Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

(Luận án tiến sĩ) Tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.45 KB, 158 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----o0o-----

HOÀNG MẠNH THẮNG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2022


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----o0o-----

HOÀNG MẠNH THẮNG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9.38.01.07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ

HÀ NỘI – 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông
tin, số liệu nêu trong Luận án là trung thực. Các luận điểm kế thừa trong Luận án
được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận án chưa từng được công bố
trong cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hồng Mạnh Thắng


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng tri ân đến PGS.TS. Lê Thị Bích Thọ, cùng đội ngũ
các Thầy, Cơ của Học viện Khoa học Xã hội, Bộ Tư pháp, Đại học Luật Hà Nội
và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh - những người đã truyền cảm hứng, động viên,
trực tiếp hướng dẫn, góp ý giúp đỡ tơi nghiên cứu và hoàn thành Luận án này.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hoàng Mạnh Thắng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT NGHIÊN CỨU ............................................................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .......................... 7

1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu ................................................................ 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 23
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG .... 24
2.1. Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề
công chứng................................................................................................. 24
2.2. Khái quát lý luận pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức
hành nghề công chứng .............................................................................. 44
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 63
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TỔ
CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG
CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY........................... 64
3.1. Thực trạng quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức
hành nghề công chứng ở Việt Nam .......................................................... 64
3.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng
theo pháp luật Việt Nam hiện nay............................................................. 84
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................ 113
Chƣơng 4: ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG
CHỨNG Ở VIỆT NAM .............................................................................. 114
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam114


4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng ở
Việt Nam ................................................................................................. 124
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ............................................................................ 138
KẾT LUẬN .................................................................................................. 139

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........................................................................ 141
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 142


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCV

Cơng chứng viên

PCC

Phịng cơng chứng

VPCC

Văn phịng cơng chứng

TCHNCC

Tổ chức hành nghề cơng chứng

VBCC

Văn bản cơng chứng

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ số 1: Số lượng của các TCHNCC .......................................................................... 89
Biểu đồ số 2: CCV qua đào tạo, tập sự và không qua đào tạo, tập sự trong 5 năm kể từ
khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu lực ............................................................... 110


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm cho giao dịch ngày càng tăng
trưởng đa dạng và phức tạp. Nếu các giao dịch khơng bảo đảm an tồn sẽ dẫn đến
những tranh chấp, gây thiệt hại cho các bên tham gia và cho xã hội. Do vậy, cần
phải có một cơ chế pháp lý bảo đảm an tồn cho các giao dịch theo nhu cầu của xã
hội và theo yêu cầu của quản lý nhà nước trong việc điều hành nhằm ổn định trật tự
xã hội. Đó là nguyên nhân mà hoạt động công chứng khởi thủy, tồn tại và phát triển
như ngày nay.
Hoạt động công chứng cung cấp chứng cứ có tính xác thực cao hơn những
chứng cứ khác trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, hướng hành động của
họ thành hành vi xử sự hợp pháp, chuyển hóa các quy định của pháp luật thành thực
tiễn pháp lý sinh động và phong phú của cuộc sống, phục vụ nhu cầu của xã hội.
Xét ở phương diện quản lý nhà nước, hoạt động công chứng tạo ra loại chứng cứ
xác thực, hợp pháp, kịp thời hỗ trợ và bổ trợ cho hoạt động tư pháp. Xét ở phương
diện xã hội, hoạt động công chứng bảo đảm cho các giao dịch vận hành theo trật tự
pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, tạo sự ổn định và
an toàn của giao dịch trong đời sống xã hội.
Hoạt động công chứng ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận và có ý nghĩa to lớn, góp phần duy trì trật tự, an toàn pháp
lý của các giao dịch trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, tình hình hiện nay đang đặt ra
đối với hoạt động công chứng nhiều vấn đề cần phải được giải quyết, như cùng tồn
tại và hoạt động của hai loại hình TCHNCC, một là PCC do Nhà nước tổ chức

thành lập và hai là VPCC do tư nhân thành lập, cùng thực hiện chức năng cung cấp
dịch vụ công chứng; phạm vi hoạt động công chứng và chứng thực có sự pha trộn,
đan xen và chưa phân định rõ ràng về bản chất. Nguyên tắc cơ bản của tổ chức và
hoạt động của TCHNCC chưa được xây dựng. Đã xuất hiện sự cạnh tranh giữa hai
loại hình khác nhau của TCHNCC với cơ chế tài chính khác nhau đang ảnh hưởng
đáng kể đến vấn đề phát triển và bảo đảm cho sự hoạt động ổn định và bền vững
của hệ thống các TCHNCC ở Việt Nam...

1


Thực tiễn cũng cho thấy, việc xác định rõ VPCC là tổ chức kinh tế có ý
nghĩa quan trọng trong cách thức vận hành hoạt động. Một tổ chức kinh tế hoạt
động với mục đích lợi nhuận thì điều đương nhiên là phải vận hành theo quy luật
của thị trường và chịu sự điều tiết của thị trường, dịch vụ công chứng phải được coi
như một sản phẩm dịch vụ do tổ chức đó cung cấp. VPCC sẽ bình đẳng với các tổ
chức kinh tế khác về mặt địa vị pháp lý trong một số quy định chung áp dụng cho
các tổ chức kinh tế, ví dụ như có thể có nhiều hơn một con dấu để phục vụ cho nhu
cầu hoạt động, cách thức hạch toán và nộp thuế, các chính sách với người lao động
hoặc các chính sách ưu đãi áp dụng cho tổ chức kinh tế khi thành lập và hoạt động ở
địa bàn kinh tế khó khăn...
Ngoài ra, việc nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn ở một số quốc gia trên thế
giới trong việc tổ chức và hoạt động của TCHNCC nhằm tiếp thu có chọn lọc
những yếu tố phù hợp góp phần hồn thiện tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở
Việt Nam, để phát triển ổn định, bền vững cũng là điều cần thiết. Từ đó, đặt ra yêu
cầu phải được nghiên cứu, đánh giá toàn diện các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn
về tổ chức và hoạt động của TCHNCC làm cơ sở khoa học để định hướng, đề xuất và
kiến nghị cho việc hồn thiện pháp luật về cơng chứng ở Việt Nam, dưới giác độ tổ
chức cung cấp và bảo đảm cung cấp dịch vụ công chứng – một loại dịch vụ công thiết
yếu như một chức năng phục vụ xã hội của Nhà nước. Bên cạnh đó, việc nhận thức

đúng đắn về tổ chức và hoạt động của TCHNCC là một yêu cầu cần thiết phục vụ cho
việc hồn thiện thể chế cơng chứng theo chủ trương xã hội hóa, đáp ứng u cầu của
cơng cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay và trong tương lai.
Với những phân tích ở trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động
của tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên
cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam, đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam hiện nay.

2


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án xác định những nhiệm vụ
cụ thể như sau:
Một là, thực hiện tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận án nhằm rút ra những kết quả mà luận án có thể kế thừa và xác định những vấn
đề cần tiếp tục nghiên cứu trong nội dung luận án; xác định rõ cơ sở lý thuyết
nghiên cứu và hướng tiếp cận nghiên cứu.
Hai là, nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về tổ chức và hoạt động
của TCHNCC; nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia theo hệ phái
công chứng Latinh về tổ chức và hoạt động của TCHNCC và rút ra những giá trị
tham khảo cho Việt Nam.
Ba là, khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của
TCHNCC theo pháp luật Việt Nam hiện hành, nhằm làm rõ những ưu điểm, đồng
thời, chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân.

Bốn là, đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp
luật cơ bản nhất về tổ chức và hoạt động của TCHNCC; hệ thống các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về tổ chức và hoạt động của TCHNCC; kinh nghiệm
pháp luật một số quốc gia trên thế giới về tổ chức và hoạt động của TCHNCC làm cơ
sở để so sánh, đối chiếu, đánh giá với tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đề tài luận án nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
TCHNCC theo pháp luật Việt Nam, tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của luận án này
tập trung vào loại hình VPCC - là các tổ chức tư (được vận hành theo loại hình
doanh nghiệp cơng ty hợp danh), được Nhà nước giao quyền để cung cấp dịch vụ công,
để xem xét, đánh giá PCC trong mối quan hệ “song hành” trong giai đoạn hiện nay
cùng với VPCC thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công chứng thiết yếu cho xã hội

3


ở Việt Nam, nhưng không đi sâu nghiên cứu những quy định pháp luật về việc tổ chức
và hoạt động của PCC với tư cách là đơn vị sự nghiệp công lập.
Về không gian và thời gian, đề tài luận án được thực hiện trên phạm vi cả
nước, kể từ thời điểm Luật Cơng chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2015 cho đến nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vận
dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý phù hợp với yêu cầu nghiên cứu
từng nội dung của luận án, cụ thể như sau:

Chương 1, sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa,
phương pháp phân tích các tài liệu, cơng trình nghiên cứu khoa học đã được công
bố để làm rõ các nội dung, kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, xác
định những vấn đề mà luận án kế thừa, những vấn đề mà luận án cần tiếp tục triển
khai trong nội dung nghiên cứu.
Chương 2, sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương
pháp hệ thống hóa, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp
diễn dịch để phân tích, luận giải, khái qt các phạm trù có tính lý luận liên quan tới
việc tổ chức và hoạt động của TCHNCC. Trong chương này, tác giả cũng sử dụng
phương pháp so sánh để tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước về tổ chức và hoạt
động của TCHNCC.
Chương 3, sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương
pháp phân tích nhằm làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn tổ chức và
hoạt động của TCHNCC, từ đó chỉ ra những hạn chế, bất cập của quy định pháp
luật liên quan.
Chương 4, sử dụng phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp, phương
pháp phân tích và phương pháp so sánh, để đề xuất định hướng, giải pháp hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam hiện nay.

4


5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
Luận án là cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu, tồn diện và có hệ
thống những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và hoạt động của
TCHNCC ở Việt Nam. Luận án có một số đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận pháp
luật về tổ chức và hoạt động của TCHNCC và việc cần thiết phải phân định về hoạt
động công chứng là hoạt động hành nghề của CCV với hoạt động hỗ trợ cho hoạt
động hành nghề của CCV. Đây là luận cứ khoa học quan trọng cho việc hoàn thiện

pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
TCHNCC ở Việt Nam.
Thứ hai, Luận án đã làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức và hoạt
động của TCHNCC thơng qua việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật
hiện hành và áp dụng các quy định này trong thực tiễn, từ đó chỉ ra những hạn chế,
bất cập của quy định pháp luật liên quan.
Thứ ba, Luận án nêu rõ sự cần thiết và các định hướng, đồng thời, đề xuất
các nhóm giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần củng cố và hồn
thiện thêm những vấn đề lý luận pháp luật về tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở
Việt Nam phù hợp với mơ hình cơng chứng hiện đại và pháp luật về công chứng
của nhiều nước trên thế giới.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của Luận án có thể trở thành tài liệu
tham khảo có giá trị đối với các cơ quan có thẩm quyền khi nghiên cứu, sửa đổi
Luật Công chứng năm 2014; là tài liệu hướng dẫn áp dụng trong việc tổ chức và
hoạt động của TCHNCC; đồng thời, là tài liệu để phục vụ giảng dạy, bồi dưỡng và
học tập về TCHNCC ở Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
án được kết cấu 4 chương, cụ thể như sau:

5


Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ
chức hành nghề công chứng
Chƣơng 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức, hoạt động của tổ chức

hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Chƣơng 4: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng ở
Việt Nam

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu lý luận về công chứng và nghề
công chứng
Theo tác giả Tuấn Đạo Thanh (2008), trong “Nghiên cứu pháp luật về cơng
chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho
việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay”, nghề công chứng
đã xuất hiện trên thế giới từ rất sớm vào những ngày đầu của những nền văn minh
cổ đại. Ở thời kỳ Ai Cập cổ đại đã xuất hiện các tu sĩ (theo tiếng Latinh là
“Scribae”) chuyên ghi chép lại những ghi nhớ, văn bản, quyết định của các sự kiện
quan trọng và cấp bản sao tài liệu công (Public Documents) cũng như tài liệu tư
(Private Documents). Đến thời kỳ La Mã cổ đại, những kỹ năng lập, giải quyết và
lưu giữ văn bản được nâng cao và có vai trị quan trọng trong lĩnh vực cơng lẫn tư.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nghề công chứng thời La Mã cổ đại đi cùng với
phát triển của Nhà nước và pháp luật La Mã cổ đại. Khi đế chế La Mã cổ đại sụp
đổ, những nội dung pháp luật dân sự và nghề công chứng đã kịp du nhập vào hệ
thống pháp luật của những quốc gia khác.
Nghề cơng chứng đã xuất hiện ở Cộng hịa Pháp từ những năm 1270, ở Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ từ những năm 1650, ở Vương quốc Anh từ trước năm 1279. Ở
Châu Á, hệ thống công chứng ở Nhật Bản đã có trên 110 năm lịch sử. Theo chính

các luật gia của Nhật Bản nhận xét, thì hệ thống công chứng của họ chịu ảnh hưởng
sâu sắc bởi hệ thống cơng chứng của Cộng hịa Pháp và có tiếp thu một số quy định
về cơng chứng Cộng hịa Liên bang Đức cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch
sử riêng của Nhật Bản [78].
Theo tác giả Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình các cơ quan bảo vệ pháp
luật, thì hoạt động cơng chứng đã được hình thành và phát triển ở hầu hết các nước
trên thế giới, cùng với sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội và hệ thống pháp luật

7


của mỗi nước. Công chứng đã và đang trở thành một nghề ở nhiều nước trên thế
giới [92, tr.289-290].
Theo các nghiên cứu và giải thích trên, xét về nguồn gốc, cơng chứng là
nghề sớm xuất hiện trong lịch sử lồi người với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản
và làm chứng của CCV như là một nhân viên công.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tồn (2004), Cơng chứng Việt Nam trong nền kinh
tế thị trường hướng theo mơ hình cơng chứng Latinh, trên thế giới cho đến nay,
nghề công chứng theo những mơ hình cơng chứng tồn tại ở hầu hết các quốc gia và
hình thành nên ba hệ thống công chứng cơ bản như sau:
(i) Hệ thống công chứng Latinh (chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật
La mã, còn gọi là hệ thống dân luật - Civil Law), tồn tại ở hầu hết các nước châu Âu
(trừ Đan Mạch và Anh); châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu
Mỹ - Latinh, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ, một số nước
châu Á (Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ...);
(ii) Hệ thống công chứng Anglo-Saxon, gắn liền với hệ thống pháp luật
Anglo-Saxon (Hệ thống thông luật - Common Law), tồn tại ở các quốc gia: Vương
quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane), Canada (trừ bang Quebec), Hàn Quốc,
Singapore, Thái Lan, Đài Loan...;
(iii) Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể hay công chứng

nhà nước) tồn tại ở các nước XHCN trước đây gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức,
Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam [74].
Ở Việt Nam, hoạt động công chứng đã được hình thành vào thời kỳ Pháp
thuộc. Theo tác giả Trần Văn Hạnh (2016), Tổng quan về nghề công chứng, thời
Pháp thuộc, hoạt động công chứng được định hình rõ nét ở Việt Nam với sự xuất
hiện tổ chức cơng chứng với tên gọi là Phịng Chưởng khế theo mơ hình và thể thức
cơng chứng của Cộng hịa Pháp [37].
Theo nghiên cứu của tác giả Hoàng Mạnh Thắng (2008), Điều chỉnh pháp lý
hoạt động công chứng tại Văn phịng cơng chứng dưới giác độ pháp luật doanh
nghiệp, ở thời kỳ chế độ cũ ở miền Nam Việt Nam đã tồn tại chế định cơng chứng
cịn được gọi là “chưởng khế” lập, bảo quản và gìn giữ các khế ước (hợp đồng).

8


Phòng Chưởng khế là cơ quan thuộc hệ thống tư pháp, được thiết lập trong một
quản hạt của Tòa án sơ thẩm hay hòa giải rộng quyền tùy thuộc Bộ Tư pháp. Hoạt
động chưởng khế thuộc thể chế công chứng nhà nước, chưởng khế do Nhà nước bổ
nhiệm [81, tr.11].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Hiến (1996), Những vấn đề cơ bản về tổ chức và
hoạt động công chứng nhà nước, đưa ra một số vấn đề chung về công chứng nhà
nước và tổ chức công chứng nhà nước, đề cập đến quá trình hình thành, phát triển
của TCHNCC ở Việt Nam giai đoạn 10 năm sau thời kỳ đổi mới, cho rằng: “Công
chứng của ta là công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là cơ quan nhà nước,
CCV là cơng chức nhà nước” [11, tr.266].
1.1.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về mơ hình tổ chức và hoạt động của
tổ chức hành nghề cơng chứng
Mơ hình tổ chức và hoạt động của TCHNCC là một chế định pháp luật chính
thức xuất hiện ở Việt Nam sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới vào năm
1986. Giai đoạn này đã có nhiều cơng trình nghiên cứu được thực hiện và có thể kể

một số cơng trình tiêu biểu, như sau:
Luận án Tiến sĩ luật học của tác giả Dương Khánh (2002), đề tài “Tổ chức và
hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay”, đã nghiên cứu những vấn đề
tổng thể của tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước với đối tượng là PCC, đơn
vị sự nghiệp của Nhà nước với những giải pháp và kiến nghị hoàn thiện cơ chế tổ
chức và hoạt động của PCC [43].
Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Văn Toàn (2004) ở Trường
Đại học Tổng hợp Jean-Moulin Lyon 3 Cộng hòa Pháp, với đề tài “Công chứng
Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hướng theo mơ hình cơng chứng Latinh” đã
đánh giá, nghiên cứu về hoạt động công chứng của Việt Nam với mô hình cơng
chứng nhà nước bước vào giai đoạn khởi đầu, mở cửa để gia nhập với công chứng
thế giới theo mơ hình cơng chứng tự do [74].
Luận án Tiến sĩ luật học của tác giả Tuấn Đạo Thanh (2008), đề tài “Nghiên
cứu pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng
luận cứ khoa học cho việc hồn thiện pháp luật về cơng chứng ở Việt Nam hiện

9


nay” đã đánh giá, nghiên cứu về các mơ hình và trường phái công chứng trên thế
giới, đã chỉ ra những điểm tương đồng cũng như khác biệt về hoạt động cơng chứng
của một số quốc gia điển hình trên thế giới, qua đó rút ra những kinh nghiệm quý
báu cho việc phát triển tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam [78]. Tác giả
cũng cho rằng, các mơ hình cơng chứng trên thế giới, được phân thành hai trường
phái là trường phái công chứng nội dung theo hệ thống dân luật (trường phái công
chứng Latinh) ở các nước Châu Âu lục địa, Châu Phi (các nước thuộc địa cũ của
Pháp) và trường phái cơng chứng hình thức ở các nước theo hệ thống thông luật.
Mỗi một mô hình cơng chứng và trường phái cơng chứng xét về tổ chức và
hoạt động có đặc điểm riêng biệt về ưu điểm và nhược điểm, tùy theo hệ thống pháp
luật dân sự điều chỉnh và đặc điểm lịch sử cũng như địa kinh tế, văn hóa ngày càng

có xu hướng giao thoa và gần nhau. Trường phái công chứng Latinh yêu cầu CCV
lập ra VBCC có nội dung dẫn chiếu và tham khảo bởi nhiều quy phạm pháp luật
được áp dụng. Trường phái này công nhận ưu thế của chứng cứ viết, tìm kiếm sự
cân bằng trong thỏa thuận của các bên và xác định ý chí đích thực của các bên nhằm
tránh các tranh chấp có thể xảy ra về sau. Trong khi đó, trường phái cơng chứng
Anglo-Saxon tạo cơ chế thực dụng, rất mềm dẻo, dễ thích ứng với các hoàn cảnh cụ
thể của từng hợp đồng, giao dịch với trình tự thủ tục đơn giản, các nhu cầu về cơng
chứng nhanh chóng được giải quyết. Người u cầu cơng chứng, nhất là các doanh
nhân có thể đạt được cơ hội kinh doanh. Kích thích được tính năng động và quyền
tự quyết của các bên trong giao dịch. Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước trong quản lý
các hoạt động công chứng rất mờ nhạt, không kiểm tra chặt chẽ đối với các hoạt
động công chứng, cũng không ấn định mức phí mà khách hàng phải trả cho CCV.
CCV có quyền tự do thỏa thuận với khách hàng về mức thù lao áp dụng cho mỗi vụ
việc công chứng. Dịch vụ công chứng được xem như một sản phẩm đặt dưới luật
chơi của thị trường dành cho người có quyền lực kinh tế. Người yếu thế khơng được
bình đẳng về quyền được hưởng dịch vụ công chứng. Việc giao kết hợp đồng, giao
dịch xuất phát từ quan hệ mạnh - yếu giữa các bên, khơng có được một giải pháp
cân bằng về lợi ích. Người yếu thế bị áp đặt quan điểm, chịu lép vế, thua thiệt.
VBCC không đạt được sự chuẩn mực của chứng cứ và khó có giá trị thi hành như

10


một văn bản của cơ quan công quyền. Trách nhiệm vật chất của CCV không được xác
định rõ ràng. An toàn pháp lý thấp, làm gia tăng các tranh chấp. Chi phí cho kiện tụng
gia tăng, đánh vào tài chính của khách hàng và phí bảo hiểm khơng ngừng tăng [78].
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Mích (2020) với đề tài “Hình thức
pháp lý của Văn phịng công chứng theo pháp luật Việt Nam”, nghiên cứu về hình
thức pháp lý của VPCC cho rằng, trên thế giới tồn tại hai mơ hình cơng chứng, mơ
hình cơng chứng bao cấp và mơ hình cơng chứng hành nghề tự do. Trong mơ hình

cơng chứng hành nghề tự do, VPCC tồn tại dưới nhiều hình thức pháp lý như:
VPCC hoạt động theo loại hình doanh nghiệp một chủ, VPCC hoạt động theo loại
hình cơng ty đối nhân và VPCC hoạt động theo loại hình cơng ty đối vốn và pháp
luật Việt Nam cần phải sớm thừa nhận loại hình VPCC do một CCV làm chủ, tạo
điều kiện cho CCV hành nghề tự do có cơ hội lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu của họ, tính ổn định của một doanh nghiệp
khơng phụ thuộc vào số lượng chủ sở hữu của doanh nghiệp, mà nó phụ thuộc phần
lớn vào cơ chế tổ chức, vận hành của doanh nghiệp.
Luật Công chứng năm 2006 khơng cho phép VPCC được th CCV, nên loại
hình VPCC hoạt động theo hình thức doanh nghiệp tư nhân đã bộc lộ bất cập trong
trường hợp CCV không thể đến VPCC làm việc. Sự bất cập nêu trên đã được giải
quyết cơ bản khi Luật Công chứng năm 2014 cho phép VPCC được thuê CCV làm
việc theo hợp đồng lao động, tạo hành lang pháp lý để VPCC dễ dàng tăng, giảm số
lượng CCV phù hợp với nhu cầu, giúp cho VPCC vận hành ổn định, bền vững [48].
Theo tác giả Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình các cơ quan bảo vệ pháp
luật, thì mặc dù trên thế giới hình thành ba hệ thống công chứng, song được chia
thành hai mơ hình chính là mơ hình cơng chứng tự do (ở hệ thống công chứng
Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon) và mơ hình cơng chứng nhà nước
(chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste) [92, tr.294].
Theo tác giả Lê Thị Phương Hoa (2005), Công chứng và xã hội hóa cơng
chứng ở Việt Nam, ở mơ hình cơng chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết
chế nhà nước, CCV là công chức, viên chức nhà nước, do Nhà nước bổ nhiệm,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, CCV không phải chịu trách nhiệm vật chất

11


trước khách hàng mà chỉ chịu trách nhiệm hành chính trước Nhà nước. Mơ hình
cơng chứng nhà nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hóa tập trung và nền kinh tế
hiện vật với sự bao cấp của Nhà nước, trong đó, các giao dịch dân sự, kinh tế khơng

phát triển, vai trị cơng chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài
sản XHCN và tài sản cá nhân [38].
Theo những tác giả này, cho đến nay công chứng tồn tại ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới với những hệ thống pháp luật khác biệt, song về cơ bản chỉ có hai
mơ hình cơng chứng là: Mơ hình cơng chứng tự do (ở hệ phái công chứng Latinh và
hệ phái công chứng Anglo-Saxon); Mơ hình cơng chứng nhà nước (ở hệ phái cơng
chứng nhà nước).
Ưu thế vượt trội của mơ hình cơng chứng tự do so với mơ hình cơng chứng
nhà nước là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của CCV, tạo ra cơ chế cạnh
tranh lành mạnh, tạo động lực để CCV phát huy tính tích cực, chủ động trong hành
nghề, tách hẳn sự bao cấp của Nhà nước làm gọn nhẹ bộ máy hành chính, tách bạch
chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực
công chứng, tiết kiệm và tăng thu ngân sách nhà nước thơng qua việc đóng thuế của
CCV. Mơ hình cơng chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về tổ chức và hoạt động, đáp
ứng kịp thời nhu cầu cơng chứng của cư dân. Mơ hình công chứng nhà nước đã tỏ
ra lỗi thời, không phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế - xã hội, tuy nhiên ở Việt
Nam vẫn duy trì mơ hình này.
Theo Báo cáo tổng thuật về pháp luật về cơng chứng của hệ thống cơng
chứng Latinh (Cộng hịa Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan,
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc) và một thông tin liên quan
đến hệ thống công chứng Anglo-Saxon, Bộ Tư pháp (2013) và Báo cáo tổng thuật
pháp luật về cơng chứng của Cộng hịa Pháp, Cộng hịa liên bang Đức, Áo, Tây
Ban Nha, Ba Lan, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số
nước khác, Bộ Tư pháp (2022), thì Luật Cơng chứng của các nước theo Luật Latinh
đều có chung các quy tắc cơ bản, sự khác biệt chỉ là do văn hóa. Bên cạnh đó,
hướng đi và trình độ phát triển của cơng chứng có liên quan đến thời gian: Ở Pháp,
Tây Ban Nha và Đức, hệ thống công chứng đã hoạt động được hai thế kỷ, hệ thống

12



pháp luật ngày càng cụ thể và chi tiết hơn. Trong khi các nước như Pháp, Đức và
Tây Ban Nha vẫn giữ nguyên các nguyên tắc cơ bản của Luật Ventos là luật cơng
chứng Pháp thì Nhật Bản và Hàn Quốc đã áp dụng các quy tắc cụ thể hơn.
Hệ thống công chứng của Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Trung Quốc mang lại
cho CCV vai trò của “thẩm phán hợp đồng” để đóng vai trị cơng lý phịng ngừa.
Bốn hệ thống này mang lại giá trị chứng minh và hiệu lực thi hành cho VBCC, điều
này rất quan trọng đối với ổn định xã hội vì chúng mang đến cho người dân sự bảo
đảm pháp lý cho tất cả các thủ tục dân sự cần thiết: hôn nhân, thừa kế, quyền sở hữu
đất và thành lập kinh doanh. CCV khơng chỉ soạn văn bản mà cịn là nhân chứng có
đặc quyền của VBCC được các bên nhất trí. CCV cũng không phải là nhân viên tư
vấn của một bên để gây thiệt hại cho bên kia mà là chuyên gia khách quan và không
thiên vị để lập ra những hợp đồng cơng bằng vì lợi ích của tất cả mọi người. Về
quyền sở hữu, CCV bảo đảm sự an toàn gần như tuyệt đối cho người nắm giữ quyền
này. Nhờ đó, ở các nước phương Tây, các tranh chấp về quyền sở hữu gần như
khơng tồn tại. Cịn ở Nhật Bản và Hàn Quốc, hệ thống công chứng đem lại cho
CCV vai trò của nhân chứng và người thực hiện chứng nhận [6], [8].
Có hai mơ hình tổ chức hành nghề phổ biến, đó là VPCC của một CCV hoặc
VPCC của hai CCV trở lên. Một số nước như Đức, Indonesia.... chỉ cho phép loại
hình thứ nhất. Trung Quốc thì lại u cầu TCHNCC phải có ít nhất hai CCV, trong
khi đó Tây Ban Nha cho phép tồn tại cả hai loại hình. Về ngun tắc, VPCC khơng
phải là một công ty, doanh nghiệp, song thường hoạt động theo mơ hình doanh
nghiệp: VPCC một CCV thường hoạt động theo mơ hình doanh nghiệp tư nhân;
CCV Trưởng Văn phịng chịu trách nhiệm tồn bộ và vơ hạn về hoạt động của tổ
chức mình. Một mơ hình khác là cơng ty dân sự do nhiều CCV hợp thành. Trong
trường hợp này mỗi thành viên chỉ chịu trách nhiệm cá nhân về văn bản do mình
thực hiện. TCHNCC tại hầu hết các nước là của tư nhân, thì ở một số nước như
Trung Quốc, Việt Nam vẫn duy trì mơ hình TCHNCC của Nhà nước [8].
Nghiên cứu của tác giả Leslie G.Smith, M.A (2006), The Role of the Notary
in secure Electronic Commerce, đưa ra quan điểm mới về công chứng điện tử đã và

đang phát triển trong thời gian gần đây. Nếu văn bản điện tử đã được chấp nhận

13


trong pháp lý thương mại thì ngày càng có nhiều văn bản điện tử có chữ ký điện tử
được giao dịch và chứng nhận điện tử. Tuy nhiên, nguyên tắc và thủ tục cơ bản của
công chứng điện tử phải được thực hiện tương tự như công chứng truyền thống, tức
là vẫn phải do CCV thực hiện. Khi công nghệ và phương tiện kỹ thuật phát triển thì
các phương thức giao dịch truyền thống cũng phải thay đổi phù hợp với thương mại
điện tử, mặc dù vậy, nhưng trong thực tiễn rất khó thực hiện cơng chứng điện tử với
quy trình chính xác như của cơng chứng truyền thống [106].
Các tác giả đều cho rằng, mơ hình cơng chứng đa dạng và dù theo thể thức
công chứng nội dung hay hình thức, thì hoạt động cơng chứng vẫn phải tn theo
trình tự, thủ tục nghiêm ngặt do luật định. Hoạt động công chứng ở Việt Nam cũng
như ở các quốc gia khác hướng tới, đó là thiết lập được tính xác thực của các sự
kiện và thỏa thuận trong VBCC. Bản chất của dịch vụ cơng chứng mang tính dịch
vụ công (service public). Với sự hành nghề chuyên nghiệp, am tường pháp luật,
bằng việc tư vấn, soạn thảo và chứng nhận các hợp đồng, giao dịch, CCV đã cung
cấp một dịch vụ bảo đảm an toàn pháp lý cho cư dân khi tham gia giao dịch. Như
vậy, có thể thấy hai đặc điểm chung về tổ chức và hoạt động của TCHNCC theo
pháp luật của các quốc gia trên thế giới, đó là:
- Loại hình của TCHNCC được tổ chức theo loại hình tổ chức nghề nghiệp
chun trách, khơng phải là cơ quan hành chính hay cơ quan tư pháp của Nhà nước;
- Hoạt động của TCHNCC nhằm hỗ trợ, duy trì việc cung cấp dịch vụ cơng
chứng thơng qua việc hành nghề của CCV, phục vụ giao dịch của cư dân.
Mặc dù nội dung chi tiết về chức năng, nhiệm vụ của công chứng trong pháp
luật thực định của mỗi quốc gia theo hệ phái công chứng khác nhau có những đặc
điểm chi tiết khác nhau, nhưng quan điểm về cơng chứng của các quốc gia này đều
có những điểm chung cơ bản như: (i) Chủ thể của hoạt động cung cấp dịch vụ công

chứng là CCV. CCV thực hiện việc tư vấn, giải thích, soạn thảo và chứng nhận các
hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của các bên. (ii) Việc cơng chứng làm cho giao
dịch bình thường trở thành VBCC có giá trị chứng cứ và thi hành, góp phần hạn chế
rủi ro và phịng, ngừa tranh chấp.

14


Khởi nguồn nghề công chứng xuất phát từ xã hội, với vai trò làm chứng
trong cư dân nhằm bảo đảm tính khách quan, minh bạch của các khế ước, văn tự
được lập, phòng ngừa tranh chấp và bội ước trong giao dịch. Có thể nói, cơng
chứng là nhu cầu xã hội của cư dân, có vai trị hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cư dân trong các giao dịch, góp phần bảo đảm ổn định trật tự xã hội, thúc
đẩy các giao dịch dân sự, kinh tế phát triển, cung cấp chứng cứ hỗ trợ cho hoạt động
xét xử của Tòa án. Qua những giai đoạn lịch sử, cơng chứng trở thành một nghề có
tính chun mơn sâu và chun nghiệp hóa, phục vụ cộng đồng vì lợi ích của xã
hội. Với vai trị quan trọng như vậy, dịch vụ công chứng đã trở thành hoạt động
thuộc chức năng cung cấp dịch vụ công phục vụ xã hội của Nhà nước.
Trước khi có Luật Cơng chứng năm 2006, mơ hình cơng chứng ở Việt Nam
được thiết lập theo mơ hình cơng chứng nhà nước. Hiện nay, mơ hình cơng chứng ở
Việt Nam có sự pha trộn giữa mơ hình cơng chứng nhà nước với đại diện là PCC của
Nhà nước và mơ hình cơng chứng tự do tư nhân tổ chức bằng loại hình VPCC. Dịch vụ
cơng chứng tạo ra sản phẩm VBCC có giá trị pháp lý. Nếu những “sản phẩm” này có
chất lượng kém, sẽ gây mất an toàn của các giao dịch trong đời sống xã hội. Vì vậy, rất
cần thiết phải đánh giá, nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của TCHNCC, nhằm nâng
cao hiệu quả tổ chức và hoạt động, cung cấp dịch vụ cơng chứng có chất lượng, bảo
đảm tính khách quan, chính xác, phù hợp pháp luật và đạo đức xã hội, phịng ngừa
tranh chấp, góp phần tạo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể nói, khó có loại hình tổ chức nghề nghiệp nào với những đặc điểm
nghề nghiệp pháp lý đặc thù phát triển nhanh như hệ thống các TCHNCC ở Việt

Nam. Từ thời Pháp thuộc đã hơn 100 năm, chỉ có một Văn phòng chưởng khế ở Hà
Nội và ba Văn phòng chưởng khế ở Sài Gòn được lập từ năm 1862. Thời kỳ chế độ
cũ Việt Nam Cộng hòa tồn tại hơn 20 năm cũng chỉ có một Phịng chưởng khế ở Sài
Gòn và sau hơn 30 năm kể từ khi PCC đầu tiên thành lập từ năm 1988 đến nay đã
có 1.151 TCHNCC [2].
1.1.3. Một số nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu và những vấn đề
mà Luận án kế thừa
Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài “Tổ
chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện

15


nay” đã được công bố mà tác giả đã tiếp cận, xin đưa ra một số đánh giá bước đầu
như sau:
(i) Số lượng các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án đa dạng,
được tiếp cận từ nhiều hướng với những nội dung và thời điểm khác nhau. Đây là
thuận lợi, đồng thời cũng là thách thức cho tác giả khi triển khai nghiên cứu.
(ii) Kết quả các cơng trình nghiên cứu đã cung cấp những kiến thức quan
trọng về hoạt động cơng chứng, mơ hình cơng chứng, thể thức công chứng cùng
kinh nghiệm của các nước về tổ chức và hoạt động của TCHNCC, tác động đến đời
sống xã hội và bài học cho Việt Nam. Đây sẽ là nguồn tư liệu hết sức cần thiết để
tác giả tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu của Luận án.
(iii) Đánh giá tổng thể, dù số lượng nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
đa dạng, nhưng lại chưa có một cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về tổ chức và
hoạt động của TCHNCC một cách đầy đủ, hệ thống và tồn diện, từ đó nhận diện và
đề xuất những cách thức, nguyên tắc cũng như đề ra định hướng, giải pháp hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam theo hướng hiện đại, chuyên
nghiệp góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Căn cứ vào tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước, có thể nhận thấy một

số nội dung liên quan đến đề tài luận án đã được giải quyết, đạt được sự thống nhất
cao của các học giả và đề tài có thể tiếp thu mà khơng cần trở lại để phân tích, làm
sáng tỏ thêm, ở phương diện lý luận, thực tiễn và đề xuất các định hướng, kiến nghị
liên quan.
Ở phương diện lý luận, những nhận thức chung về TCHNCC ở Việt Nam và
vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Dịch vụ công chứng là dịch vụ
công thiết yếu phục vụ xã hội được thực hiện bởi CCV của TCHNCC, nhằm bảo
đảm an toàn pháp lý, hạn chế rủi ro cho các giao dịch, hỗ trợ và bổ trợ cho hoạt
động tư pháp.
Cách thức tổ chức và hoạt động của TCHNCC, với mục đích để bảo đảm
tính thống nhất về hình thức tổ chức, phương thức hoạt động của TCHNCC, phát
huy tính tích cực và hiệu quả của mơ hình cơng chứng tự do, nâng cao năng lực tổ
chức cung cấp dịch vụ của TCHNCC, thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động

16


cơng chứng nhằm đáp ứng nhanh chóng, thuận tiện các nhu cầu đa dạng, phong phú
về công chứng của cư dân.
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã phân tích pháp luật về TCHNCC ở Việt Nam
theo phương diện đơn vị sự nghiệp của Nhà nước và từ đó rút ra các kiến nghị, bài
học cho công chứng Việt Nam theo hướng phát triển phù hợp với hệ phái công
chứng Latinh. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đánh giá về loại hình là VPCC là
“tổ chức tư” cùng với PCC là “tổ chức công”, song hành hoạt động trong một chế
định pháp luật, cùng cung cấp dịch vụ công chứng, nhưng có cơ cấu tổ chức, cách
thức hoạt động và cơ chế tài chính khác nhau, để tổng kết và định hướng hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam.
Ở phương diện thực tiễn, các nghiên cứu đều nhận định mơ hình cơng chứng
nhà nước tồn tại những “rào cản” cho dịch vụ công chứng phát triển theo hướng tự
do, tự quản, hiện đại và chuyên nghiệp, đó là về trách nhiệm cá nhân của CCV, sự

cạnh tranh của VPCC với PCC có đặc thù khác biệt về tổ chức, tài chính, khó tạo
được động lực để các CCV phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong hoạt
động nghề nghiệp của mình, chưa kể sự thiếu linh hoạt về mặt tổ chức bộ máy và
nhân sự khó đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam có những thực trạng chung
của TCHNCC ở các quốc gia trên thế giới, ngồi ra cịn có những đặc thù riêng
như: Hai loại hình TCHNCC cùng tồn tại trong một chế định cơng chứng, có cơ cấu
tổ chức và tài chính khác nhau; Quy định pháp luật khơng phân định rạch rịi giữa
việc công chứng và chứng thực, thể hiện sự pha trộn giữa cơng chứng nội dung và
hình thức, dẫn đến việc không thống nhất giá trị của VBCC và văn bản chứng thực.
Hệ thống quy phạm pháp luật về TCHNCC tồn tại những bất cập và chưa có
chế định đủ mạnh để thực sự bảo vệ và bảo đảm an toàn pháp lý đối với hợp đồng,
giao dịch đã được cơng chứng.
Những đề xuất, kiến nghị cho việc hồn thiện về tổ chức và hoạt động của
TCHNCC ở Việt Nam, tiêu chuẩn hóa trình độ và kỹ năng chun nghiệp cho CCV,
hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại trong hoạt động cơng chứng, hình thức và
định hướng cho loại hình TCHNCC, xã hội hóa hoạt động cơng chứng ở Việt Nam.

17


×