Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Dấu ấn folklore Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
********
TRƢƠNG HỒNG THÚY

DẤU ẤN FOLKLORE TÀY - NÙNG
TRONG THƠ DƢƠNG THUẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
********
TRƢƠNG HỒNG THÚY

DẤU ẤN FOLKLORE TÀY - NÙNG
TRONG THƠ DƢƠNG THUẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25

Người hướng dẫn: GS.TS. Lê Chí Quế

HÀ NỘI – 2015



CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của bản thân tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
GS.TS Lê Chí Quế. Các kết quả và số liệu nghiên cứu
trong luận văn là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ
một công trình khoa học nào.
Những luận điểm sử dụng của tác giả khác, tác
giả luận văn đều có ghi chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả
hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên
bản của luận văn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Trương Hồng Thúy


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin được bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS Lê
Chí Quế - người thầy đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ tơi trong suốt
q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Văn học, khoa Sau
đại học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội đã nhiệt
tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tơi trong q trình học tập và nghiên cứu tại
trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn nhà thơ Dương Thuấn – đã tạo điều kiện và
chỉ bảo cho tôi rất nhiều.
Tác giả luận văn chân thành biết ơn những người thân trong gia đình

và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt
thời gian qua.
Hà Nội, ngày 25 thág 10 năm 2015
Tác giả

Trương Hồng Thúy


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài. ...................................................................................................1
II. Mục đích nghiên cứu............................................................................................2
III. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ................................................................................2
IV. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu. .........................................................................3
V. Phƣơng pháp nghiên cứu .....................................................................................4
VI. Bố cục. ..................................................................................................................4
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY – NÙNG VÀ FOLKLORE
TÀY – NÙNG. ............................................................................................................5
1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày – Nùng ở Việt Nam. ...........................................5

1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên – xã hội, cảnh quan thiên nhiên và lịch
sử tộc người. ...................................................................................................... 5
1.1.2. Nghệ thuật tạo hình dân gian. ...........................................................................9
1.1.3. Nghệ thuật biểu diễn dân gian. ........................................................................15
1.1.4. Tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán. ......................................20
1.1.5. Văn học dân gian. ............................................................................................24
1.2. Folklore dân tộc Tày – Nùng. .........................................................................35
1.2.1. Khái niệm Folklore. ........................................................................................35
1.2.2. Folklore dân tộc Tày – Nùng. .........................................................................40
Tiểu kết. ....................................................................................................................41

CHƢƠNG 2. DẤU ẤN VĂN HÓA DÂN GIAN TÀY – NÙNG TRONG THƠ
DƢƠNG THUẤN. ...................................................................................................43
2.1. Khái quát thơ ca Tày – Nùng thời kì hiện đại. ..............................................43
2.2. Dƣơng Thuấn – cuộc đời và sự nghiệp. .........................................................48
2.3. Khái niệm văn hóa. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. ........................51
2.3.1. Khái niệm văn hóa. .........................................................................................51
2.3.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học .......................................................................52
2.4. Dấu ấn văn hóa dân gian Tày Nùng trong thơ Dƣơng Thuấn. ....................54


2.4.1. Hình ảnh núi rừng và con người miền núi trong thơ Dương Thuấn ...............54
2.4.2. Những yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc Tày – Nùng trong thơ Dương
Thuấn. ........................................................................................................................68

Tiểu kết………...……………………………………………………………82

CHƢƠNG 3. DẤU ẤN NGỮ VĂN DÂN TỘC TÀY – NÙNG TRONG THƠ
DƢƠNG THUẤN......................................................................................................83
3.1. Ngôn ngữ diễn đạt ............................................................................................83
3.2. Thể thơ ..............................................................................................................92
3.3. Dấu ấn của các loại thể văn học dân gian Tày – Nùng trong thơ Dƣơng
Thuấn........................................................................................................................93
3.3.1. Cao dao – thành ngữ - tục ngữ . ......................................................................94
3.3.2. Dân ca dân gian dân tộc Tày Nùng. ..............................................................100
3.3.3. Truyện cổ tích – Sự tích – Truyền thuyết – Huyền thoại. .............................108
3.3.4. Các thể loại khác. ..........................................................................................111

Tiểu kết…………………………………………………………………….114

KẾT LUẬN ............................................................................................................117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ............................................................119
PHỤ LỤC.


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Dương Thuấn đã trở thành một cái tên quen thuộc và ấn tượng trên thi đàn
Việt Nam bởi ơng có một hồn thơ độc đáo, khỏe khoắn và dung dị, nhưng trên hết,
bởi ông là một nhà thơ dắn bó, thủy chung với dân tộc và q hương mình. Thơ của
Dương Thuấn có bản sắc độc đáo, được rất nhiều độc giả yêu mến.
Thật may mắn là chúng ta đã và đang có một đội ngũ các nhà thơ thật sự gắn
bó và tâm huyết với bản sắc văn hóa dân tộc mình, họ ln trăn trở, day dứt trong
việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy và giới thiệu với các dân tộc anh em trong nước,
cũng như với thế giới những cái hay, cái đẹp của dân tộc mình. Bằng tất cả sự tài
năng và nhiệt huyết, họ đã có những đóng góp lớn lao đối với văn học dân tộc thiểu
số nói riêng và đối với thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Dương Thuấn là một
nhà thơ tiêu biểu như thế. Bên cạnh tên tuổi của các nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu
số đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịng bạn đọc như Nơng Quốc Chấn, Hồng Văn
Thụ, Nơng Minh Châu, Nơng Viết Toại, Triều Ân, Ma Trường Nguyên, Y Phương,
thì Dương Thuấn đã khẳng định được chỗ đứng của mình bằng những đóng góp
quan trọng vào sự phát triển chung của văn học dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca
Việt Nam hiện đại nói chung.
Nhà thơ Dương Thuấn sinh năm 1959, tại Bắc Kạn. Ông là người dân tộc
Tày, hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Dương Thuấn từng được trao Giải A
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1992 và hàng chục giải thưởng của các
cuộc thi thơ trên các báo, tạp chí, nhà xuất bản của trung ương, các tổ chức quốc
tế... Ơng đã có hơn 20 tác phẩm được in và chủ biên khoảng 30 đầu sách. Đáng chú
ý, tuyển tập Dương Thuấn vừa được tổ chức Guiness Việt Nam công nhận 2 kỷ lục:
Bộ sách song ngữ Tày – Việt đầu tiên và Bộ Tuyển tập thơ dày nhất Việt Nam (hơn
2000 trang, gồm 3 tập). Thuộc thế hệ kế tiếp đội ngũ các nhà thơ dân tộc có tên tuổi

vững chắc, Dương Thuấn đã tiến thêm một bước đến gần hơn với độc giả trẻ, bởi
thơ Dương Thuấn rất gần gũi, thân thuộc, đồng cảm với những người trẻ tuổi, do đó
mà thơ ơng được đông đảo bạn đọc trẻ yêu mến.

1


Dấu ấn folklore Tày – Nùng in đậm tạo nên phong cách riêng cho thơ Dương
Thuấn, vừa dồi dào chất liệu văn hóa dân gian, vừa đậm đà hương vị văn học dân
gian dân tộc. Thơ ơng như chính con người ông, đối với quê hương như bát nước
đầy, thủy chung đầu cuối, gắn bó sắt son, chân thành, đằm thắm. Đọc thơ Dương
Thuấn mà ngỡ như tìm lại được lời ru của bà của mẹ vương vít trên nương hay văng
vẳng đâu đây trong nhà sàn những đêm cả nhà quây quần bên bếp lửa. Nhịp thơ như
nhịp cây đàn tính quê hương, tiếng thơ như tiếng Lượn, tiếng Sli, hồn thơ như hồn
dân tộc, càng đi xa càng muốn về gần. Trong thời đại hội nhập ngày nay, cùng với
cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự phát triển vượt bậc của kinh
tế - xã hội và những đổi thay lớn lao của thời cuộc đã tác động mạnh mẽ và làm
biến đổi nhiều mặt của đời sống xã hội cũng như đời sống văn hóa truyền thống, thì
những gì thơ Dương Thuấn đã đem lại càng trở nên đáng trân quý, nâng niu.
Là một đứa con dân tộc Tày – Nùng của núi rừng Việt Bắc, lớn lên và chứng
kiến nhiều giá trị truyền thống của dân tộc mà mình hằng yêu mến, tự hào đang dần
mai một, đang dần mất đi, thì đối với cá nhân tôi, những thứ mà nhà thơ Dương
Thuấn đang cố gắng, nỗ lực giữ gìn, bảo tồn cũng chính là những điều tơi muốn làm
nhưng khả năng của bản thân còn hạn chế, bằng sự ngưỡng mộ và kính trọng sâu
sắc, tơi đã chọn “Dấu ấn folklore Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn” làm đề tài
cho luận văn thạc sĩ của mình.
II. Mục đích nghiên cứu.
Thơng qua việc nghiên cứu, tìm hiểu thơ Dương Thuấn, chúng tơi muốn làm
rõ những dấu ấn của folklore Tày – Nùng trong thơ ông để thấy được sự ảnh hưởng
sâu sắc của văn hóa và văn học truyền thống dân tộc trong q trình sáng tác của tác

giả, qua đó khẳng định những đóng góp của Dương Thuấn trong việc bảo lưu, giữ
gìn những nét đẹp của folklore dân tộc.
III. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Lịch sử nghiên cứu ảnh hưởng Folklore trong văn học viết: Folklore trong
văn học viết đã được khá nhiều nhà nghiên cứu trong nước chú ý đến. Tuy chưa có
một cơng trình nào thật sự vĩ mơ, nhưng cũng đã có một số lượng khá phong phú
những bài nghiên cứu trên các tạp chí có đề cập đến folklore trong văn học viết, tiêu

2


biểu có thể kể ra như Lê Kinh Khiêm với bài viết nghiên cứu về quan hệ giữa văn
học dân gian và văn hóa, in trên tạp chí Văn học, số 1, năm 1980; Chu Xuân Diên
với bài viết Nhà văn và sáng tác dân gian trên Tạp chí Văn học, số 1, năm 1981; Bùi
Nguyên với bài viết Âm vang tục ngữ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi trên
Tạp chí văn học; hay Đặng Thanh Lê với bài viết Văn hóa dân tộc qua bài thơ Mời
Trầu – Hồ Xuân Hương; Nguyễn Thế Việt với bài viết Từ kiệt tác Truyện Kiều nghĩ
về quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết… Và một số sách như cuốn tự sự
dân gian trong văn xuôi Việt Nam hiện đại của Vũ Quang Trọng, Nxb Khoa học xã
hội, 1990; Cuốn M.Gorki và văn nghệ dân gian của Hồ Sĩ Vịnh, Nxb Văn hóa
Thơng tin… Nhìn chung, các bài nghiên cứu đều tập trung làm bật lên yếu tố
folklore trong các tác phẩm văn học viết, qua đó khẳng định sức sống bền bỉ, mãnh
liệt của folklore trong văn học thành văn.
Lịch sử nghiên cứu ảnh hưởng của Floklore Tày – Nùng trong thơ Dương
Thuấn: Dương Thuấn là một nhà thơ dân tộc Tày có dấu ấn riêng biệt trong văn học
các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Cho đến
nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về các thi phẩm của Dương Thuấn. Trong
đó có giá trị hơn cả là các bài viết trong cuốn “ Dương Thuấn - Hành trình từ Bản
Hon” do thạc sĩ Đỗ Thị Thu Huyền tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Hội Nhà văn ấn
hành năm 2009. Cuốn sách này đã tập hợp gần 50 bài viết của các nhà phê bình. Cái

tên Dương Thuấn cịn được nhắc đến nhiều trong những cơng trình nghiên cứu về
văn học các dân tộc thiểu số và là đối tượng trong một số bài viết của nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận, đánh giá, đề
cập đến một vài tác phẩm, vài khía cạnh cụ thể chứ chưa có một cơng trình nào đi
sâu khảo sát, nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện về những ảnh hưởng
của folklore Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn.
IV. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là toàn bộ những sáng tác của
Dương Thuấn, nhưng do khuôn khổ hạn chế của bài viết, chúng tôi tập trung đi sâu
vào khai thác những tác phẩm mang đậm dấu ấn folklore Tày – Nùng trong thơ
Dương Thuấn.

3


V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tài liệu: kế thừa những cơng trình nghiên cứu, những
bài viết, luận văn, các bài báo, tạp chí và các tài liệu online, chúng tơi tiến hành tra
cứu và phân tích tài liệu, sàng lọc những vấn đề có liên quan và những tài liệu này
cũng chính là tiền đề khoa học gợi mở, tạo điều kiện cho chúng tôi thực hiện
nghiên cứu đề tài này.
Phương pháp liên ngành: Nghiên cứu văn học khơng thể nào tách rời với
nghiên cứu văn hóa, đặc biệt là dấu ấn văn học dân gian lại mang dấu ấn văn hóa
dân gian sâu sắc. Vì vậy, bài viết soi chiếu các vấn đề văn học dưới góc nhìn văn
hóa dân tộc để thấy được đầy đủ tồn diện các khía cạnh của vấn đề ở các phương
diện khác nhau.
Phương pháp thi pháp học: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu nhằm
khám phá những nét đẹp về hình tượng nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, không gian
nghệ thuật cũng như làm bật lên những ảnh hưởng của thi pháp văn học dân gian
truyền thống dân tộc Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn.

Ngoài ra chúng tơi cịn sử dụng các phương pháp khác như phân tích, so
sánh, thống kê, tổng hợp… với các mức độ khác nhau trong bài viết này.
VI. Bố cục.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục tham khảo và phụ lục thì luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về dân tộc Tày –Nùng và Folklore Tày – Nùng.
Chương 2. Dấu ấn văn hóa dân gian Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn.
Chương 3. Dấu ấn ngữ văn dân tộc Tày – Nùng trong thơ Dương Thuấn.

4


PHẦN NỘI DUNG.
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY – NÙNG VÀ FOLKLORE
TÀY – NÙNG.
1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày – Nùng ở Việt Nam.
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên – xã hội, cảnh quan thiên nhiên và
lịch sử tộc người.
1.1.1.1 Về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên – xã hội và cảnh quan thiên nhiên.
Người Tày – Nùng ở Việt Nam hiện có khoảng 2.333.926 người (theo số liệu
Tổng điều tra dân số năm 1999, trong đó người Tày chiếm 1.477.514 người, người
Nùng chiếm 867.412 người), là dân tộc thiểu số có số dân đông đảo nhất, cư trú rải
rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, nhưng tập trung nhiều ở khu vực miền núi phía
Bắc, đặc biệt là Đơng Bắc, mật độ dày đặc nhất ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lạng Sơn… Đây là nơi có địa hình dạng cánh cung với những dãy núi đá vơi
trung bình và thấp, đan xen vào đó là các thung lũng hẹp, khí hậu mát mẻ, có mùa
đơng lạnh, sinh giới phong phú, đa dạng về chủng loại. Cảnh quan gắn liền với đồi
núi, cỏ cây, thiên nhiên còn nhiều nét hoang sơ dẫu nhiều nơi đã bị tàn phá, khai
thác phục vụ cho những mục đích khác nhau của con người.
Người Tày – Nùng tụ cư chủ yếu ở các thung lũng quanh chân núi - nơi đất

đai thổ nhưỡng tương đối màu mỡ, có nguồn nước dồi dào, khí hậu nóng ẩm thích
hợp cho trồng trọt và chăn ni, cịn phía trên sườn núi hay đỉnh núi cao là nơi sinh
sống của đồng bào Dao, H’mông. Đặc trưng sinh thái tộc người này đã được hình
thành và ổn định từ rất lâu, trải qua nhiều thế hệ, tạo nên truyền thống ứng xử với
môi trường và những tri thức bản địa hết sức phong phú, đa dạng. Người Tày, Nùng
là các tộc người thung lũng, phân biệt với các tộc người sinh sống ở rẻo giữa và rẻo
cao. [41] .Sau 1975, một bộ phận đồng bào Tày, Nùng tới hơn mấy chục ngàn
người di cư vào phía Nam, trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên như Đắc Lắc, Lâm
Đồng, Đồng Nai, Gia Lai, Kon Tum… đây là sự kiện mang tính bước ngoặt trong
việc mở rộng địa bàn cư trú của người Tày, Nùng từ vùng thung lũng miền núi phía
Bắc đến miền sơn nguyên đất đỏ phía Nam.

5


Thiên nhiên núi rừng có nhiều ưu đãi, đem đến những tiềm năng kinh tế to
lớn về cả nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp nặng và tiểu thủ công nghiệp, trong
đó nơng nghiệp giữ vai trị chủ đạo và quan trọng nhất. Người Tày - Nùng đã biết
cách thích ứng, và phát triển trong điều kiện tự nhiên như vậy, tuy nhiên, do còn
nhiều hạn chế về phương pháp và trình độ nên chưa khai thác một cách triệt để và
có hiệu quả nhất những lợi thế ở địa bàn cư trú và đơi khi có những tác động tiêu
cực đến môi trường tự nhiên.
Bên cạnh những ưu đãi, thuận lợi thì thiên nhiên cũng là một thử thách với
đời sống của họ. Các thiên tai tự nhiên do hệ quả xấu của những hành động tàn phá
môi trường của con người như xói mịn đất đai, lũ lụt, hạn hán, sương giá, cùng với
địa hình khơng bằng phẳng nhiều dốc đứng làm hạn chế về giao thông… đã tạo ra
rất nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế của đồng bào Tày - Nùng.
1.1.1.2. Về nguồn gốc, lịch sử dân tộc Tày – Nùng.
Tày, Nùng là hai tộc người có nhiều nét tương đồng do có sự giao thoa, ảnh
hưởng văn hóa rất mạnh mẽ, sâu sắc lẫn nhau, đồng thời, lại có tác động lan tỏa

mạnh mẽ đến văn hóa của cộng đồng các dân tộc cùng cộng cư.
Trong suốt chiều dài lịch sử, hai tộc người Tày – Nùng chia sẻ với nhau địa
bàn sinh sống, họ sống đan cài xen lẫn nhau, có tác động qua lại lẫn nhau trong
nhiều mặt của đời sống lao động và đời sống văn hóa. Người Tày – Nùng tuy về
ngơn ngữ có đơi chút khác biệt, nhưng họ đều có thể dễ dàng nghe hiểu được nhau,
thậm chí, họ còn cùng nhau sáng tạo ra nhiều giá trị chung mang đậm bản sắc của
cả hai dân tộc.
Người Tày – Thái cổ có mặt ở vùng Đơng Bắc Việt Nam từ rất sớm, có thể
từ cuối thiên niên kỉ I trước Công nguyên. Các truyền thuyết Pú Lương Quân, Cẩu
Chủa Cheng Vùa nói về sự có mặt của họ từ những thời kỳ xa xưa ở Việt Nam và
những cơng tích của họ trong xây dựng đất nước. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm,
do chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác, họ đã dần dần bị phân hóa, trở thành
những bộ phận cư dân khác nhau. Trong cộng đồng người Tày hiện nay, còn bao
gồm cả một bộ phận người Việt từ vùng đồng bằng lên miền núi (quan lại triều đình
lên trấn ải biên cương, theo chế độ lưu quan…) qua nhiều thế hệ đã bị Tày hóa.

6


Người Tày cổ đã cùng với người Việt cổ dựng nên nhà nước Âu Lạc và theo truyền
thuyết của người Tày ở vùng Cao Bằng thì An Dương Vương Thục Phán chính là
người Tày cổ.
Trong cuốn Văn hóa dân gian Tày Nùng ở Việt Nam, nhóm các nhà nghiên
cứu do Hà Đình Thành chủ biên [41] có giải thích về nguồn gốc tên gọi dân tộc Tày
Nùng như sau: Tày là tên gọi có từ lâu đời, có nguồn gốc chung với tên gọi của
nhiều dân tộc thuộc nhóm Thái – Choang ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á như
Tai, Tay, Táy, Thai… đều có nghĩa chung là “người”. Người Tày ở Việt Nam cịn
có tên gọi khác là Thổ, có nghĩa là người vốn ở đất này từ lâu, nên những người tới
sau gọi họ là Thổ (thổ trước), tuy nhiên, tộc danh này khơng chỉ có ở người Tày mà
còn là tên gọi của một số cư dân bản địa khác.

Tộc danh Nùng có thể có nguồn gốc từ tên dịng họ Nùng, một dịng họ có thể
lực ở Tả Giang và Hữu Giang tỉnh Quảng Tây thời nhà Đường. Nếu ở người Tày
hầu như khơng có sự phân biệt rõ rệt giữa các nhóm địa phương thì ở người Nùng
điều này là nét nổi bật. Hiện tại nếu căn cứ vào tên gọi của các nhóm người Nùng
có thể phân chia thành 2 loại: a/ Loại tên gọi căn cứ vào đặc trưng trang phục
thường do những người láng giềng của họ gọi, như Nùng Khen Lài (người Nùng
mặc áo có các khoanh vải màu), Nùng Hu Lài (người Nùng đội khăn chàm có đốm
trắng), Nùng Slử Tỉn (người Nùng mặc áo ngắn chấm mông)… b/ Loại tên gọi theo
địa danh, nơi họ sinh sống trước khi di cư tới Việt Nam, như: Nùng An (từ châu An
Kết), Nùng Inh (từ châu Long Anh), Nùng Phàn Slình (từ châu Vạn Thành), Nùng
Cháo (từ Long Châu), Nùng Quý Rịn (từ Quy Thuận), Nùng Lòi (từ châu Hạ Lơi)…
Ngồi ra cịn có các tên gọi khác mà giới khoa học chưa xác định được nguồn gốc,
như: Nùng Dín, Nùng Xuồng, Nùng Tùng Xin, Nùng Viền, Nùng Chủ…
Rõ ràng, các tên gọi kể trên hình thành trong quá trình phân hóa cộng đồng
người Nùng (nằm trong khối Nam Choang), khi họ di cư theo những con đường
khác nhau, vào các thời điểm khác nhau tới Việt Nam. Khi tới Việt Nam, họ lại sống
tách biệt, xen cài với các tộc bản địa, nên được các cư dân bản địa gọi với các tên
gọi khác nhau.(…)

7


Mặc dù có cùng nguồn gốc từ xa xưa, nhưng trong quá trình phát triển đã
tách thành hai tộc người riêng. Tuy nhiên, ít nhất từ hai trăm năm này, hai tộc
người này đã cùng sống chung xen cài ở vùng Việt Bắc, nên đã và đang diễn ra quá
trình tiếp xúc, giao lưu ảnh hưởng qua lại. Không kể những bộ phận người Nùng
hóa Tày hay ngược lại thì giữa Tày và Nùng cũng đang hình thành những yếu tố
văn hóa chung Tày – Nùng, thể hiện trong ngơn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, văn
học nghệ thuật… khiến nhiều nhà nghiên cứu ngày nay lúng túng khi phân biệt văn
hóa Tày hay Nùng.

Người Nùng di cư sang Việt Nam trong khoảng vài trăm năm trở lại đây,
trong quá trình sinh sống đan xen với người Tày, đã bị người Tày đồng hóa bởi
người Tày có một nền văn hóa bản địa rất mạnh, họ thậm chí cịn đồng hóa những
quan lại người Kinh lên vùng Cao Bằng theo triều nhà Mạc, nên mới có câu “Kinh
già hóa thổ” là như vậy. Như vậy, từ gốc chung là Thái – Choang, cộng đồng Tày –
Nùng đã diễn ra quá trình phân ly cách đây 2, 3 ngàn năm, nay lại hội nhập trở lại.
Hôn nhân hỗn tạp giữa người Tày và người Nùng đã trở nên phổ biến, là một nhân
tố thúc đẩy quá trình hội nhập của cộng đồng người Tày, Nùng với nhau.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập, đồng bào
Tày - Nùng đã có những đóng góp hết sức to lớn trong việc bảo toàn sự toàn vẹn
lãnh thổ vùng biên cương phía Bắc của Tổ quốc, chống lại sự bành trướng của các
thế lực phong kiến ngoại bang.
Từ khi Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời (1930), các cơ sở Cách mạng lần
lượt được xây dựng tại các tỉnh Việt Bắc. Nhiều người con ưu tú của dân tộc Tày,
Nùng đã sớm giác ngộ cách mạng, trở thành những Đảng viên Cộng sản lớp đầu
tiên, tiêu biểu như Hoàng Văn Thụ, Hồng Đình Dong… Đến khi Bác Hồ về nước
(1941), vùng Việt Bắc trở thành quê hương Cách Mạng, là căn cứ địa vững chắc
cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 lịch sử, dựng nên nhà nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Việt Bắc lại được
vinh dự chọn làm thủ đơ gió ngàn, là nơi đóng trụ sở của các cơ quan trung ương và

8


cũng là nơi làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều vị lãnh đạo cao cấp khác
của Đảng và Nhà nước.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhiều con em người Tày Nùng đã gia
nhập các lực lượng vũ trang, trực tiếp cầm súng chiến đấu hoặc tham gia thanh niên
xung phong, làm nhiệm vụ mở đường, vận tải vũ khí, khí tài, lương thực, thực phẩm

phục vụ cho các chiến dịch. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt là trong
thời kì đổi mới, người Tày – Nùng lại ra sức phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội,
góp phần to lớn vào cơng cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nơng thơn mới, làm
giàu cho bản thân mình và quê hương, đất nước.
1.1.2. Nghệ thuật tạo hình dân gian.
1.1.2.1. Ẩm thực
Cơm là thực phẩm chính trong bữa cơm hàng ngày của người Tày – Nùng.
Cây ngơ đóng một vai trị quan trọng trong sinh hoạt của đồng bào Tày
Nùng. Ngô là thức ăn cho gia cầm, thân ngô, là ngô là thức ăn cho gia súc, những
ngày giáp hạt, ngô trở thành nguồn lương thực quan trọng, đồng bào Tày Nùng xay
nhỏ ngô để nấu cháo (cháo bẹ), hoặc giã nhỏ để nấu độn với cơm, cháo…
Người Tày Nùng có vườn để trồng rau và cây ăn quả. Các loại rau chính
thường là khoai lang, khoai sọ, các loại rau, đậu…
Gia súc và gia cầm chủ yếu được ni để lấy phân bón, sức kéo, thịt…
Một số nơi phát triển nghề nuôi ong lấy mật để ăn hoặc làm thuốc.
Nhiều nơi vùng thấp còn có ao cá hoặc thả cá ruộng, vừa làm sạch ruộng,
vừa cải thiện bữa ăn.
Xôi là một nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực của người Tày Nùng. Xơi ngũ
sắc hay cịn gọi là xơi đăm đeng (xơi đỏ đen), được làm từ gạo nếp và các loại lá
rừng. Xơi thường có 5 màu cơ bản: đỏ, đen, trắng, vàng, tím, ngồi ra cịn có màu
xanh cốm, màu xanh cổ vịt…. Tùy vào các loại lá và cách chế biến khác nhau mà
khi ngâm với gạo sẽ có những màu sắc khác nhau… Những lá cây thường được
dùng để nhuộm xơi gồm là cẩm (màu tím và màu đỏ, màu xanh), là cây sâu sâu
(màu đen), hoa Bjóc phón… (màu vàng…) tất cả đều có nguồn gốc từ lá cây rừng
vừa có màu đẹp tự nhiên, vừa có tác dụng làm thuốc chữa bệnh. Đồng bào Tày

9


Nùng quan niệm ăn xôi ngũ sắc vào những dịp lễ Tết sẽ đem lại nhiều may mắn.

Ngồi xơi ngũ sắc, người Tày Nùng cịn có xơi trám, xơi trứng kiến, xơi rau ngót,
xơi bảy màu…
Người Tày Nùng có truyền thống làm các loại bánh từ bột gạo nếp. Đặc sắc
như bánh dày, bánh gai, bánh dợm… Và các loại bánh khác như cc mị, bánh sắn,
bánh mật, bánh củ chuối, bánh trứng kiến và cơm lam…
Người Tày Nùng từ rất xa xưa đã biết lấy măng rừng, ớt, tỏi, quả mác mật
đem chế biến thành măng ớt dùng làm gia vị trong các bữa ăn. Măng ớt hiện nay đã
trở thành đặc sản và được giới thiệu rộng rãi ra nhiều vùng lân cận.
Sinh hoạt gắn với thiên nhiên nên người Tày Nùng biết cách nhận biết các
loại rau rừng. Các loại rau tiêu biểu như bò khai, khỉ cáy, thau ca, rau ngót rừng…
vừa có giá trị về ẩm thực, vừa là thuốc chữa bệnh.
Trong lễ hội của người Tày Nùng ln có trứng màu (trứng gà nhuộm xanh
đỏ), khẩu sli, một số vùng cịn có bánh khảo, bành chè lam…
Người Tày Nùng nói chung, về cách chế biến thức ăn, thường chuộng xào
nấu, chiên nướng, nhiều dầu mỡ, bởi lẽ địa hình núi cao, mùa đơng lạnh, cơ thể cần
dung nạp nhiều chất béo để có đủ năng lượng chống chọi với cái lạnh giá mùa đông.
Người Tày Nùng trong q trình chế biến thức, cũng ít quan trọng về bày vẽ
trang trí, hình thức, màu sắc mà chú trọng nhiều đến mùi vị món ăn. Các món ăn
cũng thường cầu kì về gia vị, sử dụng tương đối nhiều các gia vị của núi rừng như
bột khinh phja (gừng núi), bột hạt mác mật, hung lìu…
1.1.2.2. Trang phục
Theo phó giáo sư – tiến sĩ Lê Bá Nam trong lời giới thiệu cuốn Văn hóa các
dân tộc Việt Nam của thạc sĩ Đỗ Thị Hòa (NXB Văn hóa dân tộc -2004) thì “Trang
phục là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa tộc người và là một trong
những sáng tạo lớn của nhân loại. Chính vì thế có thể coi trang phục là bức thơng
điệp của các cộng đồng dân cư về quá trình lịch sử và giao lưu văn hóa. Thơng qua
trang phục, chúng ta có thể giải mã về q trình tộc người, các tri thức bản địa,
quan niệm của tộc người về thẩm mĩ, về nhân sinh quan và thế giới quan trong môi
trường tự nhiên và xã hội.”[13, tr.5]


10


Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, sắc thái văn hóa Việt Nam vừa thống nhất
vừa đa dạng. Trang phục các tộc người là một hiện tượng văn hóa đặc sắc, nó
khơng chỉ là thành tố quan trọng góp phần tạo nên những giá trị văn hóa truyền
thống của các tộc người mà nó cịn tạo nên sắc thái văn hóa riêng độc đáo cho từng
dân tộc, từng nhóm ngơn ngữ và từng vùng văn hóa.”[13, tr.7]
Người Tày Nùng sinh sống và canh tác hòa hợp với thiên nhiên, trang phục
của họ cũng phù hợp với điều kiện thiên nhiên và canh tác ấy. Trang phục của
người Tày Nùng ăn mặc chân phương, giản dị, theo phương châm “ăn chắc mặc
bền”, quần áo được cắt may đơn giản, thường là tối màu, được làm bằng sợi tơ tằm
hoặc vải bông nhuộm chàm do họ tự trồng bông, kéo sợi, dệt và nhuộm vải. Áo
chàm có tác dụng chống nắng vào mùa hè, giữ ấm vào mùa đông, màu áo làm cho
con người trở nên hài hòa hơn với thiên nhiên núi rừng. Trang phục của họ có sự
phân biệt theo giới tính và lứa tuổi.
Trang phục nam giới người Tày Nùng cũng như nhiều dân tộc miền núi
khác, gồm áo cánh ngắn, áo dài, quần, khăn và giầy. Bộ nữ phục Tày Nùng thì
tương đối phức tạp hơn, có nhiều bộ phận và chi tiết khác nhau, nhưng tựu chung
lại thì gồm có: áo cánh ngắn, áo dài, váy, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, tạp dề, xà
cạp, giày vải và các đồ trang sức khác. Quần áo trẻ em Tày Nùng về cơ bản cũng
giống như quần áo của người lớn nhưng được giản tiện hơn, thường được cắt may
lại từ quần áo cũ của người lớn.
Đồ trang sức: Đồ trang sức của người Tày và Nùng thường được làm từ bạc
trắng. Nam giới thường đeo vòng tay, vịng cổ, nhẫn bạc, phụ nữ cũng vậy nhưng có
thêm khuyên tai và bộ xà tích bằng bạc ở ngang lưng. Dây xà tích là thứ trang sức
khơng thể thiếu được khi mặc áo dài truyền thống, một đầu dắt vào thắt lưng, đầu
kia buông thõng tự nhiên, khi người phụ nữ di chuyển, bộ xà tích ánh lên màu trắng
bạc, uyển chuyển nhịp nhàng theo từng cử động của người phụ nữ, tô điểm thêm
cho nét duyên dáng của họ.

Người Tày – Nùng quan niệm, bạc trắng không chỉ làm tơn thêm vẻ đẹp, phơ
trương sự giàu có, đầy đủ, sung túc mà cịn có tác dụng bảo vệ sức khỏe, giúp họ
tránh được gió máy, thậm chí ma tà… Người Tày Nùng cho rằng người khỏe đeo

11


bạc thì bạc sẽ giữ được màu trắng sáng, cịn nếu cơ thể yếu hay khi bị ốm, bạc sẽ bị
sạm, xỉn màu, vì thế, mỗi khi bị ốm đau, trúng gió, đồng bào Tày Nùng vẫn thường
lấy bạc trắng để đánh gió giải cảm.
Hoa văn, họa tiết trang trí trên sản phẩm may mặc: Trên các sản phẩm
may mặc của người Tày Nùng, tuy khơng diêm dúa, cầu kì với các họa tiết thêu
thùa bắt mắt như trang phục của người Dao, người Mông… nhưng các hoa văn họa
tiết trang trí của người Tày Nùng lại rất nhã nhặn, tinh xảo, và thanh thốt. Có thể
phân thành các dạng cơ bản sau: Một là, hoa văn hoa, lá, quả; Hai là, hoa văn hình
động vật; Ba là, hoa văn hình người; Bốn là, hoa văn hình học.
Thật đáng tiếc là ngày nay, cùng với xu thế hội nhập và hiện đại hóa, sự phát
triển của giao thơng và các phương tiện truyền thông đại chúng đã thúc đẩy sự giao
lưu kinh tế, văn hóa giũa các vùng miền, các dân tộc, kéo theo những hệ quả không
mong muốn là những nét văn hóa truyền thống của dân tộc đang dần đứng trước
nguy cơ bị mai một. Những bộ quần áo truyền thống của người Tày Nùng hiện tại
chỉ còn có thể nhìn thấy ở những nơi vùng sâu, vùng xa, và chỉ còn những người lớn
tuổi mặc vào những ngày lễ tết hay cưới xin, còn đại đa số nam nữ thanh thiếu niên
người Tày, Nùng đã bị ảnh hưởng và tiếp thu sâu sắc lối ăn mặc hiện đại của người
Kinh.
1.1.2.3. Kiến trúc nhà ở.
Nhà sàn (rườn chạn), là kiểu nhà truyền thống của người Tày Nùng. Nhà sàn
của người Tày và người Nùng nhìn chung giống nhau, chỉ khác ở một số tiểu tiết.
Người Tày Nùng có câu tục ngữ “Nhìn đàn ơng thì nhìn ngơi nhà, nhìn đàn bà thì
nhìn bếp lửa” (Ngịi vỏ chài lẻ ngịi ăn rườn, ngịi mẻ nhình lẻ ngịi kiềng phầy), thể

hiện tầm quan trọng của ngôi nhà mà đại gia đình cùng chung sống.
Nếu có dịp đến với nơi Việt Bắc của Tổ quốc, có lẽ hình ảnh mái nhà sàn
bình yên nép mình bên những chân đồi, chân núi sẽ để lại cho chúng ta những ấn
tượng đẹp. Những ngơi nhà lẻ hay những chịm bản lấp ló đâu đó dưới những tán
cây, làn khói chiều mềm mại len qua những kẽ hở của mái ngói âm dương vờn bay
trong tiếng mõ trâu về bản, tiếng trẻ con nô đùa, tiếng gà giục nhau vào ổ gợi nhắc
nét gì đó hoang sơ và thanh thản, gợi nhắc về một cuộc sống giản dị và ấm áp tình

12


người… Mỗi ngôi nhà nằm trong một khuôn viên riêng với hàng rào bao bọc xung
quanh. Bên cạnh nhà chính cịn có một vài cơng trình kiến trúc khác như nhà phụ,
sàn phơi, chuồng lợn, chuồng trâu, chuồng gà, am thờ Thổ cơng… Nhà gồm 3 loại
hình chính là nhà sàn (3 gian, diện tích sàn khoảng 100 – 120m2, là kiểu truyền
thống, đã có từ rất lâu đời), nhà đất (mới xuất hiện trong vài thập kỉ gần đây do chịu
ảnh hưởng của người Việt) và nhà phòng thủ. Tuy nhiên, mỗi vùng, mỗi địa
phương, kiểu dáng ngôi nhà, nguyên vật liệu làm nhà có khác nhau…
Nhà sàn là kiểu kiến trúc nhà ở đặc biệt, phù hợp với điều kiện thiên nhiên
núi rừng. Nhà sàn được làm bằng gỗ, xung quanh ghép ván, dưới các cột gỗ chân
nhà sàn thường kê bằng cối đá, rất chắc chắn. Nhà có gầm sàn cao vừa khơ thống,
vừa để tránh thú dữ, trước đây gầm sàn cịn là nơi ni nhốt gia súc, gia cầm. Nhà
có gác để tích trữ lương thực và được coi là kho cất đồ. Nhà sàn của người Tày
Nùng thường có sàn phơi lộ thiên để phơi phóng quần áo, lúa, ngơ, khoai, sắn và là
nơi nghỉ ngơi, hóng mát, nơi cán bơng, kéo sợi, may vá... Sàn phơi thường được
ghép từ thân những cây vầu già, bốn góc có trụ chống chắc chắn, cao bằng hoặc
thấp hơn một chút so với sàn nhà.
Nhà sàn bao giờ cũng có hai cầu thang lên nhà, cầu thang dành riêng cho
nam giới và khách đặt ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía, cầu thang dành cho
nữ giới đặt ở hông nhà, thường thông vào bếp. Dưới chân cầu thang nhà sàn của

người Tày Nùng bao giờ cũng có các ống nước hoặc bắc các máng nước để khách
rửa chân trước khi lên nhà.
Nhà sàn là nơi diễn ra mọi sinh hoạt hàng ngày của người Tày Nùng. Trong
nhà sàn, nơi tôn nghiêm nhất là nơi đối diện cửa chính – nơi đặt bàn thờ thờ cúng tổ
tiên. Bếp cũng là nơi quan trọng trong nhà sàn, đó là nơi chế biến thức ăn, nơi cả
nhà quây quần đoàn tụ sưởi ấm. Người Tày – Nùng kiêng gõ bát đĩa xoong chảo,
kiêng nhổ bọt vào tro bếp vì tin rằng có vua bếp trú ngụ và trơng nom, chứng kiến
mọi việc làm trong nhà. Vì thế nhiều nơi còn đặt bàn thờ vua bếp.
1.1.2.4. Các nghề thủ công truyền thống
Nghề mộc: Cuộc sống của đồng bào Tày – Nùng gắn liền với núi rừng cây
cỏ, các vật dụng sinh hoạt hằng ngày của họ vì thế mà cũng đều được làm từ gỗ.

13


Không giống như miền xuôi, hầu như đồng bào Tày – Nùng khơng có người nào
chun làm gỗ mộc, mà phàm là đàn ông của núi rừng, ai cũng đều giỏi đi rừng,
đốn gỗ làm đồ mộc, các đồ dùng trong nhà hầu hết là do họ tự chế tác ra. Từ cây gỗ
tươi hoặc ngâm nhiều ngày dưới ao, người Tày Nùng chế ra các công cụ phục vụ
lao động sản xuất như cái cày, bừa, máng gỗ, cối nước giã gạo (chộc nặm), cối xay
thóc, dụng cụ ép mía, cán bơng, bật bơng, guồng sợi, khung cửi, đóng xe trâu, xe
ngựa… các công cụ phục vụ sinh hoạt như chõ đồ xôi, khuôn ép bún, nồi nấu rượu,
chạn bát, chậu gỗ, máng gỗ, bàn ghế giường tủ, rương hịm… Nhìn chung các sản
phẩm mộc của người Tày Nùng đều giản dị chân phương, khơng cầu kì trang trí, chỉ
thiên về chắc chắn, tiện dụng.
Nghề đan lát: Đan lát là một nghề phụ của đồng bào Tày Nùng gắn với cuộc
sống sinh hoạt tự cấp tự túc, trong những lúc rảnh rỗi nơng nhàn họ thường vót
mây, tre, nứa, đan lát thành các vật dụng phục vụ cho lao sộng sản xuất và sinh hoạt
của gia đình, cũng có khi làm được nhiều, người ta có thể đem ra chợ bán hoặc trao
đổi. Các sản phẩm đan lát chủ yếu bao gồm các đồ dùng để đựng và mang vác như

bồ thóc, sọt, giỏ, làn, thạ, dậu… các dụng cụ để phơi phóng như chiếu nong, chiếu
cót, giần, sàng, mẹt… đan lát hàng rào, phên liếp, đan gianh lợp mái nhà. Các sản
phẩm đan lát của người Tày Nùng rất bền, chắc, tinh tế, thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ
của đồng bào trong thủ công.
Nghề rèn: Các làng nghề rèn của đồng bào Tày Nùng tuy không nhiều
nhưng khá nổi tiếng, nhất là làng rèn Phúc Sen của người Nùng An ở Cao Bằng.
Các sản phẩm rèn khá phong phú, có thể cung ứng đầy đủ nhu cầu về dụng cụ sản
xuất và đồ gia dụng cho các gia đình. Các sản phẩm rèn của người Tày Nùng đạt
đến sự đồng bộ về sản phẩm của trọng lượng cùng chủng loại và kiểu dáng. Ngoài
ra các đường nét trên sản phẩm được tỉa, chạm, đánh bóng khá cẩn thận. Các sản
phẩm rèn là những sản phẩm cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt thường ngày như: dao,
liềm, kéo cắt vải.
Nghề đục đá: Các sản phẩm chính của nghề đục đá của người Tày Nùng
gồm các dụng cụ gia dụng như cối xay, cối giã, trục lăn, đá tảng kê chân cột nhà và

14


đá xếp cầu thang. Ngồi ra ở một sơ vùng có nhiều núi đá vơi, đồng bào cịn đục đá
để rào vườn, rào nương và rào làng.
Nghề làm ngói: Cũng là một nghề thủ cơng truyền thống thể hiện tính tự
cung tự cấp trong sinh hoạt của người Tày Nùng. Ngun liệu chính để làm ngói là
đất sét mịn và củi hoặc than để đun ngói. Ở cộng đồng người Tày Nùng khơng hình
thành lớp người chun làm nghề gạch ngói như ở miền xi, thường thì người ta tự
sản tự tiêu, chỉ dựng lị làm ngói khi nào cần có ngói để lợp nhà. Ngói của người
Nùng An thường to bản, dày đều và được nung chín kỹ nên ngói lợp rất dơi, bền
lâu, khi vận chuyển ít bị bể vỡ.
Nhìn chung, nghệ thuật tạo hình dân gian Tày Nùng khá giản dị, chân
phương, mộc mạc, hài hòa với cảnh quan mơi trường tự nhiên, thể hiện sự thích
nghi và hịa nhập của con người đối với mơi trường sinh hoạt. Nghệ thuật tạo hình

dân gian Tày Nùng có tính hữu dụng cao thể hiện nhận thức thẩm mỹ hài hịa, khả
năng thích nghi với mơi trường linh hoạt, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa tự nhiên
với con người. Bên cạnh những nét tương đồng, nghệ thuật tạo hình dân gian Tày
Nùng cũng có những nét dị biệt, điều này thể hiện đặc trưng riêng của dân tộc trong
hệ thống tạo hình nói chung.
Nghệ thuật tạo hình dân gian Tày Nùng cũng có sự tiếp thu và ảnh hưởng
của các yếu tố bên ngoài, tiếp thu khoa học kỹ thuật để có những thay đổi phù hợp
với xu thế phát triển chung của thời đại, nhưng vẫn tiếp tục bảo lưu những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình, đưa các sản phẩm đặc trưng của dân tộc trở
thành hàng hóa được ưa chuộng trên thị trường như sản phẩm rèn của người Nùng
An, thổ cẩm của người Tày…
1.1.3. Nghệ thuật biểu diễn dân gian.
Biểu diễn hay cịn gọi là là hình thức diễn xướng dân gian, là môi trường tạo
dựng và tồn tại của văn hố dân gian. Diễn xướng là "có diễn (có hành động, có sự
việc) và có xướng (nói năng ca hát) nhưng thông thường người ta vẫn hiểu hai yếu
tố đó gắn bó với nhau. Diễn tuy khơng có lời nhưng lời câu vẫn là một cách thông
báo. Xướng tuy khơng có hành động nhưng vẫn gây cảm giác về một hành động"
[25,tr.13]. Các hình thức biểu diễn dân gian của dân tộc Tày – Nùng gồm có:

15


1.1.3.1. Âm nhạc và ca hát dân gian.
Âm nhạc chính là cánh cửa bước và thế giới tinh thần của tộc người. Cũng
như các dân tộc khác, âm nhạc dân gian Tày Nùng là những vốn quý mang bản sắc
riêng độc đáo, góp phần làm phong phú, giàu đẹp thêm chi kho tàng âm nhạc dân
gian Việt Nam.
Người Tày Nùng biết thổi kèn, sáo, đánh trống, la thanh, não bạt, kéo nhị,
gẩy đàn, nhất là đàn tính – một loại đàn có tính chất dân tộc độc đáo
Người Tày Nùng có nhiều bài hát ru con, ru em với mục đích dỗ cho trẻ con

ngủ ngoan, khơng khóc quấy. Nội dung các bài hát ru gắn liền với những hoạt động
lao động và cuộc sống sinh hoạt thường ngày của đồng bào như lên nương, ra
ruộng, lấy củi, chăn trâu, ra suối bắt cá…
Trẻ em Tày Nùng cũng có những bài hát đồng dao gắn liền với các trò chơi
của riêng mình. Các bài đồng dao này thường hồn nhiên, ngộ nghĩnh, phản ánh thế
giới quan của trẻ nhỏ hết sức phong phú, mộc mạc, đáng yêu. Các em có những bài
đồng dao bắt chuồn chuồn, gọi kiến, gọi gió, gọi mưa, gọi trăng, gọi sao, gọi đom
đóm bay ra khỏi bụi cây… Các bài đồng dao của trẻ em Tày Nùng thường được hát
lên với những giai điệu đơn giản, khác với đồng dao của trẻ em người Kinh chỉ bao
gồm lời thơ và trò chơi.
Trong thể loại dân ca giao duyên, các làn điệu Sli, Hà Lều (Nùng), Lượn,
Nàng ới (Tày) là phong phú hơn cả, phổ biến khắp các địa phương, hấp dẫn đối với
tất cả mọi người thuộc các giới, các lứa tuổi khác nhau.
Lượn là hình thức hát giao duyên trực tiếp bằng cách nam nữ đối đáp (lượn
cuộc). Người Tày Nùng, vì thế, gọi là Hắt lượn (làm lượn), nghĩa là trong quá trình
đối đáp, nam nữ không chỉ đơn giản là hát một bài mà còn là chủ thể sáng tạo, phải
ghi nhớ nhiều bài lượn và vận dụng chúng thật linh hoạt, phù hợp trong cuộc giao
duyên. Lượn giữa các vùng của người Tày là không giống nhau. Xét theo thể thơ
dùng làm ca từ người ta chia Lượn ra làm ba loại: Lượn Cọi (thể thơ thất ngôn),
Lượn Khắp (thể thơ tự do), Lượn Sương (thể thơ tứ tuyệt), trong đó Lượn Cọi là
phổ biến hơn cả.

16


Ngồi ra cịn phải kể đến phong slư. Có thể ví như các điệu hát ngâm của
người Việt. Được gọi là phong slư vì đó thường là những bài thơ tình được viết và
gửi cho nhau giữa thanh niên nam nữ. Lối hát thường chậm rãi, dàn trải theo kiểu
ngâm vịnh. Phong Slư là một làn điệu hát thơ riêng biệt, có kết cấu nhất định bằng
thể thơ thất ngơn gieo vần lưng triệt để với phong cách ngâm vịnh riêng biệt độc

đáo. Nam nữ thanh niên Tày - Nùng trước kia rất ít người biết chữ, nên trai gái
muốn viết thư tỏ tình với nhau thì phải thơng qua một người trung gian chuyên viết
thư gọi là slấy cá. Bởi thế, các lá thư tình này thường được đem ra đọc chung và
dùng làn điệu phong slư để ngâm hát theo nhịp thơ cho mọi người cùng nghe.
Ngoài ra cịn có các điệu then, những bài văn than (những bài con ca), ca
cúng trong đám ma, những bài ca trong đám cưới (gọi là cò lẩu).
Thiên nhiên rừng núi Việt Bắc hùng vĩ, hoang sơ, đồng bào Tày Nùng sống
chan hịa, bình dị, những điệu Sli, điệu Lượn vừa là bầu bạn, vừa gợi nhắc một cảm
giác tha thiết với cuộc sống và quê hương. Sli lượn là tài sản văn hóa tinh thần quý
báu của người Tày Nùng, nó là nghệ thuật diễn xướng dân gian có tính nghệ thuật
cao.
Nói đến âm nhạc dân gian dân tộc Tày, khơng thể khơng nhắc đên cây đàn
tính. Nếu như cây đàn bầu là biểu trưng cho hồn dân tộc Việt thì cây đàn tính chính
là lời của núi rừng chim mn cây cỏ, là nỗi lịng ghét thương, là tâm sự của đồng
bào Tày – Nùng đời đời kiếp kiếp.
Tiếng đàn tính khơng thể thiếu trong các dịp hội hè, lễ tết, trai gái giao
duyên. Người ta còn dùng tiếng đàn tính vỗ về, xoa dịu một ngày lao động vất vả,
tiếng đàn tính giúp trút bỏ những mệt mỏi, muộn phiền lo âu, và là nơi giãi bày gửi
gắm tâm tình. Qua thời gian, dọc theo chiều dài lịch sử và bề sâu văn hóa, nó trở
thành tiếng lịng, tiếng quê hương, trở thành thứ âm thanh thấm thía hồn dân tộc, mà
những người con xa xứ khắc khoải nhớ về.
Ngày nay, mặc dù các phương tiện truyền thông đại chúng đã phát triển
nhưng cây đàn tính dân tộc với sức sống bền lâu vẫn là một món ăn tinh thần không
thể thiếu của đồng bào Tày – Nùng. Và trước cơn lốc dữ dội của thời đại mới - thời
đại kinh tế thị trường, thì cây đàn tính vẫn được các nghệ nhân dân tộc giữ gìn và

17


bảo tồn, truyền lại niềm đam mê và vốn quý của dân tộc cho các thế hệ đi sau tiếp

thu và phát triển.
1.1.3.2. Múa dân gian.
Tày và Nùng là hai tộc người có tính cộng đồng cao, vì vậy các sinh hoạt văn
hóa tập thể rất phổ biến, đó là dịp để đồng bào sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật.
Trong những ngày lễ tết, hội hè hàng năm, người Tày Nùng thường múa các điệu
múa dân gian đặc sắc như múa chầu, múa quạt, múa giã cốm, múa tung còn, múa
hạc, múa xòe chiêng, múa lân, múa rồng, múa võ… Đây là những điệu múa truyền
thống chứa đựng những cảm xúc thẩm mỹ và cấu trúc nghệ thuật của đồng bào Tày
Nùng, đồng thời phản ảnh chân thực sâu sắc những khía cạnh sinh hoạt tinh thần
trong đời sống lao động và chiến đấu của đồng bào. Chúng hình thành và phát triển
trong mơi trường tự nhiên, văn hóa, kinh tế - xã hội của cộng đồng người Tày Nùng
và rất được nhân dân yêu thích.
1.1.3.3. Sân khấu và trò diễn dân gian.
Trong kho tàng diễn xướng dân gian Tày Nùng, chúng ta dễ dàng chọn lựa
được đầy đủ các yếu tố cơ bản của nghệ thuật sân khấu đích thực như diễn viên và
nghệ thuật biểu diễn, nhân vật và hành động sân khấu, người xe và sự thưởng thức.
Các yếu tố này bộc lộ không đồng đều và tập trung, mà rải rác nơi nhiều nơi ít, nơi
có nơi khơng. Đáng chú ý hơn cả là các diễn xướng lớn, các lễ hội mang tính chất
tiền sân khấu hay có thể gọi là nghệ thuật sân khấu dân gian. [41]
Nếu như người Kinh có múa rối nước thì người Tày Nùng lại có múa rối cạn
khơng kém phần đặc sắc. Trong một số lễ hội, trò múa rối cạn thu hút được sự chú ý
và yêu thích của đông đảo khán giả, bất kể người lớn hay trẻ em. Các con rối được
làm từ nguyên liệu chủ yếu là gỗ và giấy, được các nghệ nhân không chuyên tái
hiện lại những tích truyện cổ, thổi vào những con rối vô tri một linh hồn sinh động,
với những hành trình hấp dẫn.
Then là một diễn xưỡng tín ngưỡng phổ cập của đồng bào Tày Nùng, thể
hiện bài bản, quy mô bao gồm ca hát nhảy múa và các động tác cách điệu do đội
ngũ các ông bà Then đảm nhiệm trong các dịp cụ thể như lễ Kỳ yên, Cấp sắc, Cầu
mùa, Chữa bệnh… Trong đó tiêu biểu nhất là đại lễ Cấp sắc cho Then, phải trình


18


bày một bản trường ca khoảng vài nghìn câu văn vần mơ tả hành trình của đồn
binh mã Then từ trần gian lên thiên giới thỉnh cầu Ngọc hoàng phong chức cấp sắc
cho một thầy Then. Cuộc hành quân này được chia thành nhiều mốc, chặng với nội
dung và tình tiết khác nhau do thầy Then có cấp sắc cao nhất chủ trì nghi lễ, kéo dài
trong suốt ba ngày đêm. Nội dung của trị diễn này nói lên cơng việc mang lễ vật lên
dâng cúng qua nhiều chặng đường gian nan, khổ ải, nguy hiểm mà đội quân Then
phải dùng nhiều mưu mẹo, pháp thuật mới vượt qua được. Hành trình bao gồm 25
chặng theo những trình tự nghiêm ngặt, trong đó có nhiều màn trị diễn có thể xếp
vào loại hình sân khấu dân gian đích thực như gọi ơng chở đị, tìm thợ rèn thợ đúc ở
chợ Tam Quang, đánh thức ơng khổng lồ, trị bắt phu gánh lễ đi tạ ơn các pháp sư…
Bên cạnh Then, Phướng cũng là một hình thức biểu diễn âm nhạc và hát
xướng. Phướng bắt buộc phải có trong các đám ma xưa ở vùng đồng bào Tày Bắc
Kạn, Thái Nguyên. Phướng được tổ chức thành phường ban chuyên, gồm khoảng
tám người để phục vụ các nghi lễ như tế, lễ mại xe, tiến hương, tiến hoa, diễn trò.
Nhạc cụ trong Phướng thường có pí lè, đàn, tiêu, sáo, ngồi ra cịn có các dụng cụ
phụ trợ như cây hoa, giấy màu, một số loại bánh chay, vòng cổ, vòng tay, xà tích
bằng bạc, đơi khi cịn có mặt nạ khỉ, mặt nạ chim, đười ươi chồng và đười ươi vợ để
phục vụ trong trị diễn.
Có thể thấy nghệ thuật biểu diễn dân gian của dân tộc Tày – Nùng là một di
sản quý báu, vùa thể hiện sự phong phú trong đời sống tinh thần, vừa bộc lộ một
cảm quan nghệ thuật hết sức độc đáo, riêng biệt của đồng bào Tày Nùng. Trong đời
sống tinh thần của đồng bào Tày Nùng, âm nhạc múa và sân khấu dân gian giữ một
vai trò quan trọng.
Về nội dung, âm nhạc dân gian đã phản ảnh một cách chân thực sống động
những tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của người Tày Nùng. Âm nhạc dân gian vừa
mang chất trữ tình, tự sự trong các làn điệu hát ru lượn Then của người Tày có khi
lại mang sắc thái sơi nổi, vui tươi của các điệu Cò lẩu, sự trong sáng khỏe khoắn

trong các làn điệu Si của người Nùng.

19


×