Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

(Luận án tiến sĩ) Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 204 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--o0o--

NGUYỄN TUẤN HẢI

QUẢN LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT
VỀ PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2022


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--o0o--

NGUYỄN TUẤN HẢI

QUẢN LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT
VỀ PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9380107

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ



HÀ NỘI – 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và
chưa từng để bảo vệ ở bất kỳ học vị nào. Các số liệu, tư liệu của người khác
được tham khảo trong luận án được trích dẫn trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU............................. 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................ 8
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................ 20
1.3. Cơ sở lý thuyết của nghiên cứu........................................................ 23
Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 29
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN
PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN ........... 30
2.1. Những vấn đề lý luận về quản lý tài sản phá sản............................. 30
2.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý tài sản phá sản ............. 51
Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 78
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .......................................................................................... 79
3.1. Sơ lược tình hình phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay ....... 79
3.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quản
lý tài sản phá sản ..................................................................................... 82

3.3. Đánh giá nguyên nhân của những bất cập, hạn chế ....................... 142
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 147
Chương 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI
SẢN PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM ................................................................... 149
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản ở
Việt Nam ............................................................................................... 149
4.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản phá
sản ở Việt Nam...................................................................................... 156


4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý tài
sản phá sản ............................................................................................ 168
Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 173
KẾT LUẬN .................................................................................................. 175
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 177
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................. 186


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự

CP

: Chính phủ

HNCN


: Hội nghị chủ nợ

LPS

: Luật Phá sản

TSPS

: Tài sản phá sản

OECD

: Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế

QTV

: Quản tài viên

UNCITRAL : Ủy ban Liên hiệp quốc về LuẬT Thương mại Quốc tế
WB

: Ngân hàng thế giới


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Số lượng vụ việc phá sản qua các năm ........................................... 79
Bảng 3.2. Quy định về xác định tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán ................................................................................................ 83
Bảng 3.3. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời.................................................. 139



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phá sản là một hiện tượng khách quan của nền kinh tế bởi nó là kết quả
của q trình cạnh tranh trong một nền kinh tế thị trường. Dưới tác động của
quy luật cạnh tranh, tích tụ tư bản xảy ra dẫn đến một số doanh nghiệp mạnh
dần và chiếm lĩnh thị trường, và trái ngược với q trình đó thì một số doanh
nghiệp lại yếu đi, sản xuất bị ngưng trệ, không có khả năng chi trả các nghĩa
vụ và lâm vào tình trạng phá sản. Ngun nhân của phá sản có thể là khách
quan hoặc chủ quan nhưng hiện tượng phá sản bao giờ cũng kéo theo những
hậu quả kinh tế - xã hội nhất định. Bên cạnh những tác động tích cực như là
một giải pháp hữu hiệu để tái cơ cấu nền kinh tế, chọn lọc thị trường, đào thải
tự nhiên của nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của các doanh nghiệp đủ
sức đứng vững trên thị trường, phá sản còn gây ra một số hậu quả bất lợi như
ảnh hưởng đến phát triển sản xuất, việc làm và thu nhập của người lao động.
Nó địi hỏi q trình phá sản phải được thực hiện theo những trình tự, thủ tục
nhất định và được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích của các bên liên quan.
Quản lý tài sản phá sản là một giai đoạn trong quá trình phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã; là một trong những nội dung quan trọng mà pháp luật phá
sản của các quốc gia trên thế giới luôn quan tâm. Quản lý tài sản phá sản có
một vai trị quan trọng trong việc bảo toàn tài sản phá sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản, đảm bảo các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp
trong quá trình xử lý doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong quá
trình giải quyết tình trạng phá sản của doanh nghiệp, quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên liên quan sẽ gắn liền mật thiết với quá trình quản lý tài sản phá
sản. Do đó, một hệ thống quy định pháp luật rõ ràng về quá trình quản lý tài
sản phá sản, về quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan đến quá trình quản
lý tài sản phá sản là vô cùng cần thiết.


1


Ở Việt Nam, pháp luật phá sản nói chung và các quy định về quản lý tài
sản phá sản nói riêng đã được ghi nhận ngay từ khi Việt Nam chuyển đổi nền
kinh tế. Từ Luật phá sản doanh nghiệp 1993, Luật phá sản 2004 và hiện nay là
Luật Phá sản 2014 đã có những quy định pháp luật liên quan đến quản lý tài sản
phá sản như các quy định về chủ thể quản lý tài sản phá sản, các trình tự, thủ tục
để các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của minh, trình tự, thủ tục các biện
pháp quản lý tài sản phá sản đến các quy định xác định phạm vi tài sản phá sản.
Có thể thấy, các quy định về quản lý tài sản phá sản có xu hướng ngày càng rõ
ràng, cụ thể hơn phù hợp với các thông lệ quốc tế cũng như những đòi hỏi thực
tiễn của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy, quản lý
tài sản phá sản vẫn chưa được coi trọng đúng mức, các quy định về quản lý tài
sản phá sản cịn thiếu hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn cho q trình thực thi;
năng lực hành nghề, tính chun nghiệp của quản tài viên trong quá trình quản lý
tài sản phá sản còn nhiều hạn chế, đặc biệt đặt trong bối cảnh hoạt động sản xuất,
kinh doanh; chế độ kế tốn, tài chính trong doanh nghiệp ở Việt Nam cịn nhiều
hạn chế. Điều này dẫn đến một thực tế là các doanh nghiệp có xu hướng yêu cầu
mở thủ tục phá sản khi tài sản cịn lại gần như khơng có khả năng để thanh tốn
các khoản nợ hoặc các tài sản có giá trị đã được tẩu tán trước khi doanh nghiệp
đưa ra yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Vì vậy, để hạn chế những hành vi tẩu tán tài sản, bảo toàn tài sản của con
nợ theo một trật tự nhất định để làm cơ sở cho việc thực hiện thủ tục phá sản,
việc nghiên cứu “Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt
Nam hiện nay” là thực sự cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung: Mục đích chung của luận án là đưa ra các quan điểm,
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

quản lý tài sản phá sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở phân

2


tích, làm rõ phương diện lý luận và thực tiễn các vấn đề về quản lý tài sản phá
sản ở Việt nam và kinh nghiệm của một số quốc gia.
Mục tiêu cụ thể: Để thực hiện được mục tiêu chung, Luận án cần thực
hiện được các mục tiêu cụ thể sau:
- Luận án phải đánh giá được những cơng trình nghiên cứu trong và
ngồi nước có liên quan đến quản lý tài sản phá sản, xác định được câu hỏi
nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
- Luận án phải hình thành được khái niệm về quản lý tài sản phá sản,
cấu trúc nội dung, vai trò của pháp luật về quản lý tài sản phá sản;
- Luận án phải rà sốt, phân tích ưu điểm, hạn chế của pháp luật về
quản lý tài sản phá sản ở Việt Nam hiện nay
- Luận án phải đề xuất được các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản ở
Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài được xác định cụ thể như sau:
- Khảo cứu các cơng trình nghiên cứu cơng và ngoài nước về đề tài
nghiên cứu, chỉ ra được những kết quả cần kế thừa phát triển và những nội
dung mới luận án cần giải quyết
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề lý luận về pháp luật về quản lý tài sản phá
sản, gồm các nội dung về khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về quản lý tài
sản phá sản; tìm hiểu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về quản lý tài sản phá sản
ở một số quốc gia và rút ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Rà sốt, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng

pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp ở Việt Nam thời gian qua;
- Trên cơ sở phân tích hạn chế, bất cập trong pháp luật về quản lý tài sản
phá sản để đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về quản lý tài sản phá sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
3


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các tài liệu, văn bản pháp
luật về quản lý tài sản phá sản; các cơng trình khoa học, báo cáo, tài liệu tổng
kết đánh giá về quản lý tài sản phá sản; thực tiễn thực hiện pháp luật về quản
lý tài sản phá sản của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận án này, về nội dung, tác giả tập trung nghiên cứu chủ yếu
các vấn đề lý luận; thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật; và
quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý tài
sản phá sản ở Việt Nam hiện nay.
Về thời gian, đề tài luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu trong giai
đoạn từ năm 1993 (khi Luật Phá sản doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam
được ban hành) cho đến nay.
Về không gian, ngồi Việt Nam, đề tài luận án cịn tìm hiểu, so sánh,
trích dẫn và liệt kê pháp luật về vấn đề này của một số quốc gia như: Đức,
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Nga và Trung Quốc.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác
Lê-nin (khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, phát triển, thực tiễn); tư tưởng
Hồ Chí Minh; Đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp
luật của Nhà nước về hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường năng

động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường kinh doanh cạnh
tranh lành mạnh, công khai, minh bạch; các chính sách cải cách pháp luật, đổi
mới, hội nhập trong giai đoạn hiện nay và giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, để
tạo sự phong phú trong cách tiếp cận và giải quyết vấn đề, một số quan điểm
về quản lý tài sản phá sản của một số quốc gia trên thế giới, các tổ chức quốc
tế cũng sẽ được tham khảo.

4


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra trong từng chương của Luận
án, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tư liệu, phương pháp luật học so
sánh, phương pháp tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành khoa học xã hội
và nhân văn được sử dụng chủ yếu trong Chương 1 và Chương 2 nhằm làm
sáng tỏ tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án,
những vấn đề lý luận chung về quản lý tài sản phá sản và định hình cơ sở lý
luận cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, tiếp cận liên ngành (lịch
sử, chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế) và phân tích pháp lý q trình quản lý
tài sản ở doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, những vấn đề nảy sinh
trong thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp phá sản
tại Chương 3.
- Phương pháp phân tích và dự báo khoa học, phương pháp tiếp cận
liên ngành được sử dụng chủ yếu trong việc xác định quan điểm, mục tiêu, đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp phá
sản tại Chương 4. Bên cạnh đó phương pháp luật học so sánh, phương pháp
phân tích kinh tế luật được sử dụng rộng rãi trong cơng trình nghiên cứu này
cùng những kết quả nghiên cứu thu được cũng được tác giả kế thừa, phát triển

trong quá trình giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, đặc biệt trong việc
khuyến nghị điều chỉnh pháp luật về quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp
ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được vận dụng như là một trong phương pháp
quan trọng của luận án bởi vì mặc dù đã hơn 15 năm kể từ khi Luật Phá Sản
Doanh Nghiệp 1993 ra đời, nhưng pháp luật về phá sản nói chung và quản lý
tài sản trong thủ tục phá sản nói riêng vẫn cịn là lĩnh vực nghiên cứu tương
đối mới mẻ ở Việt Nam, khi cho đến nay chúng ta vẫn chưa có nhiều kinh

5


nghiệm điều chỉnh pháp luật về lĩnh vực này. Phương pháp so sánh cho phép
chúng ta tìm hiểu quan điểm tiếp cận của pháp luật về phá sản nói chung và
quản lý tài sản trong thủ tục phá sản nói riêng từ thực tiễn điều chỉnh pháp
luật của nước ngoài.
5. Những đóng góp mới về lý luận khoa học của luận án
Quản lý tài sản phá sản là vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn.
Bởi vậy, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật
về quản lý tài sản của các doanh nghiệp phá sản ở Việt Nam hiện nay, Luận
án này đóng góp một số nhận thức mới như sau:
- Luận án làm rõ hơn các vấn đề lý luận có liên quan đến quản lý tài sản
phá sản với quan niệm quản lý tài sản phá sản là một trong số các hoạt động
của tố tụng phá sản. Nó vừa mang tính tư pháp nhưng lại vừa mang tính quản
trị thương mại chun nghiệp. Do đó, nó luôn được thực hiện bởi các chủ thể
nhất định và theo trình tự, pháp lý cụ thể trong đó nó thể hiện các mối quan hệ
đan xen giữa các chủ thể có liên quan đến một đối tượng chung là khối tài sản
phá sản được xác định dựa trên những nguyên tắc nhất định
- Luận án cung cấp kết quả rà soát các quy định pháp luật hiện hành về
quản lý tài sản phá sản và đưa ra một số nhận định, đánh giá về sự đầy đủ,

thống nhất của hệ thống quy định pháp luật.
- Luận án cung cấp một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật về quản lý tài sản phá sản cũng như cơ chế thực thi pháp
luật theo hướng điều hòa, cân bằng mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan
trong hoạt động quản lý tài sản phá sản nhằm mục tiêu bảo vệ quyền lợi của
các chủ nợ cũng như doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần khơng nhỏ vào việc hoàn
thiện pháp luật về quản lý tài sản của doanh nghiệp phá sản ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, Luận án cũng có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu cho các nhà lập

6


pháp và thực thi pháp luật về phá sản doanh nghiệp; là tài liệu tham khảo cho
các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy về pháp luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án được kết cấu gồm 04 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về quản lý tài sản phá sản và pháp luật
về quản lý tài sản phá sản
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
quản lý tài sản phá sản ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý tài sản phá sản ở
Việt Nam

7



Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là một lĩnh
vực quan trọng của pháp luật thương mại, trong đó có các nội dung về quản lý
tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong suốt quá
trình diễn ra thủ tục phá sản. Trên thực tế, tổng quan tài liệu nghiên cứu cho
thấy quản lý tài sản phá sản đã được đề cập và nghiên cứu ở nhiều nội dung
và góc độ khác nhau.
1.1.1. Các nghiên cứu về tài sản phá sản và quản lý tài sản phá sản
Xác định tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh tốn có một ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý tài sản bởi nó là căn cứ
quan trọng để xác định một doanh nghiệp có khả năng thanh tốn hay khơng.
Mặt khác, nó chi phối việc lựa chọn thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết
phá sản và áp dụng các biện pháp bảo tồn tài sản có ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích của các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ.
Về lý thuyết, tài sản phá sản trong Hướng dẫn của Hội nghị về Thương
mại và Phát triển Liên hợp quốc “Legislative Guide on Insolvency”
(UNCTAD) được sử dụng dưới thuật ngữ Bankruptcy Estate hoặc Insolvency
Estate. Theo đó, trong các thủ tục liên quan đến quản lý tài sản phá sản nói
chung thì cơng việc đầu tiên và có vai trị quan trọng là phải xác định được
phạm vi của tài sản phá sản, những nguyên tắc xác định tài sản phá sản và các
trình tự, thủ tục, phương thức để xác định tài sản phá sản. Tài liệu cũng chỉ rõ
cách hiểu về khái niệm “estate” trong trình tự, thủ tục phá sản của doanh
nghiệp. Nó được dùng để chỉ các tài sản của con nợ chịu kiểm soát chặt chẽ
bởi các trình tự, quy trình phá sản. Tuy nhiên, ở các nước cách ghi nhận pháp
lý không phải giống nhau. Một số nước thì pháp luật phá sản sẽ chuyển giao

8



quyền sở hữu cho một số chủ thể khác (ví dụ quản tài viên), tuy nhiên, ở một
số nước thì con nợ vẫn có quyền sở hữu đối với tài sản phá sản, tuy nhiên
quyền đó chịu sự kiểm sốt và bị giới hạn. Tài liệu này cũng đòi hỏi một
trong những yêu cầu đặt ra đối với luật phá sản đó là phải xác định rõ các loại
tài sản nào của con nợ chịu rằng buộc bởi các trình tự, thủ tục phá sản, và chỉ
rõ là các chủ thể có ảnh hưởng thế nào tới quy trình trình này. Trong đó, nó
bao gồm cả các thẩm quyền có liên quan của các chủ thể khác nhau thể hiện
trong các quyết định đó liên quan đến các tài sản được sở hữu bởi bên thứ ba,
các tài sản ở nước ngoài.
Tài liệu “Principles for effective Insolvency and Creditor/Debtor
regimes” của World Bank năm 2016 cũng đề cập đến quá trình thu thập, kiểm
kê, bảo quản, quản lý và thanh lý tài sản phá sản. Các tài sản phá sản bao gồm
toàn bộ tài sản của con nợ, bao gồm tài sản có trước và sau thời điểm tuyên bố
phá sản. Phạm vi xác định tài sản phá sản phải được giới hạn chặt chẽ và quy
định rõ ràng trong đạo luật về phá sản. Các biện pháp kiểm kê, bảo quản,
quản lý tài sản ngay sau khi bắt đầu thủ tục phá sản sẽ được áp dụng một cách
nhanh chóng, minh bạch, linh động để đảm bảo tối đa hóa lợi ích có được từ
các tài sản phá sản.
Ở trong nước, các nghiên cứu về tài sản phá sản phải kể đến các công bố
như bài viết “Bàn về nguyên tắc và cách thức xác định tài sản phá sản theo
pháp luật phá sản Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Hồng Vân đăng tải tại Tạp
chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao số 3/2007. Bài viết đã trên cơ sở
phân tích các quy định của Luật Phá sản năm 2004 để bàn luận về nguyên tắc
và cách thức xác định tài sản phá sản. Bài viết cũng chỉ ra các ưu điểm, nhược
điểm của cách quy định của Luật Phá sản 2004.
Luận án “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật
phá sản Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Hồng Vân năm 2008 còn phân biệt tài
sản với sản nghiệp. Theo đó, sản nghiệp là những gì cịn lại của khối tài sản


9


có sau khi trừ đi giá trị của các nghĩa vụ tài sản. Nếu tài sản ròng là một con
số dương thì có nghĩa là sản nghiệp có khả năng thanh tốn, nếu là con số âm
thì sản nghiệp khơng có khả năng thanh tốn. Sản nghiệp với ý nghĩa của nó
là một tập hợp các tài sản có và tài sản nợ, là một tổng thể các quan hệ pháp
luật về tài sản chứ không phải đơn giản chỉ là một bộ sưu tập đồ vật. Nói cách
khác, thuật ngữ sản nghiệp cũng phân biệt với khái niệm tài sản nói chung.
Trên cơ sở đó, đề tài cũng đưa ra khái niệm tài sản phá sản là khối sản nghiệp
của doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ những tài sản cố và tài sản nợ của doanh
nghiệp từ thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời
điểm Tịa án ra quyết định hồn tất việc giải quyết vụ phá sản. Nghiên cứu
cũng phân biệt quản lý tài sản phá sản và thanh lý tài sản phá sản mặc dù giữa
chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên giữa chúng cũng có
những sự khác biệt nhất định.
Bài viết “Hồn thiện chế định quản tài viên trong Luật Phá sản” của tác
giả Đặng Văn Huy Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 tháng 10/2018 cũng đề
cập đến khái niệm sản nghiệp, theo đó, sản nghiệp là thuật ngữ pháp lý chỉ
tổng thể quyền và nghĩa vụ về tài sản nằm trong nhân cách pháp lý của thể
nhân, pháp nhân mà bao gồm phần tích sản và phần tiêu sản. Do đó, tài sản
phá sản khơng chỉ gồm các tài sản có của con nợ mà còn bao gồm cả các tài
sản nợ của con nợ.
1.1.2. Các nghiên cứu về chủ thể quản lý tài sản phá sản
Có thể thấy, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
tốn, các nghiên cứu cho thấy, quá trình quản lý tài sản phá sản có sự tham
gia của các chủ thể gồm tòa án (thẩm phán), các chủ nợ và người quản lý tài
sản, trong đó có vị trí trung tâm trong quá trình quản lý tài sản phá sản là
người quản lý tài sản phá sản.
Pháp luật phá sản ở các nước khi nói về người có trách nhiệm quản trị

quá trình diễn ra thủ tục phá sản bằng nhiều thuật ngữ như “trustees” hoặc

10


“Administer”,

“Liquidators”,

“supervisors”,

“receivers”,

“curators”,

“commissioner”. Các thuật ngữ này được sử dụng để chỉ một loạt chức năng
khác nhau của quá trình quản trị thủ tục phá sản. Trong tài liệu “Legislative
Guide on Insolvency” của UNCTAD năm 2004 tại Chương III đề cập đến
từng chủ thể tham gia vào các trình tự, thủ tục phá sản, trong đó có giai đoạn
quản lý tài sản phá sản. Các chủ thể này gồm con nợ (debtor), chủ nợ
(Creditors) và người đại diện phá sản (insolvency representative). Tài liệu này
cũng khẳng định chủ thể quản trị thủ tục phá sản nói chung có vai trị trung
tâm để quyết định sự hiệu lực, hiệu quả của pháp luật phá sản với những thẩm
quyền cụ thể đối với con nợ và tài sản của họ cũng như nghĩa vụ bảo vệ các
tài sản và lợi ích của các chủ nợ, người lao động. Chủ thể quản trị thủ tục phá
sản địi hỏi phải có những trình độ, chun mơn nhất định để đảm bảo tính
hiệu quả của việc thực hiện thủ tục phá sản. Tài liệu này cũng đề cập đến các
quyền và nghĩa vụ cụ thể của người quản trị thủ tục phá sản, trong đó có các
quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến quản lý tài sản phá sản. Nhìn chung,
tài liệu đã đưa ra một khung lý thuyết về người quản lý tài sản phá sản tương

đối đầy đủ, tuy nhiên, chức năng cụ thể có thể khác nhau trong pháp luật thực
định ở từng quốc gia.
Ở Việt Nam, chủ thể quản lý tài sản phá sản cũng được các nhà nghiên
cứu trong nước chú ý, đặc biệt là sau khi Luật Phá sản 2014 được ban hành
thay thế cho Luật Phá sản 2004. Các nghiên cứu giai đoạn này chủ yếu tập
trung vào đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về quản trị viên và các
chủ thể khác có liên quan trong quá trình quản lý tài sản phá sản. Phần lớn các
nghiên cứu đề cập đến khía cạnh thực tiễn của các quy định pháp luật về chủ
thể quản lý tài sản phá sản, so sánh những điểm mới của Luật Phá sản 2014.
Một số cơng trình điển hình như bài viết “Quản tài viên trong luật phá
sản các nước - kinh nghiệm cho Việt Nam” của tác giả Dương Kim Thế
Ngun tại Tạp chí Tịa án nhân dân kỳ II, tháng 03 - 2014 (số 06); Bài viết

11


“Quy định về “Người quản lý” trong luật phá sản Trung Quốc và một số gợi
mở đối với Việt Nam” của tác giả Dương Hương Sơn, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, kỳ 12 (320)/2014; đề tài luận văn “Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý tài sản theo quy định của Luật phá sản năm 2014” của tác giả Phạm
Thị Lệ Hằng, Trường Đại học Luật Hà Nội; Bài viết “Thực tiễn và những
vướng mắc của Quản tài viên trong quá trình hành nghề” của tác giả Quản
Văn Minh, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 10 (295) - 2016; Bài viết “Vấn đề
bất cập về Quản tài viên theo pháp luật hiện hành” của tác giả Phạm Thị
Huyền, Tạp chí Luật học số 2/2016; bài viết “Hồn thiện chế định quản tài
viên trong Luật phá sản” của tác giả Đặng Văn Huy, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 20(372) tháng 10/2018; Bài viết “Một số ý kiến về quy chế pháp lý
của quản tài viên theo Luật phá sản năm 2014” của tác giả Đặng Văn Huy,
Tạp chí Xây dựng pháp luật số 11 (320) 2018; Bài viết “Chủ thể quản lý,
thanh lý tài sản trong pháp luật phá sản Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị

Thanh Ngọc, Tạp chí Cơng thương số 2 tháng 2/2020; Bài viết “Hoàn thiện
chế định quản tài viên theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Tuấn Hải, Tạp chí Nghề luật số 05/2020; Bài viết “Hồn thiện chế
định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong giai đoạn thi
hành quyết định tuyên bố phá sản” của tác giả Hồ Quân Chính, Tạp chí Nghề
luật số 11/2020; Bài viết “Quy chế quản tài viên trong so sánh với Luật Phá
sản của Trung Quốc và Singapore” của tác giả Đào Thị Thu Hằng, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 14 (414) tháng 7/2020; Bài viết “Vai trò của quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán” của các tác giả Nguyễn Thị Thanh Ngọc, Đỗ Thị
Bơng, Nguyễn Trường Tam, Tạp chí Cơng thương số 14 – tháng 6/2020.
Luận án “Quy chế pháp lý về quản tài viên ở Việt Nam” của tác giả Đặng
Văn Huy (2020) cung cấp một số kiến nghị cụ thể và có ý nghĩa trong việc xây
dựng một mơ hình quản tài viên trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay. Tác giả

12


kiến nghị việc giảm vai trò của tòa án, tăng cường hiệu lực của chế định Hội
nghị chủ nợ, chỉnh sửa lại vai trò của cơ quan thi hành án dân sự. Đồng thời,
nghiên cứu cũng xây dựng được mô hình lý luận về quy chế pháp lý của quản tài
viên từ việc làm rõ bản chất, vai trò, ý nghĩa pháp lý đến vai trò, chức năng, mối
quan hệ của quản tài viên với các chủ thể có liên quan.
Các cơng trình nghiên cứu này đã đề cập đến vai trò, sự ra đời của chế
định quản tài viên, chủ thể trung tâm của quá trình quản lý tài sản phá sản.
Theo đó, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chủ sở hữu doanh
nghiệp đã phần nào cho thấy năng lực kinh doanh của bản thân, đồng thời,
quá trình giải quyết thủ tục phá sản, chủ sở hữu doanh nghiệp có thể có những
hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản và có khả năng gây ảnh hưởng đến lợi ích của
các chủ nợ, do đó, cần thiết phải có một chủ thể đặc biệt, trung gian và độc

lập với con nợ và nhân danh chủ nợ để quản lý tài sản của doanh nghiệp khi
thực hiện các thủ tục phá sản. Mặc dù, có thể quy định ở các quốc gia với các
tên gọi khác nhau và phạm vi chức năng có thể khơng hồn tồn giống nhau,
nhưng việc quản lý tài sản phá sản đều được giao cho một chủ thể trung gian
và độc lập. Chủ thể này vừa đại diện cho con nợ bị phá sản vừa đại diện cho
các chủ nợ. Nói cách khác, quản tài viên có bản chất pháp lý là người thụ ủy
tư pháp đứng ở trung tâm của mối quan hệ đại diện phát sinh bởi pháp luật
phá sản. Mơ hình chủ thể ở các nước khác nhau thì khác nhau, tuy nhiên, có
thể thống kê 2 mơ hình chính là mơ hình chủ thể quản lý tài sản phá sản là các
cá nhân và mơ hình là một thiết chế tập thể.
Các nghiên cứu cũng đề cập đến các thay đổi về chủ thể quản lý tài sản
phá sản trong lịch sử lập pháp của Việt Nam cũng như có các đánh giá, phân
tích về sự thay đổi đó. Các nghiên cứu mơ hình chủ thể quản lý tài sản phá
sản trước năm 1975 ghi nhận mơ hình chủ thể quản lý tài sản phá sản là các
cá nhân, trong khi pháp luật về phá sản sau năm 1975 luôn ghi nhận là một
thiết chế tập thể. Theo đó, thiết chế quản lý tài sản trong lịch sử lập pháp của

13


Việt nam đã có thay đổi nhất định. Luật Phá sản năm 1993 phân tách chức
năng quản lý và thanh lý cho 2 thiết chế riêng biệt là tổ quản lý tài sản và tổ
thanh lý tài sản. Đến Luật Phá sản 2004, Tổ quản lý, thanh lý tài sản được
hình thành với cơ cấu gồm một chấp hành viên, một cán bộ tòa án, đại diện
chủ nợ, đại diện doanh nghiệp con nợ, có thể có đại diện cơng đoàn, đại diện
người lao động. Phải đến Luật Phá sản 2014, thiết chế này được thay thế bằng
quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Các nghiên cứu cũng đã phân tích, đánh giá thực trạng các quy định
pháp luật về quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Các quy
định này gồm các điều kiện hành nghề quản tài viên, việc chỉ định, thay đổi

quản tài viên tham gia; chi phí đối với quản tài viên, chấm dứt quản tài viên.
Quyền hạn của quản tài viên còn bị hạn chế như chưa được trao quyền tiếp
tục vận hành và quản lý hoạt động kinh doanh trong trường hợp tái tổ chức lại
doanh nghiệp.
Các nghiên cứu cũng đề cập đến các giải pháp hoàn thiện chế định về
quản tài viên nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế trong pháp luật cũng
như quá trình thực thi pháp luật để chủ thể quản lý tài sản phá sản có thể làm
tốt được vai trị của mình trong quá trình thực hiện các thủ tục phá sản. Các
giải pháp thông thường tập trung tháo gỡ các vướng mắc từ năng lực của quản
tài viên như nâng cao năng lực chuyên môn của quản tài viên thông qua việc
xây dựng hệ thống chứng chỉ tốt; vướng mắc từ các thủ tục chỉ định quản tài
viên bảo đảm tính độc lập, trung lập của quản tài viên với các bên liên quan;
các vướng mắc đến từ mức thù lao của quản tài viên…
Các nghiên cứu cũng đề cập đến chế định quản tài viên trong pháp luật
thực định ở nhiều quốc gia để cho thấy sự khác nhau tương đối trong việc xây
dựng chế định về quản tài viên. Ở Úc, có sự phân biệt quản tài viên và người
quản lý tài sản do ủy quyền (official receiver). Theo đó, người quản lý tài sản
do ủy quyền là người được chỉ định bởi luật và hành động như quản tài viên

14


nếu như khơng có chỉ định tư nào. Hoặc ở Anh, người quản lý tài sản do ủy
quyền sẽ là một viên chức nhà nước thuộc cơ quan của chính phủ về vỡ nợ.
1.1.3. Các nghiên cứu về các biện pháp quản lý tài sản phá sản
Khuyến nghị của UNCTAD “Legislative Guide on Insolvency” năm
2004 đã đưa ra các biện pháp quản lý tài sản phá sản trong quá trình thực hiện
các thủ tục phá sản. Nó liên quan đến các biện pháp bảo vệ, bảo quản tài sản
phá sản, việc sử dụng tài sản phá sản, quản lý các khoản lợi tức phát sinh, xử
lý các hợp đồng, các giao dịch khơng được phép thực hiện. Có thể nói, đây là

một tài liệu đưa ra khuyến nghị khá đầy đủ về các biện pháp quản lý tài sản
phá sản cụ thể.
Đối với các nghiên cứu trong nước, quy trình quản lý tài sản phá sản
được đề cập hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp trong một số công trình nghiên
cứu về pháp luật phá sản nói chung. Có thể kể tới một số đề tài nghiên cứu
như luận văn “Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn theo Luật phá sản năm 2014” của tác giả Vũ Huy Hoàng, năm 2015,
Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn “Thủ tục phá sản theo Luật phá sản
năm 2014” của tác giả Nguyễn Khánh Linh năm 2015, Trường Đại học Luật
Hà Nội; Luận văn “Luật phá sản năm 2014 - Bước phát triển của pháp luật
phá sản Việt Nam” của tác giả Quách Thị Thu Hương năm 2015, Trường Đại
học Luật Hà Nội; Bài viết “Một số vấn đề chưa được sửa đổi triệt để trong
Luật phá sản năm 2014” của tác giả Nguyên Thái Trường, Tạp chí Dân chủ
& Pháp luật, số 3 (276) – 2015; Bài viết “Bảo toàn tài sản doanh nghiệp
trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản một số tồn tại cần khắc phục” của
tác giả Cao Đăng Vinh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số
2/2014; Bài viết “Pháp luật về thực hiện các hợp đồng đang có hiệu lực trong
thủ tục phá sản” của tác giả Bùi Đức Giang, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 8/2012; Bài viết “Tuyên bố giao dịch vơ hiệu: Biện pháp bảo tồn tài sản
quan trọng trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản” của tác giả Thái Thị

15


Tường Vi, Tạp chí Cơng thương số 27 tháng 11/2020; Bài viết “Xử lý hợp
đồng đang có hiệu lực của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo pháp
luật phá sản” của tác giả Phan Nữ Hiền Oanh, Tạp chí Pháp luật và Kinh tế
số 8 (341) 2020.
Các tài liệu này phần nào đã đề cập đến một số biện pháp quản lý tài
sản phá sản cụ thể. Bài viết của tác giả Bùi Đức Giang đăng tải tại Tạp chí

Nhà nước và Pháp luật số 8/2012 “ Pháp luật về thực hiện các hợp đồng đang
có hiệu lực trong thủ tục phá sản” đề cập đến các hợp đồng đang có hiệu lực
trong thủ tục phá sản và cách xử lý. Mặc dù bài viết được thực hiện trước thời
điểm ban hành Luật Phá sản 2014, nhưng nó đã cung cấp một số cơ sở lý luận
cho về hợp đồng đang có hiệu lực pháp luật, mối quan hệ giữa việc mở thủ
tục phá sản và việc thực hiện các hợp đồng đang có hiệu lực. Bài viết cũng
cung cấp một số kinh nghiệm pháp luật nước ngoài về việc thực hiện hợp
đồng đang có hiệu lực. Điều này sẽ là nguồn nghiên cứu quan trọng để tham
khảo nhằm hoàn thiện pháp luật trong nước. Ngoài ra, các hạn chế, bất cập
hiện hành của Luật Phá sản 2014 cũng đã được đề cập trong bài viết “Xử lý
hợp đồng đang có hiệu lực của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo
pháp luật phá sản” của tác giả Phan Nữ Hiền Oanh tại Tạp chí Pháp luật và
Kinh tế số 8(341)-2020. Theo tác giả, các bất cập hiện nay là về thời hạn yêu
cầu tòa án ra quyết định tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng q ít có thể làm
tăng nguy cơ thất thoát tài sản doanh nghiệp; về giới hạn chủ thể yêu cầu tạm
đình chỉ thực hiện hợp đồng chỉ gồm chủ nợ và doanh nghiệp; quy định về
dấu hiệu có khả năng gây bất lợi cho doanh nghiệp; về việc tiếp tục thực hiện
hợp đồng đối với các hợp đồng đã bị đình chỉ; về hậu quả pháp lý khi hợp
đồng bị đình chỉ; về việc bổ sung các quy định đối với việc xác định hiệu lực
của các thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của hợp đồng khi một trong các bên
trong hợp đồng bị mở thủ tục phá sản. Trên cơ sở các bấp cập, hạn chế, bài
viết cũng đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.

16


Bài viết “Tuyên bố giao dịch vô hiệu: “Biện pháp bảo tồn tài sản
quan trọng trong q trình giải quyết thủ tục phá sản” của tác giả Thái Thị
Trường Vi tại Tạp chí Cơng thương số 27 tháng 11/2020 đề cập đến một
trong các biện pháp quản lý tài sản phá sản rất quan trọng là tuyên bố các giao

dịch vơ hiệu trong q trình giải quyết thủ tục phá sản. Bài viết đã đưa ra mục
đích của việc tuyên bố giao dịch vơ hiệu với tính chất là một biện pháp bảo
toàn tài sản quan trọng của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết thủ tục
phá sản khi mà các biện pháp này không phải lúc nào cũng dễ thực hiện trên
thực tế. Bài viết cũng đánh giá các quy định của Luật Phá sản 2014 liên quan
đến tuyên bố giao dịch vơ hiệu trên cơ sở phân tích những điểm tiến bộ của
Luật Phá sản 2014 so với các phiên bản trước đó. Theo tác giả, những điểm
mới đó gồm phạm vi các giao dịch vơ hiệu rộng hơn, đa dạng hơn; mở rộng
thời gian của giao dịch xác lập nhằm bảo vệ tốt hơn tài sản của doanh nghiệp
phá sản; mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu nhằm tạo cơ sở pháp lý cho tất cả
các chủ thể có quyền và lợi ích liên quan.
1.1.4. Các nghiên cứu về quản trị tài sản trong doanh nghiệp
Các nghiên cứu luật học về quản trị doanh nghiệp cũng có đề cập tới
khía cạnh quản lý tài sản trong doanh nghiệp cũng như đề cập đến mối quan
hệ giữa chủ nợ và doanh nghiệp. Một số cơng trình tiêu biểu như “Quản trị tài
sản trí tuệ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa” của tác giả Nguyễn Ngọc
Phương Hồng (2021); “Những vấn đề về chủ thể định giá tài sản góp vốn vào
doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp 2014” của tác giả Ngô Thị
Phương Thảo, Đỗ Thị Mai Thư; bài viết “Những vi phạm của cơ quan thi
hành án dân sự trong việc kê biên, bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp” của
tác giả Nguyễn Thị Bích Liên (2016); bài viết “Về xác định giá trị và tính
khấu hao tài sản cố định vơ hình” của tác giả Nghiêm Văn Lợi (2001); bài
viết “Quản lý tài sản có và tài sản nợ trong doanh nghiệp bảo hiểm” của tác
giả Hoàng Việt Hà (2000); bài viết “Hệ thống chỉ tiêu thơng tin kế tốn phân

17


tích tình hình tài chính trong các cơng ty cổ phần” của Nguyễn Năng Phúc
(2003); bài viết “Định giá tài sản của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa:

Cịn nhiều bất cập” của Đinh Phương Thảo (2010)…Có thể thấy, các nghiên
cứu về quản trị tài sản trong doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các doanh
nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hóa. Quản trị tài sản trong doanh
nghiệp tư nhân thì có một số bài viết về các dạng tài sản mới như tài sản sở
hữu trí tuệ, hoặc nếu có liên quan quản trị tài sản có và tài sản nợ thì có nhắc
đến nhưng chỉ bó hẹp trong các doanh nghiệp bảo hiểm. Có một số bài viết đề
cập trực diện hơn đến vấn đề chế độ kế toán, quản lý, sử dụng và khấu hao tài
sản cố định như bài viết “Bàn về chế độ kế toán, quản lý, sử dụng và khấu hao
tài sản cố định” của Lê Thị Thanh Hải (2013). Bài viết “Bảo vệ quyền của
chủ nợ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn
Thị Lan Hương (2019) đã đề cập đến triết lý bảo vệ chủ nợ, theo đó, chủ nợ
có quyền địi nợ cơng ty và cơng ty có nghĩa vụ trả nợ bằng chính tài sản của
mình, trong khi chủ sở hữu cơng ty thì chỉ chịu trách nhiệm tương ứng với
phần vốn góp của mình. Do đó, quyền lợi của chủ nợ ln được ưu tiên hơn
so với chủ sở hữu công ty. Tuy nhiên, thực tế, nếu các biện pháp bảo đảm
không hiệu quả thì các chủ nợ sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro trong quá trình
quản trị doanh nghiệp như trong các quyết định đầu tư, vay vốn của doanh
nghiệp hoặc khả năng vi phạm nghĩa vụ của người đại diện.
1.1.5. Các nghiên cứu về phá sản
Với tính chất là một hoạt động gắn liền với trình tự phá sản doanh
nghiệp, các nghiên cứu về phá sản nói chung cũng có đề cập tới hoạt động
quản lý tài sản phá sản. Một số bài viết như “Thực tiễn thi hành pháp luật về
thủ tục phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Thị Thùy Linh
(2019); bài viết “Pháp luật về phá sản: một số bất cập và giải pháp đề xuất”
của Chế Văn Trung (2020); bài viết “Hoàn thiện các quy định của Luật Phá
sản 2014” của Trương Thị Quỳnh Trâm (2019); bài viết “Logic thông thường

18



×