoán của các chuyên gia, kinh tế Mỹ nói riêng và thế giới sẽ tiếp tục đi
xuống trong năm 2009. Cường quốc số một thế giới và nhiều nền kinh tế lớn khác
có xu hướng dần chuyển từ lạm phát sang giảm phát, trạng thái báo hiệu sự suy
giảm kéo dài của nền kinh tế, biểu hiện ở sự đi xuống của thị trường tín dụng, nhà
đất, lao động và hoạt động tiêu dùng. Giá hàng hoá sẽ chưa thể sớm khởi sắc. Thị
trường chứng khoán cũng sẽ chờ tin tốt lành từ tình hình kinh tế mới có thể hồi
phục.
Mục tiêu xuất khẩu lao động:
Theo kế hoạch năm 2008, Cục Quản lý lao động Ngoài nước thuộc Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội sẽ đưa khoảng 85.000 người đi lao động tại nước ngoài, tập
trung vào một số thị trường chủ lực như Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Trung Đông Tuy nhiên chất lượng người lao động là những rào cản lớn nhất
trong quá trình tiếp cận những thị trường cao cấp. Chất lượng nguồn lao động là
10
một trong những yếu tố quan trọng nhất cho sự thắng thế trong cạnh tranh trên thị
trường lao động quốc tế. Muốn mở rộng việc làm tốt hơn, thu nhập cao hơn cho lao
động Việt Nam ở nước ngoài, không có cách nào hữu hiệu bằng nâng cao chất
lượng nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Và sự cần thiết và lợi ích của việc
gắn kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động và cơ sở dạy nghề trong việc chuẩn
bị nguồn lao động có trình độ kỹ năng nghề và ngoại ngữ cho thị trường ngoài
nước.
Tình hình xuất khẩu lao động 2008:

Năm 2008, cả nước đã đưa được gần 87.000 người đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài, vượt kế hoạch đề ra (85.000).
Hàn Quốc là một trong những thị trường hấp dẫn nhất đối với người lao động, vì
điều kiện làm việc và thu nhập tương đối cao. Trong năm đã có hơn 18.000 lao
động đi làm việc ở thị trường này.
Đài Loan cũng là thị trường thu hút nhiều lao động, với 30.000 người lao động
trong năm 2008. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp Đài Loan gặp khó khăn do khủng
hoảng tài chính toàn cầu nên đã có hơn 500 lao động Việt Nam phải về nước trước
hạn.
Lượng xuất khẩu lao động tại các thị trường
Đơn vị: người
Nhật
Bản
Hàn
Quốc
Đài
Loan
Malaysia Cata UAE Ả Rập
xê út
CH
Séc
Ma
Cao
Khác Tổng
2008 6142 18141 31631 7810 10789 2845 2987 1871 1417 11355 94988
Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước
Dựa vào biểu đồ lượng xuất khẩu lao động năm 2008, ta có thể thấy Đài Loan là
nước có lượng lao đông xuất khẩu cao nhất với 31631 người, đứng thứ 2 là Hàn
Quốc 18141 người, thứ 3 là Cata với 10789 người. Hàn Quốc và Đài Loan là 2
điểm đến mà lao động Việt Nam thường chọn lựa, 2 nước này có tốc độ tăng

trường kinh tế cao, thu nhập GDP/ đầu người, phúc lợi xã hội được chú trọng.
Đầu năm 2008 Việt Nam cũng đã ký hiệp định về hợp tác lao động với Qatar. Đó
là cơ sở quan trọng để Trung Đông sẽ trở thành thị trường điểm nhấn của ngành
xuất khẩu lao động nước ta. Ông Nguyễn Xuân Vui, Chủ tịch Hội đồng Quản trị
kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Dịch vụ và Thương mại hàng không
(Airseco), một trong những doanh nghiệp đang dẫn đầu về số lượng xuất khẩu lao
động sang Trung Đông cho biết, trong khu vực này, Ả rập Xê-út là nước có nhu
cầu lao động lớn nhất, mỗi năm cần khoảng 800- 900 nghìn lao động từ các quốc
gia có nhu cầu về xuất khẩu lao động, thuộc nhiều ngành nghề.
11
Năm 2008 số lượng lao động tăng so với năm 2006 là 14848 người (tương đương
với 119%), và so với 2007 tăng 10363 người (tương đương với 113%). Do chịu
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính
của Mỹ, nên tốc độ tăng của năm 2008 chậm hơn 5,6% so với tốc độ tăng của năm
2007. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhiều công ty phá sản, nền kinh tế đình trệ thì con
số trên đã thể hiện những nỗ lực hết mình của chính phủ và các ban ngành đối với
sự phát triển ngành xuất khẩu lao động.
Con số này cũng đánh dấu những bước tiến của ngành xuất khẩu lao động trong
bước đầu của quá trình suy thoái kinh tế. Đó là thành quả của quá trình nỗ lực
không ngừng tìm đầu ra cho thị trường lao động nước nhà. Nhưng trong cái được
của ngành xuất khẩu lao động của Việt Nam, ta cũng thấy nhiều nhược điểm. Thứ
nhất, thị trường lao động của chúng ta chủ yếu tập trung vào một số thị trường cũ
như Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc…; trong đó một loạt các thị trường tiềm năng
có thu nhập cao khác như Mỹ, Anh, Pháp thì chúng ta vẫn chưa chạm tới được.
Nếu có thì cũng chỉ là một vài doanh nghiệp ký kết hợp đồng trực tiếp, còn thực tế
thì Việt Nam chưa có một cung chính thức nào. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta
mới chỉ đang tìm hiểu các thị trường đó một cách dè dặt, chưa có những chính sách
mang tính chiến lược, bứt phá… Thứ hai, lao động của chúng ta xuất khẩu chủ yếu
là lao động thủ công, tay nghề chưa cao. Theo báo cáo của Cục Quản lý lao động
ngoài nước, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo xuất khẩu đi các nước của nước ta chỉ đạt

15%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao
động, nguồn thu cho ngân sách và cho chính bản thân người lao động.
Trong năm 2008, Chính phủ đã có những hành động cụ thể để thúc đẩy xuất
khẩu lao động, như phê duyệt dự án "Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần
giảm nghèo nhanh, bền vững tại các huyện nghèo giai đoạn 2009-2015", kết hợp
các doanh nghiệp hỗ trợ người lao động diện chính sách về phí đào tạo, ăn ở, đi lại,
thủ tục làm việc ở nước ngoài cùng các chính sách tín dụng ưu đãi. Cụ thể:
+Chính sách xuất khẩu lao động: hỗ trợ đào tạo nghề, đào tạo ngoại ngữ, bồi
dưỡng văn hóa, đào tạo định hướng (bao gồm cả ăn, ở, đi lại, trang cấp ban đầu,
chi phí làm thủ tục và cho vay vốn ưu đãi) để lao động các huyện nghèo tham gia
xuất khẩu lao động; phấn đấu mỗi năm đưa khoảng 7.500 - 8.000 lao động ở các
huyện nghèo đi làm việc ở ngoài nước (bình quân 10 lao động/xã).
+Tăng cường dạy nghề gắn với tạo việc làm: đầu tư xây dựng mỗi huyện 01 cơ sở
dạy nghề tổng hợp được hưởng các chính sách ưu đãi, có nhà ở nội trú cho học
viên để tổ chức dạy nghề tại chỗ cho lao động nông thôn về sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp, ngành nghề phi nông nghiệp; dạy nghề tập trung để đưa lao động nông
thôn đi làm việc tại các doanh nghiệp và xuất khẩu lao động.
+Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực các Chương trình
giảm nghèo, chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan tổ chức thực hiện, theo dõi,
đánh giá hiệu quả của Chương trình; xây dựng đề án xuất khẩu lao động; trình, ban
12
hành chính sách hỗ trợ học nghề và xuất khẩu lao động ở các huyện nghèo; chỉ đạo
ưu tiên đầu tư các cơ sở dạy nghề, tổ chức đào tạo nghề gắn với việc làm và xuất
khẩu lao động.
NĂM 2009
Tình hình thế giới 2009:
Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, năm 2009 kinh tế thế giới
giảm sút, đặc biệt là trong nửa đầu năm kinh tế của các nước phát triển trải qua một
cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ những năm 30 của thế kỷ trước đến nay.
Cùng với sự ổn định về tiền tệ, thực hiện kế hoạch kích thích kinh tế của các nước,

đến nửa cuối năm 2009 thị trường tiền tệ quốc tế dần ổn định trở lại, tiêu dùng và
đầu tư hồi phục với tốc độ chậm, kinh tế tụt dốc giảm tốc độ và bắt đầu hồi sinh.
Theo số liệu của Tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF), năm 2009 kinh tế thế giới năm
giảm 0,6% và đồng thời cho rằng, thời kỳ khó khăn nhất của kinh tế thế giới đã qua
đi, thị trường vốn của các quốc gia chủ yếu đã dần dần ổn định trở lại, công nghiệp
chế tạo đã bắt đầu hồi phục tăng trưởng, thương mại XNK đã tăng rõ nét, dự kiến
trong năm 2010 kinh tế thế giới sẽ hồi phục tăng trưởng, tốc độ đạt 4,2%, trong đó
tăng trưởng của các nước phát triển là 2,3%, còn thị trưởng mới nổi và các nước
đang phát triển là 6,3%. Đến năm 2011, dự kiến tăng trưởng của kinh tế thế giới
đạt 4,3%, trong đó các nước phát triển đạt 2,4% , còn thị trường mới nổi và các
nước đang phát triển là 6,5%.
Mục tiêu và tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam trong năm 2009:
Mục tiêu: Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh Xã hội, kế hoạch năm
2009 Việt Nam sẽ xuất khẩu 90.000 lao động. Trung Đông (Các tiểu Vương quốc
Ả rập Thống nhất - UAE, Ả rập Xê út, Qatar) được Bộ LĐ – TB&XH nhận định là
thị trường ít bị ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính. Đây vẫn là thị trường lao động
trọng điểm của Việt Nam trong năm 2009. Các thị trường truyền thống như
Malaysia, Đài Loan bắt đầu cắt giảm lao động do khủng hoảng kinh tế. Nhiều lao
động làm việc trong các lĩnh vực điện tử, chế tạo, xây dựng thiếu việc làm, giảm
thu nhập. Để đối phó khủng hoảng tài chính và thực hiện chỉ tiêu đưa 90.000 người
người lao động đi nước ngoài làm việc trong năm 2009, Bộ LĐ-TB&XH khuyến
cáo doanh nghiệp và người lao động nên lựa chọn những thị trường có nhu cầu tiếp
nhận lao động số lượng lớn. Các doanh nghiệp nên thẩm định kỹ hợp đồng và đào
tạo bài bản để tránh thiệt hại cho người lao động.
13
Tình hình xuất khẩu lao động năm 2009:
Tính đến tháng 8/2009 theo thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước, cả
nước đã xuất khẩu được 45.634 người, đạt 50,7% so với kế hoạch cả năm. Thị
trường tiếp nhận chủ yếu là Đài Loan (13.202 người); Hàn Quốc (5.549 người);
Nhật Bản (3.793 người); Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE) (3.051

người); Li Bi (2660 người); Ma Cao (2.349 người); Malaysia (1.666 người); Nga
(1.484 người); các thị trường khác là 11.880 người. Trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế như vậy, con số 8 tháng đầu năm nêu trên là những kết quả tích cực và
đồng thời cũng là kết quả nỗ lực của các ban ngành, đặc biệt là của các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động.
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội, tính trong cả năm
2009 có:
- Số người đi lao động ở nước ngoài: Tính đến 31/12/2009, Việt Nam đã đưa gần
75.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt gần 83% kế hoạch đề ra từ đầu năm
(90.000 lao động). Số lượng lao động đưa đi một số thị trường chính:
• Đài Loan: 21.667 lao động
• Hàn Quốc: 7.578 lao động (trong đó: 4.837 là số đi mới và
2.741 là đi lại)
• Nhật Bản: 5.456 tu nghiệp sinh và lao động
• Lào: 9.070 lao động
• Lybia: 5.241 lao động
• UAE: 4.733 lao động
• Malaysia: 2.792 lao động
Năm Malaysia Đài Loan Hàn Quốc Nhật Bản Trung
Đông
Nước
khác
Tổng số
2009 2792 21667 7578 45253 35320 25136 73028
- Số lao động về nước trước hạn do không có việc làm: khoảng 9000 lao động;
- Số Doanh nghiệp dịch vụ XKLĐ: có 164 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động
dịch vụ XKLĐ; Trong đó nhiều đơn vị còn thiếu kinh nghiệm và năng lực hoạt
động. Trong ba năm gần đây, có tới 29 doanh nghiệp không xuất khẩu được lao
động nào; 16 doanh nghiệp xuất khẩu dưới 100 lao động và chỉ có 81 doanh nghiệp
xuất khẩu được trên 500 lao động

- Số lượng các khiếu nại trong lĩnh vực XKLĐ: (Số liệu từ Phòng Thanh tra Cục
Quản lý Lao động ngoài nước): 521 đơn khiếu nại trong đó nhiều khiếu nại tập thể
14
và tập trung nhiều ở các thị trường Đài Loan, Cộng hòa Liên bang Nga, Cộng Hòa
Czech. Năm 2006, số lượng đơn khiếu nại là 212 đơn.
- Lượng kiều hối gửi về của người lao động xuất khẩu mỗi năm: khoảng 2 tỷ USD;
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, để đạt mục tiêu tăng số lượng lao động đi
làm việc ở nước ngoài đến năm 2010 là hơn 100.000 lao động, Cục sẽ thực hiện
một số giải pháp trọng tâm như đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người lao động
sang thị trường trọng điểm Malaysia; mở rộng các thị trường mới, thị trường có thu
nhập cao, khuyến khích XKLĐ có nghề, lao động kỹ thuật…
So với nguồn lao động dồi dào của Việt Nam hiện nay, thì việc hoàn thành chỉ
tiêu trên không phải là khó. Nếu như trong thời gian qua, các hoạt động liên quan
tới việc XKLĐ được thực hiện nghiêm túc, có sự quản lý tốt, thì con số đi lao động
ở nước ngoài có thể lớn hơn nhiều, so với kết quả đã đạt được.
Trong năm 2009 Chính phủ tiếp tục thông qua dự án "Hỗ trợ các huyện nghèo
đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-
2020", triển khai tại 62 huyện nghèo trong nước. Đây là chính sách xuất khẩu lao
động có phạm vi và ảnh hưởng lớn nhất tính đến thời điểm 2009. NLĐ ở các huyện
nghèo trước đây có thể chưa đủ điều kiện kể cả về trình độ văn hoá, trình độ nghề,
tài chính thì bây giờ được Nhà nước hỗ trợ toàn bộ những điều kiện đó để làm việc
ở nước ngoài. Đối với các DN, Nhà nước cũng tổ chức đưa họ đến tận những địa
phương nghèo, xa xôi để tuyển lao động. Chủ trương tuyển lao động này được
quán triệt và giao nhiệm vụ cho cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã phổ biến trực tiếp cho
NLĐ, giúp họ nắm được để tham gia.
Tuy nhiên, việc triển khai Đề án này cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc.
Đó là, trình độ văn hóa, tay nghề, sự hiểu biết về xã hội của NLĐ ở các huyện
nghèo còn thấp. Bên cạnh đó, phong tục tập quán của họ còn có rất nhiều điều
chưa phù hợp để có thể đi làm việc ở nước ngoài. Việc phổ biến tuyên truyền, tổ
chức các lớp học theo Đề án cũng rất khó khăn. Ngoài ra, tại một số huyện, chính

quyền địa phương vẫn chưa thực sự vào cuộc, còn phó mặc cho các DN, không
tiếp tục triển khai đến cấp xã nên người dân không có thông tin về chính sách hỗ
trợ của Nhà nước để đăng ký tham gia, như tại Phú Thọ, Thanh Hoá…
Thống kê về lao động xuất khẩu có nghề và không có nghề 2 năm 2008, 2009:
Năm Lao động xuất
khẩu
Lao động có nghề Lao động không
nghề
2008 87000 59032 279968
2009 75000 58658 16342
(Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước – Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
15
Qua bảng số liệu trên cho thấy giai đoạn này nước ta đã chú ý đến xuất khẩu lao
động có nghề ra nước ngoài, tỉ lệ không hoàn toàn là 100% nhưng đang từng bước
được nâng lên. Theo Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam thì đến năm 2010 số
lao động xuất khẩu có tay nghề đạt trên 75%. Ngành nghề mà chúng ta có sử dụng
nhiều lao động xuất khẩu cũng chỉ hạn chế như ngành xây dựng, vận tải biển, khán
hộ công và giúp việc gia đình, thuyền viên tàu cá, dệt may…; trong khi đó các
ngành nghề đòi hỏi tay nghề và trình độ như các ngành công nghệ thông tin, tài
chính, ngân hàng…thì số lượng lao động của Việt Nam còn khiêm tốn. Bài toán
nhằm giải quyết trình độ của người lao động đang là một vấn đề được đưa ra bàn
luận tại các cuộc họp của Quốc hội. Bởi Việt Nam xuất phát điểm từ một đất nước
thuần nông, mọi lối sống, tác phong của người Việt Nam đều bị ảnh hưởng mãnh
mẽ bởi nền nông nghiệp canh tác lúa nước. Đây là một trong những khó khăn mà
chúng ta không thể khắc phục trong một sớm một chiều; cần phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa nhân dân và chính phủ.
NĂM 2010
Dự đoán về xuất khẩu lao động của Việt Nam năm 2010
Theo Cục Quản lí lao động ngoài nước (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội),
năm 2009 cả nước có gần 75.000 lao động đi làm việc tại nước ngoài, đạt 83%

kế hoạch. Mặc dù không đạt kế hoạch đề ra nhưng Bộ vẫn nhận định, năm
2010 thị trường xuất khẩu lao động sẽ có dấu hiệu phục hồi do nhu cầu tuyển
dụng lao động của các khu vực thị trường dần tăng cao, nền kinh tế bắt đầu ổn
định trở lại. Nhiều thị trường lao động lớn truyền thống của Việt Nam như Hàn
Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Ma-lai-xi-a, Nhật Bản đang có nhu cầu tiếp
nhận một số lượng lớn lao động trong năm 2010. Một số thị trường lao động
mới như Li-bi, Các tiểu vương quốc A Rập thống nhất, các nước Trung Đông
tiếp tục có nhu cầu cao về nguồn lao động tạo cơ hội cho thị trường xuất khẩu
lao động Việt Nam phục hồi.
Thực tế xuất khẩu lao động năm 2010
Kinh tế thế giới 2010 trải qua một năm đầy những biến động bất ngờ, mà trong
đó nổi bật là sự phục hồi kinh tế không đồng đều giữa các khu vực, tình hình nợ
công của khu vực châu Âu, nguy cơ lạm phát khiến nhiều nước quyết định thắt
chặt chính sách tiền tệ và thị trường tài chính biến động phức tạp.
16
Trong năm, Bộ Lao động-thương binh và xã hội đã đề ra một số giải pháp như:
hỗ trợ thanh niên, người nghèo vay vốn học nghề; thực hiện đề án hỗ trợ các huyện
nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm nghèo nhanh, bền vững giai đoạn 2009 -
2020; đổi mới căn bản công tác đào tạo, huấn luyện người lao động trước khi đi
làm việc ở nước ngoài; tăng cường quản lý, bảo vệ quyền lợi cho người lao động
làm việc ở nước ngoài; kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kiên quyết đấu tranh với các
hiện tượng tiêu cực trong XKLĐ
Theo số liệu tổng kết của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2010 Việt
Nam đưa được 85.546 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 100,64% kế hoạch,
tăng 16,4% so với năm 2009 Trong đó:
Thị trường Số người
Đài Loan 28.499
Hàn Quốc 8.628
Nhật Bản 4.913
Malaysia 11.741

Lào 5.903
UAE 5.241
Libya 5.242
Ả rập Xê út 2.729
Macao 3.124
Bahrain 1.204
Campuchia 3.615
Các thị trường khác 4.725
Hoạt động XKLĐ đã có điểm sáng là thị trường Israel chính thức tiếp nhận lao
động Việt Nam, bởi trước đây, Israel chỉ tiếp nhận lao động Việt Nam thông qua
một đơn vị có chức năng XKLĐ trong nước và các trường đại học chuyên ngành
nông nghiệp. Đây là cơ hội lớn cho lao động Việt Nam. Để đưa được nhiều lao
17
động sang Trung Đông, cần mở rộng công tác hỗ trợ đào tạo các nghề có nhu cầu
cao tại thị trường như nghề hàn, các nghề xây dựng, cơ khí, dịch vụ… Mặc dù
không phải là nơi tiếp nhận số lượng lớn lao động hàng năm, song thị trường Nhật
Bản vẫn được đánh giá là hấp dẫn khi thu nhập của tu nghiệp sinh Việt Nam tại thị
trường này khá cao. Theo ý kiến của nhiều doanh nghiệp khai thác thị trường Nhật
Bản và các chuyên gia trong lĩnh vực XKLĐ, đây là thời điểm thuận lợi cho tu
nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật.
Theo số liệu tổng hợp từ 58 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì 4 tỉnh có
trên 20 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài; 10 tỉnh, thành phố có từ 5.000
đến 12.000 người, 16 tỉnh có từ trên 1.000 đến 4.000 và 2 tỉnh chỉ có dưới 100
người là Lai Châu (72 người) và Bà Rịa - Vũng Tàu (11 người). Lao động các tỉnh,
thành phố khu vực miền Bắc, miền Trung chiếm 95%; phía Nam chiếm 5%. Đa số
ngành, nghề, việc làm theo yêu cầu của nước ngoài thường đòi hỏi trình độ không
cao nên phù hợp với khả năng lao động nông thôn Việt Nam như: xây dựng; giày
da, may mặc; giúp việc gia đình, chăm sóc người bệnh hoặc người già yếu, tàn tật;
nông nghiệp; lắp ráp điện tử… Một số quốc gia có nhu cầu ngành, nghề kỹ thuật
cao nhưng chúng ta chưa đáp ứng được.

Kết quả đạt được tuy vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, nhưng nhiều ý kiến cho rằng
con số trên nhiều khi chỉ mang tính “hình thức”. Thực tế, công tác xuất khẩu lao
động vẫn gặp nhiều khó khăn. Đây cũng là chia sẻ chung của nhiều doanh nghiệp.
Phía doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn:
Đánh giá trên bình diện chung, theo ông Nguyễn Xuân Vui, Chủ tịch Hội đồng
Quản trị, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Dịch vụ và Thương mại Hàng không
(Airserco), cho rằng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động đang gặp khó. Có
doanh nghiệp có đơn hàng thì không thể tuyển được lao động. Trong khi đó, không
ít doanh nghiệp không khai thác được đơn hàng, đấy là chưa kể nhiều đơn hàng
gặp rủi ro.
Theo ông Vui, đầu năm 2010, giới xuất khẩu lao động vẫn nhận định Malaysia sẽ
phục hồi và là thị trường tiếp nhận lao động chủ yếu của Việt Nam khi nhu cầu tiếp
nhận lớn, chi phí lao động bỏ ra thấp và không quá đòi hỏi về tay nghề. Thế nhưng,
đi hết năm 2010, cả nước với gần 100 doanh nghiệp khai thác thị trường này, chật
vật lắm cũng chỉ đưa đi được 11 nghìn lao động sang đó làm việc, mà chủ yếu là
chỉ tiêu lao động huyện nghèo theo chương trình của Chính phủ.
Ngoài ra, sự khó khăn của thị trường Trung Đông cũng là một điển hình.
Từ năm 2009, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng xác định Trung Đông
18
là thị trường đóng vai trò trọng điểm, với mục tiêu mỗi năm đưa được khoảng
25.000 người. Tuy nhiên, năm 2010 các doanh nghiệp cũng chỉ đưa được hơn 5
nghìn lao động sang thị trường này.
Nhưng nhiều ý kiến cho rằng đó là số liệu báo cáo, thực tế không hề thuận lợi
như những con số “đẹp đẽ” nói trên.
Một trong những khó khăn được nhìn thấy rõ nhất, nếu làm ăn tốt và thuận lợi,
doanh nghiệp không bao giờ tính đến chuyện chuyển hướng sang lĩnh vực khác.
Thực tế, có không ít doanh nghiệp phải trả lại giấy phép, rút khỏi lĩnh vực đưa
lao động ra nước ngoài làm việc. Nhiều doanh nghiệp đã phải đầu tư thêm vào các
lĩnh vực khác như du lịch, xây dựng, bất động sản
Nhìn chung, tuy năm 2010 XKLĐ đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu, nhưng theo

nhận định của các chuyên gia, lĩnh vực này vẫn đang trong tình trạng khó khăn.
Như thị trường Malaysia được coi là tiềm năng nhất, nhưng năm 2010, gần 100
doanh nghiệp khai thác thị trường này rất nỗ lực cũng chỉ đưa được 11 nghìn lao
động sang làm việc. Tương tự, thị trường Đài Loan dù đang dẫn đầu trong các thị
trường tiếp nhận lao động Việt Nam, nhưng đưa lao động sang Đài Loan cũng
đang trở nên khó khăn hơn khi phí môi giới quá cao. Tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ
trốn đang gia tăng cũng khiến chủ sử dụng Đài Loan lo ngại. Nhật Bản, Hàn Quốc
tuy hấp dẫn bởi thu nhập khá cao nhưng rất “khó tính” và nhu cầu có hạn. Nhật
Bản gần như năm nào cũng chỉ tiếp nhận khoảng gần 5 ngàn lao động Việt Nam,
còn thị trường Hàn Quốc thì ngày càng có những quy định nghiêm ngặt hơn về tay
nghề, khả năng nghe nói tiếng Hàn
NĂM 2011
Dự đoán về xuất khẩu lao động của Việt Nam năm 2011
Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện Việt Nam đã đưa
lao động đi làm việc ở trên hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, tuy nhiên thực tế, số
thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam thường xuyên và đều đặn không quá con
số 10.
Trong số các thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam, nhiều chuyên gia nhận
định chưa thấy một tín hiệu lạc quan nào cho năm 2011.
Cán bộ tạo nguồn của một doanh nghiệp xuất khẩu lao động sang Đài Loan nói,
mặc dù vẫn đang dẫn đầu trong các thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam, nhưng
19
đưa lao động sang Đài Loan cũng đang trở nên khó khăn hơn khi phí môi giới quá
cao. Thực tế cho thấy, lao động trong nước đã không còn mấy “mặn mà” khi phải
bỏ ra 6 đến 7 nghìn USD mà thu nhập chỉ từ 6 đến 7 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, tỷ
lệ lao động Việt Nam bỏ trốn tại Đài Loan đang gia tăng, chủ sử dụng Đài Loan
bắt đầu không “kết” lao động Việt Nam. Đây cũng sẽ là một trong những nguyên
nhân kìm hãm thị trường này vào năm 2011.
Tương tự, đối với thị trường Malaysia, các đơn hàng làm việc trong các nhà máy
ở lĩnh vực điện tử, may… có nhiều với mức lương khá và điều kiện làm việc ổn

định, nhưng vẫn bị người lao động từ chối. Đến cuối năm, số lượng lao động đi thị
trường này vẫn chỉ đạt ở mức 11.000 lao động, trong khi thời kỳ hưng thịnh của
thị trường này, các doanh nghiệp đưa được tới 35.000 lao động/năm.
Nhật Bản, Hàn Quốc là những thị trường hấp dẫn bởi thu nhập khá cao thì nhu
cầu lại có hạn. Thị trường Nhật Bản gần như không có đột phá gì khi năm nào
cũng chỉ tiếp nhận khoảng hơn 4 nghìn lao động.
Trong khi đó, thị trường Hàn Quốc thì ngày càng có những quy định nghiêm ngặt
hơn về tay nghề, về khả năng nghe nói tiếng Hàn Vì thế, không phải lao động
nào cũng dễ dàng có cơ hội sang Hàn Quốc làm việc.
Một điểm sáng khi một số doanh nghiệp khai thác và đưa được lao động sang
Israel với thu nhập lên đến 1.000 USD/tháng. Tuy nhiên, theo giới chuyên môn thì
thị trường Israel khó phát triển rộng và cũng không thể kỳ vọng nhiều vào thị
trường này ở năm 2011 khi nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài hàng năm của
thị trường này thấp.
Mục tiêu đặt ra trong năm 2011:
Việt Nam đề ra chỉ tiêu đưa 87.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nắm bắt
cơ hội và không để tuột mất thị trường thu nhập cao như Mỹ, Australia, Israel,
Nhật Bản, Hàn Quốc và những thị trường có khả năng tiếp nhận nhiều lao động
như Malaysia và Các tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất, năm 2011 này, các ngành
liên quan đến đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tập trung
chuyển từ số lượng sang chất lượng. Sự chuyển đổi này của thị trường lao động
trong nước năm 2011 này đặt ra bài toán cho hoạt động xuất khẩu lao động cần có
những giải pháp thiết thực để tháo gỡ. Đã đến lúc không thể cứ trông chờ vào việc
đưa lao động giản đơn đi làm việc ở nước ngoài, mà việc đào tạo nguồn lao động
chất lượng, am hiểu pháp luật để đáp ứng những tiêu chuẩn của các thị trường thu
nhập cao, tạo vị thế của lao động Việt Nam ở nước ngoài là việc cần được đầu tư
20
ngay. Để giữ thế cạnh tranh, nắm bắt cơ hội và không để bỏ lỡ mất thị trường cho
thu nhập cao, điều cần quan tâm chính là nâng cao chất lượng lao động.
Thực tế xuất khẩu lao động năm 2011

Trong năm 2011, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra nhiều ưu đãi
cho người lao động ra nước ngoài làm việc. Cụ thể:
-Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2011 sẽ được hỗ trợ
tiền học nghề, tiền ăn hàng ngày và tiền đi lại từ nơi cư trú đến nơi học…Mức hỗ
trợ chi phí học nghề ngắn hạn (nếu có), tối đa 3 triệu đồng/người/khóa học (mức
hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học thực tế); hỗ trợ chi phí học ngoại ngữ
tối đa 3 triệu đồng/người/khóa học; hỗ trợ chi phí bồi dưỡng kiến thức cần thiết
cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài mức 532.000 đồng/khóa. Người lao
động còn được hỗ trợ tiền ăn hàng ngày trong thời gian học theo mức 15.000
đồng/người/ngày; tiền đi lại một lượt đi và về cho người lao động từ nơi cư trú đến
nơi học đối với các học viên ở cách địa điểm học trên 15km, tối đa 200.000
đồng/người; hỗ trợ các chi phí làm thủ tục trước khi đi làm việc ở nước ngoài như
hộ chiếu, visa, phí khám sức khỏe, lệ phí lý lịch tư pháp.
-Bộ LĐTB&XH cũng yêu cầu các Sở LĐTB&XH căn cứ hợp đồng đặt hàng đào
tạo và danh sách người lao động tham gia đào tạo chuyển kinh phí cho doanh
nghiệp để thanh toán học phí đào tạo và chi hỗ trợ cho người lao động. Các Sở
LĐTB&XH hướng dẫn UBND các xã, phường, thị trấn lựa chọn và lập danh sách
người lao động thuộc đối tượng hỗ trợ có nguyện vọng và đủ điều kiện đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng…
Trong nhiều năm qua, lao động Việt Nam đã được xuất khẩu ra khá nhiều nước
trên thế giới. Cho dù kinh tế thế giới trong gia đoạn khó khăn nhưng trong năm
2011 , cả nước đã đưa được 88.298 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt
101,15% so với kế hoạch, tăng 2,9% so với năm 2010, đạt 101,5% so với chỉ tiêu
mà Chính phủ giao.
Có thể nói năm 2011 đã đi qua, với xuất khẩu lao động Việt Nam nói riêng, các
nước có xuất khẩu lao động nói chung đều bị ảnh hưởng bởi những diến biến phức
tạp về bất ổn về chính trị ở Bắc Phi, Trung Đông; thảm họa về động đất, sóng thần
ở Nhật Bản; hậu khủng hoảng, suy thoái về kinh tế vẫn còn có những bất lợi hiện
hữu về việc làm, tạo chỗ việc làm mới.
Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước Nguyễn Ngọc Quỳnh cho biết:

Mặc dù trải qua một năm liên tục đối mặt khó khăn và các sự cố lớn như hơn
10.000 lao động Việt Nam làm việc tại Libya phải về nước trước thời hạn, di tản
21
các tu nghiệp sinh sau vụ sóng thần gây ảnh hưởng tới nhà máy điện hạt nhân tại
Nhật Bản, kinh tế thế giới suy giảm nhưng trong năm 2011, chương trình XKLĐ
của cả nước vẫn đạt chỉ tiêu.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng về số lượng tại các thị trường rất khác nhau, chủ yếu
vẫn tăng mạnh ở một số thị trường truyền thống như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Malaysia Cụ thể: lao động của ta đi làm việc tại Đài Loan khoảng 38.796
người tăng 36,8%; Nhật Bản gần 6.985 người tăng 42,3%; Hàn Quốc 15.214 người
tăng 73,8% Tính riêng trong 7 tháng đầu năm 2011, đã đưa được 54.532 người đi
làm việc ở nước ngoài (17.933 là lao động nữ), đạt 62,5% kế hoạch đề ra (87.000
lao động), tăng gần 24% so với cùng kỳ năm 2010.
Sở dĩ năm 2011 ta đạt được những thành quả đáng kể trên là vì có sự quan tâm
chỉ đạo chặt chẽ của Chính phủ, các Bộ Ngành và địa phương trong việc triển khai
thực hiện quyết liệt đồng bộ hệ thống các giải pháp nhằm ổn định và phát triển thị
trường, quản lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động; đồng thời chủ
động xử lý các vi phạm của lao động làm việc ở nước ngoài; nhanh nhạy đưa lao
động về nước khi có chiến sự xảy ra. Đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực cạnh
tranh của lao động nước ta.
Các vấn đề còn tồn tại và một số giải pháp:
Lao động Việt Nam ở nước ngoài vẫn còn gặp nhiều khó khăn như tay nghề hạn
chế, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ, ít hiểu biết về pháp luật, khả năng thích
nghi với văn hóa nước bạn. Việc một số lao động tìm cách trốn ở lại sau khi hết
hợp đồng, vi phạm pháp luật, tác phong làm việc chưa tốt cũng là một điều mà làm
nhiều người bản địa và người sử dụng lao động mất thiện cảm với lao động Việt
Nam. Đối với những ngành nghề có thu nhập cao mà thị trường đang cần như các
ngành công nghệ cao, khách sạn, nhà hàng, với yêu cầu về chuyên môn cũng như
ngoại ngữ khá cao thì lao động của Việt Nam chỉ đáp ứng được rất ít. Trong thời
gian tới, Cục quản lý lao động ngoài nước, doanh nghiệp và các trường cần đẩy

mạnh đào tạo nghề theo cơ chế đấu thầu, để đào tạo đúng địa chỉ, cấp kinh phí
đúng nơi, tập trung vào các nghề công nghệ cao như đốc công, điều dưỡng viên.
Tuy nhiên, trước mắt vẫn chưa thể bỏ qua việc tuyển chọn một bộ phận lao động
chưa có tay nghề, hoặc trình độ nghề thấp đáp ứng yêu cầu của thị trường cấp thấp
và nguyện vọng của người lao động, đồng thời, tiếp tục đàm phán mở rộng thị
trường xuất khẩu lao động.
NĂM 2012
22
Hiện trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam năm 2012
1. Tình hình thế giới: kinh tế thế giới hiện đang hồi phục nhưng vẫn diễn biến
khó lường, tình hình chính trị bất ổn tại các quốc gia ở khu vực Trung Đông và
Bắc Phi, cũng như ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công ở một số quốc gia châu
Âu dẫn đến việc thị trường lao động quốc tế bị thu hẹp, sụt giảm, sự cạnh tranh
giữa các quốc gia cung ứng lao động vốn đã rất gay gắt, càng trở nên khó khăn hơn
trong năm 2012 và ảnh hưởng đến việc phát triển các thị trường mới của Việt Nam.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu lao động của ta cũng có một số thuận lợi nhất
định: nền kinh tế của những thị trường truyền thống tiếp nhận nhiều lao động Việt
Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia… vẫn tăng trưởng và vẫn có
nhu cầu cao trong việc tiếp nhận lao động nước ngoài, trong đó, có lao động Việt
Nam tại các nước này vẫn tăng, việc ký thỏa thuận quốc gia về tiếp nhận y tá và hộ
lý Việt Nam của Nhật Bản đã mở ra một cơ hội mới cho lao động Việt Nam được
sang làm việc tại thị trường này trong ngành nghề có thu nhập cao và khá được coi
trọng.
Trọng tâm năm 2012 là tập trung nâng cao chất lượng nguồn lao động, thực hiện
các giải pháp để khai thác tối đa nhu cầu lao động tại các thị trường đang phục hồi,
đặc biệt là đẩy mạnh khai thác nhu cầu lao động trong các lĩnh vực và các nghề
trước đây chưa quan tâm khai thác do thiếu nguồn lao động như các nghề đòi hỏi
trình độ cao, các nghề trong lĩnh vực dịch vụ
Tiếp tục tập trung khai thác các thị trường truyền thống đang nhận lao động Việt
Nam với số lượng lớn như các nước khu vực Trung Đông, Đài Loan, Malaysia,

Nhật Bản và Hàn Quốc. Đồng thời mở các thị trường mới phù hợp với lao động
Việt Nam như Australia, New Zealand, Canada và một số nước ở Châu Âu như
Phần Lan, Thụy Điển
2.Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam năm 2012
a) Tình hình chung:
Trước những tín hiệu khả quan của các thị trường, trong năm 2012 Việt Nam
đặt mục tiêu đưa 90.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài nhưng ngành xuất khẩu
lao động nước ta không đạt chỉ tiêu Chính phủ đề ra.Chính phủ cũng đã thực hiện
các giải pháp để khai thác tối đa nhu cầu lao động tại các thị trường đang phục hồi,
đặc biệt là đẩy mạnh khai thác nhu cầu lao động trong các lĩnh vực và các nghề
trước đây ta chưa quan tâm khai thác do thiếu nguồn lao động như các nghề đòi hỏi
trình độ cao, các nghề trong lĩnh vực dịch vụ… Đó là các thị trường truyền thống
đã và đang nhận lao động Việt Nam với số lượng lớn như các nước khu vực Trung
Đông, Đài Loan, Ma-lai-xi-a, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đồng thời mở các thị trường
mới phù hợp với lao động Việt Nam như Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Ca-na-đa, cũng
như các hợp đồng nhận thời vụ tại các nước châu Âu như Phần Lan, Thụy Điển…
23
Trong đó sẽ ưu tiên những lao động là người nghèo ở các huyện nghèo và các đối
tượng chính sách.
Trong năm 2012, cả nước chỉ đưa được khoảng 80.000 lao động đi làm việc ở
nước ngoài, đạt 90% kế hoạch năm. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ LĐ-TB&XH
thì đây cũng là kết quả tích cực trong điều kiện kinh tế thế giới khôi phục chậm, tỷ
lệ thất nghiệp ở các nước tiếp nhận lao động tăng cao. Các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động tuy gặp nhiều khó khăn nhưng đã chủ động cơ cấu lại hoạt động; cơ cấu
lại thị trường, tập trung vào các thị trường có thế mạnh; thực hiện tốt hơn công tác
đào tạo người lao động đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt trong bồi dưỡng kiến
thức về ngoại ngữ, phong tục, tập quán, pháp luật liên quan của các nước tiếp nhận
lao động; liên kết với các cơ sở dạy nghề để đào tạo lao động đáp ứng nhu cầu của
thị trường…
Theo số liệu thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tổng số lao động

đi làm việc ở nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2012 là 40.115 lao động, bằng
86,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, thị trường Đài Loan 14.005 lao động,
Hàn Quốc 7.561 lao động, Nhật Bản 3.982 lao động… Theo đó, số lượng lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài 06 tháng đầu năm 2012 giảm 6.248 người so
với cùng kỳ năm 2011.
6 tháng cuối năm các thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam đang lâm vào
tình trạng đóng băng, nhất là các thị trường cho thu nhập cao như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan. Cùng với đó là hàng loạt doanh nghiệp xuất khẩu lao động rơi
vào tình cảnh “chết lâm sàng”.
Tính chung cho 11 tháng đầu năm 2012 có 72845 lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài, đạt 81% kế hoạch cả năm. Riêng trong tháng 11, các doanh nghiệp
đã cung ứng 7332 lao động, tăng 3.03$ so với tháng trước đó
Hiện nay, các thị trường lao động ở châu Á, gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, lãnh thổ
Đài Loan, Malaysia vẫn là các thị trường truyền thống của Việt Nam. Tổng số lao
động Việt Nam đang làm việc tại 4 thị trường này trên 200.000 người, chiếm 40%
tổng số lao động Việt Nam đang làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới.
b) Tình hình tại 1 số thị trường lớn:
24
-Tại thị trường Đài Loan và Hàn Quốc, số lượng đi năm 2012 thấp hơn số cùng
kỳ năm 2011 lần lượt là 3.507 người, 3.625 người. Tuy nhiên, ngay những thị
trường quen thuộc này cũng đang gặp những khó khăn, do chính từ người lao động
và doanh nghiệp tạo ra như tình trạng lao động bỏ trốn tại Hàn Quốc hoặc vấn đề
loạn phí trong nước của các doanh nghiệp tuyển dụng lao động đi Đài Loan làm
việc. Phần lớn NLĐ đi XKLĐ là lao động phổ thông, trình độ thấp nên dễ bị "cò”
dụ giỗ đi XKLĐ theo con đường chui, vì vậy cơ quan quản lý rất khó kiểm soát.
Đơn cử như ở thị trường Nga. Tại thị trường Hàn Quốc trong tổng số hơn 60.000
lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc thì có gần 9.000 người đang cư trú
bất hợp pháp.


Riêng thị trường Hàn Quốc, năm 2012 cũng dành cho Việt Nam nhiều ưu đãi.
Theo đó, năm 2012, chỉ tiêu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc là 15.000 người.
Trong đó, ngành sản xuất chế tạo là 11.700 người, xây dựng là 1.000 người, nông
nghiệp là 1.000 người, ngư nghiệp là 1.300 người. Số lao động này đã hoàn tất kỳ
kiểm tra tiếng Hàn và đang chờ ngày xuất cảnh. Năm nay, lao động đăng ký dự
tuyển đi làm việc trong ngành nông nghiệp sẽ được ưu tiên chọn trước. Tuy nhiên
tỷ lệ bỏ trốn của lao động Việt Nam vẫn không ngừng tăng đang gây nhiều bất lợi.
Số lượng người lao động nước ngoài, đặc biệt là lao động Việt Nam cư trú bất hợp
pháp tại quốc gia này đang ở mức cao (trong tổng số trên 60.000 lao động Việt
Nam hiện đang làm việc, có gần 8.800 người đang cư trú bất hợp pháp, đứng đầu
về số lượng so với các quốc gia phái cử). Bộ trưởng Lao động Hàn Quốc đã chính
thức có văn bản gửi Bộ trưởng LĐ-TB&XH Việt Nam thông báo việc dừng tiếp
nhận lao động Việt Nam. Đây là quyết định, đã được phía Hàn Quốc cảnh báo từ
lâu, do tình trạng lao động bất hợp pháp của Việt Nam tại Hàn Quốc gia tăng,
trong khi phía Việt Nam không có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.
Tình trạng người lao động Việt Nam không về nước sau khi hết hạn hợp đồng
lao động mà ở lại làm việc và cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc. Từ năm 2012 , tỷ
lệ lao động Việt Nam hết hạn hợp đồng không về nước chiếm khoảng 50% tổng số
lao động phải về nước vì hết hạn hợp đồng., trong khi tỷ lệ này tính bình quân cho
tất cả các nước cung ứng lao động sang Hàn Quốc là 21%. Chính vì vậy, vừa qua
Hàn Quốc đã đề nghị Bộ Lao động – Thương Binh Xã Hội tạm thời chưa ký kết
gia hạn bản Ghi nhớ về hợp tác lao động đã hết hạn vào tháng 9/2012 để hai bên
phối hợp các biện pháp nhằm giảm tỷ lệ lao động Việt Nam hết hạn hợp đồng
nhưng không về nước. Trong thời gian chưa ký kết gia hạn thỏa thuận, phía Hàn
Quốc tạm thời chưa giới thiệu lao động mới cho người sử dụng lao động Hàn Quốc
lựa chọn.
25

×