Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt luận án (tiếng việt): Phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.44 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ NGỌC LÂM

PHƯƠNG THỨC ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ,
TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Cơng tác tư tưởng
Mã số: 9310201

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2023


Cơng trình được hồn thành tại:
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS, TS. Phạm Huy Kỳ
2. PGS, TS. Đỗ Thị Quyên
Phản biện:
1. Phản biện 1: PGS, TS. Vũ Trọng Lâm
2. Phản biện 2: TS. Nguyễn Mậu Tuân


3. Phản biện 3: PGS, TS. Nguyễn Đức Luận

Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án
Cấp trường họp tại:Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Vào hổi..... giờ...... ngày...... tháng....... năm........

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc gia
2. Thư viện Học viện Báo chí và Tuyên truyền


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn xuất bản thế giới cho thấy, Việt Nam là một trong số ít quốc gia có
luật riêng về xuất bản (Pháp và Trung Quốc có luật này nhưng phạm vi điều chỉnh rộng
hơn, bao gồm cả báo chí và xuất bản). Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất coi xuất
bản là một lĩnh vực hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước, có vai trị quan
trọng trong giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực,
xây dựng nhân cách con người... Nhận thức rõ vai trò của xuất bản đối với cuộc đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng – văn hóa, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo,
định hướng cho hoạt động xuất bản, đặc biệt trong bối cảnh mới với sự thay đổi, phát
triển nhanh chóng của đất nước kể từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới, đến sự chuyển
mình của thời đại với xu thế hội nhập, sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và
chuyển đổi số đang tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay.
Hoạt động xuất bản ở Việt Nam từ sau Đổi mới, nhất là sau khi thực hiện Chỉ
thị 42-CT/TW năm 2004 về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản do
Ban Bí thư ban hành, và gia nhập Cơng ước Bern (năm 2004) về bảo hộ các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, đã có bước phát triển nhanh chóng, thích ứng với cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế về giao dịch bản quyền, tổ chức nội dung và hợp tác xuất

bản trên nhiều phương diện khác. Nhờ sự quan tâm, định hướng kịp thời của các cơ
quan chỉ đạo, quản lý xuất bản, cơ quan chủ quản, đa số các đơn vị xuất bản giữ vững
tôn chỉ, mục đích của mình trong q trình hoạt động. Hệ thống các văn bản chỉ đạo,
quản lý đối với hoạt động xuất bản từng bước được điều chỉnh, hoàn thiện cho phù
hợp với yêu cầu thực tiễn. Nội dung, phương thức lãnh đạo, định hướng chính trị, tư
tưởng có nhiều đổi mới, bước đầu kiểm soát, khắc phục được những sai phạm trong
quá trình xuất bản. Việc định hướng những vấn đề “nhạy cảm” về chính trị, tư tưởng
trong q trình triển khai hoạt động xuất bản đã được quan tâm hơn. Sự phối hợp
giữa các cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý xuất bản, các đơn vị xuất bản đạt hiệu quả
hơn... Chính vì vậy, trong thời gian qua, ngành xuất bản nhìn chung đã từng bước
phát triển vững chắc, ổn định, góp phần tích cực vào việc truyền thơng đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là vũ khí đấu tranh sắc bén trên mặt trận
tư tưởng; thực hiện ngày càng tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, góp phần
vào cuộc đấu tranh chống tiêu cực ở nước ta hiện nay; thúc đẩy nền văn hóa đọc, thực
hiện ngày một tốt hơn sứ mệnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân
lực, vì sự phát triển của quốc gia – dân tộc.


2
Tuy nhiên còn nhiều vấn đề đặt ra với ngành xuất bản, địi hỏi tồn ngành phải
nỗ lực hơn nữa để vượt qua các rào cản, thử thách hiện nay. Những vấn đề đặt ra như:
sự suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một
bộ phận cán bộ xuất bản; mặt trái của cơ chế thị trường chính là khuynh hướng
thương mại hóa đã và đang tác động lớn đến hoạt động xuất bản, là một thách thức
đối với công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản, cụ thể là cơng tác định hướng
chính trị, tư tưởng. Vẫn cịn một số nhà xuất bản quá coi trọng kinh doanh, lợi nhuận
mà xa rời tơn chỉ, mục đích của mình. Bỏ qua nhiệm vụ truyền thơng đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư luận xã hội, bỏ qua mục đích giáo
dục và đảm bảo tính khoa học trong nội dung sách, nhiều đơn vị xuất bản chạy theo
thị hiếu tầm thường của bạn đọc, với những dòng sách như: mê tín dị đoan, sách văn

học nhưng sa vào chủ nghĩa tự nhiên, dung tục, không phù hợp với thuần phong mĩ
tục, truyền thống văn hóa của Việt Nam. Cũng có những sách lợi dụng văn chương,
lợi dụng nghệ thuật ngơn từ và lăng kính chủ quan của nhà văn, lồng ghép vào đó
những tư tưởng tiêu cực, thậm chí phản động khi luận bàn về lịch sử, về đường lối
Đổi mới, về các lãnh tụ của Đảng và Nhà nước... không theo quy định hiện hành, vi
phạm điều cấm trong Luật Xuất bản. Điều này gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
ổn định trong đời sống tư tưởng của bạn đọc.
Tác động tiêu cực của quá trình tồn cầu hố và hội nhập quốc tế cũng là rào
cản của định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản. Mở
rộng giao lưu quốc tế khó tránh khỏi sự phân hóa về tư tưởng. Các khuynh hướng tư
tưởng khác nhau, đối ngược nhau sẽ xuất hiện dưới các hình thức rất tinh vi trong
xuất bản phẩm, biểu hiện rõ nhất là các quan điểm hạ thấp chức năng giáo dục chính
trị, tư tưởng của sách, coi sách cung cấp tri thức đơn thuần phi chính trị, gián tiếp
truyền bá hệ tư tưởng phi XHCN, phổ biến những thơng tin khơng có lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Sự chống phá của các thế lực thù địch thông
qua công cụ là truyền thơng, xuất bản sách có nội dung phản động, bằng nhiều con
đường, đặc biệt phức tạp trên môi trường xuất bản số và Internet; năng lực, trình độ
của đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý nói riêng và chất lượng nguồn nhân lực xuất bản
nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao và những thay đổi nhanh chóng
của nền cơng nghiệp xuất bản;... là những thách thức lớn đối với cơng tác định hướng
chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay.
Trước những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn xuất bản như đã nêu trên, nghiên
cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng


3
đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận án
tiến sĩ ngành Chính trị học, chun ngành Cơng tác tư tưởng.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xây dựng khung lý thuyết về phương thức định hướng chính trị, tư

tưởng đối với hoạt động xuất bản, luận án đánh giá thực trạng phương thức định
hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam, đồng thời tìm hiểu
từ thực tiễn những yêu cầu đối với việc định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt
động xuất bản, từ đó đề xuất giải pháp đổi mới phương thức định hướng chính trị, tư
tưởng đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam trước bối cảnh mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án phải thực hiện được một số
nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau đây:
Một là: Tiến hành tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Hai là: Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến phương thức định hướng
chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản.
Ba là: Khảo sát thực trạng phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với
hoạt động xuất bản ở Việt Nam thời gian qua, rút ra những thành công, hạn chế và
những vấn đề đặt ra hiện nay.
Bốn là: Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới phương thức định
hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương thức định hướng chính trị, tư tưởng
đối với hoạt động xuất bản.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án tập trung phân tích những vấn đề liên quan đến phương thức định
hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay.
- Thời gian: Thực trạng được nghiên cứu từ năm 2004 đến nay, tức là từ sau khi
Chỉ thị 42-CT/TW “Về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản” (ngày
25-8-2004) của Ban Bí thư Trung ương Đảng được ban hành.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Vấn đề phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt
động xuất bản đã được nghiên cứu nhiều chưa? Các nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ
nào? Hướng phát triển của luận án?



4
- Khung lý thuyết của phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối
với hoạt động xuất bản?
- Thực trạng của phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với
hoạt động xuất bản hiện nay ra sao? Vấn đề gì đang đặt ra?
- Những đề xuất mới của luận án về quan điểm và giải pháp định hướng chính
trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản trong thời gian tới như thế nào?
6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về cơng tác tư tưởng, định hướng
chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản; tiếp thu, kế thừa có chọn lọc kết quả
nghiên cứu của các cơng trình khoa học trong và ngồi nước có liên quan.
- Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở thực tiễn tiến hành định hướng chính
trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản ở nước ta; các văn bản, chỉ thị, báo cáo tổng
kết, đánh giá kết quả định hướng, quản lý hoạt động xuất bản; kết quả khảo sát thực
tế về định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án sử
dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp điều tra xã hội học, nghiên cứu tài
liệu, phương pháp thu thập, xử lý thông tin, phương pháp lịch sử và lôgic, phương
pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch… để hồn thành những mục tiêu nghiên cứu đề ra.
7. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Phân tích, làm sáng tỏ hơn cách tiếp cận và nội hàm khái niệm định hướng
chính trị, tư tưởng; phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động
xuất bản.
- Luận giải, làm sáng rõ các yếu tố tác động đến phương thức định hướng
chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay.

- Khái quát và phân tích thực trạng phương thức định hướng chính trị, tư
tưởng trong lĩnh vực xuất bản ở nước ta từ năm 2004 (sau khi Chỉ thị 42-CT/TW của
Ban Bí thư được ban hành) đến nay.
- Khái quát những vấn đề đặt ra đối với việc định hướng chính trị, tư tưởng của
Đảng trong hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay. Từ đó, luận án đề xuất và phân
tích, luận giải cơ sở khoa học của các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới


5
phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở
Việt Nam trong thời gian tới.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của việc hoạt động định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động
xuất bản ở nước ta hiện nay.
- Luận án cung cấp luận cứ khoa học cho các cơ quan quản lý, hoạch định chính
sách đề ra chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động định hướng chính
trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay.
- Kết quả của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công
tác nghiên cứu, giảng dạy ngành xuất bản tại các cơ sở đào tạo về xuất bản.
- Lựa chọn nghiên cứu luận án, bên cạnh việc mong muốn đóng góp tri thức
của mình vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động định hướng chính trị, tư tưởng của
Đảng đối với hoạt động xuất bản, tác giả cũng mong muốn nâng cao năng lực nghiên
cứu khoa học của bản thân, áp dụng vào q trình cơng tác sau này.
9. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
luận án gồm 3 chương, 8 tiết.
TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động xuất bản

1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ngồi nước
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả như Schuwer, Philippe, Adele
Droblas, Seth Greenberg, Marshall Lee, N.D.Eriasvili, Elizabeth Flann, Beryl
Hill, Lan Wang, Scott Norton, Dương Hổ, Tiêu Dương... đã đề cập nhiều nội dung
liên quan đến hoạt động xuất bản, từ tổ chức nội dung, đến biên tập, in ấn hoặc công
nghệ xuất bản điện tử, truyền thông – marketing, kinh doanh sách. Tuy nhiên, chưa
có cơng trình nào đề cập đến vấn đề định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động
xuất bản.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước
Các cơng trình nghiên cứu trong nước đề cập tương đối toàn diện các vấn đề
từ lý luận về nghiệp vụ xuất bản đến công tác quản lý hoạt động xuất bản ở nước ta


6
hiện nay. Các nghiên cứu phản ánh thực trạng xuất bản ở nước ta hiện nay, đồng
thời chỉ ra những thời cơ và thách thức, những xu hướng xuất bản của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế về xuất bản đang diễn ra mạnh mẽ.
1.2. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến định hướng chính trị, tư
tưởng đối với hoạt động xuất bản
1.2.1. Các cơng trình ngồi nước
Các cơng trình nghiên cứu ngồi nước giới thiệu phương thức quản lý của một
số nền xuất bản như Hàn Quốc, Nhật Bản có nhấn mạnh đến vấn đề thẩm định nội
dung xuất bản phẩm; vấn đề “hài hịa hóa giữa chiến lược tìm kiếm lợi nhuận và bảo
đảm lợi ích của cộng đồng”. Ngành xuất bản bị chi phối bởi các nhóm có xu hướng
chính trị khác nhau.
1.2.2. Các cơng trình trong nước
Các đề tài tập trung phân tích lý luận của yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản, đề tài phân tích, đánh giá
thực trạng hoạt động xuất bản và công tác chỉ đạo hoạt động xuất bản; chỉ ra những
ưu điểm, hạn chế của công tác chỉ đạo xuất bản hiện nay. Từ đó, đề tài đề xuất

phương hướng và giải pháp và việc ứng dụng, vận dụng các giải pháp đó vào thực
tiễn chỉ đạo hoạt động xuất bản trong giai đoạn mới.
Tóm lại, trên cơ sở tổng quan về nội dung các công trình nghiên cứu, luận án
sẽ tập trung giải quyết một số nội dung chủ yếu như sau:
Một là, trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu về vị trí, vai trị và quy
trình hoạt động xuất bản, luận án sẽ hệ thống hóa, bổ sung lí luận phương thức định
hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản Việt Nam hiện nay.
Hai là, tập trung phân tích, làm rõ thực trạng phương thức định hướng chính
trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản Việt Nam, chỉ rõ các kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân, để làm căn cứ đề xuất một số quan điểm và
giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của
Đảng đối với hoạt động xuất bản Việt Nam trong thời gian tới.
Ba là, khái quát những vấn đề đặt ra và đề xuất quan điểm, giải pháp cho các
cơ quan quản lý, nghiên cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực hiện để phát huy
phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản
Việt Nam, góp phần đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực này trong khi vẫn đảm bảo yêu
cầu của quản lý nhà nước trong tình hình mới, khi ViệtNam ngày càng hội nhập sâu
rộng với thế giới.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ, TƯ
TƯỞNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
1.1. Xuất bản và hoạt động xuất bản
1.1.1. Khái niệm xuất bản và hoạt động xuất bản
Tại Việt Nam, hoạt động xuất bản là một chuỗi các hoạt động thuộc lĩnh vực
văn hóa – tư tưởng, thơng qua việc sản xuất, phổ biến các ấn phẩm đến nhiều người,
từ tổ chức nội dung, biên tập; đến tổ chức sản xuất, nhân bản và thương mại được
tiến hành trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm đạt một mục đích chung trong

lĩnh vực xuất bản.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động xuất bản
Hoạt động xuất bản mang đặc điểm truyền thông; vừa là hoạt động văn hóa - tư
tưởng vừa là hoạt động kinh tế; là hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa đặc thù.
1.1.3. Quy trình hoạt động xuất bản
Hoạt động xuất bản bao gồm nhiều cơng đoạn nhưng chúng ta có thể chia quy
trình xuất bản ra thành các khâu chính: tổ chức bản thảo; biên tập bản thảo; tổ chức
sản xuất, nhân bản; truyền thông; phát hành; và khâu thu thập ý kiến phản hổi của
bạn đọc.
1.2. Định hướng chính trị, tư tưởng và phương thức định hướng chính trị,
tư tưởng đối với hoạt động xuất bản
1.2.1. Định hướng chính trị, tư tưởng
1.2.1.1. Quan niệm về chính trị, tư tưởng:
Thuật ngữ chính trị, tư tưởng được dùng khá phổ biến và được hiểu là những
vấn đề về chủ trương, chính sách, đường lối liên quan đến quyền lực nhà nước cũng
như nhận thức của mỗi cá nhân trước các vấn đề xã hội như vấn đề xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng chính là nền tảng tư tưởng, mục tiêu, lý tưởng, linh hồn của
công tác xây dựng Đảng; hoặc định hướng chính trị, tư tưởng cho đội ngũ văn nghệ
sĩ để họ vững vàng trên mặt trận văn hóa - tư tưởng của Đảng.
1.2.1.2. Định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản
Định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản là tổng thể những chủ
trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước, cơ quan chức năng, các tổ chức, các lực lượng
tác động tới những người làm công tác xuất bản; tác động tới quy trình xuất bản; đảm
bảo cho mọi hoạt động xuất bản luôn giữ vững tôn chỉ, mục đích, phản ánh đúng quan


8
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực tiễn
công cuộc Đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân.

1.2.2. Quan niệm và các phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với
hoạt động xuất bản
1.2.2.1. Quan niệm về phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt
động xuất bản
Phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản là
phương pháp, hình thức tác động của chủ thể đến đối tượng nhằm chuyển tải hệ tư
tưởng, chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước
trong hoạt động xuất bản.
1.2.2.2. Các phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động
xuất bản
Các phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động
xuất bản bao gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch, đường lối, chính sách, pháp luật
về hoạt động xuất bản; Tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật về xuất bản; Cơng tác cán bộ trong hoạt động xuất bản; Công tác kiểm tra,
giám sát trong hoạt động xuất bản.
1.3. Các yếu tố tác động đến phương thức định hướng chính trị, tư tưởng
đối với hoạt động xuất bản
1.3.1. Yếu tố khách quan
1.3.1.1. Mơi trường kinh tế - văn hóa - xã hội
Mơi trường kinh tế - văn hóa - xã hội đang tác động mạnh mẽ đến hoạt động
xuất bản từ việc sáng tạo nội dung đến lựa chọn công nghệ sản xuất, phương thức
truyền thông – marketing cho sản phẩm và cách quản trị chuỗi cung ứng sản phẩm
trên thị trường,…
1.3.1.2. Sự phát triển của khoa học và công nghệ
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã mở ra cơ hội, không gian mới cho
việc tiếp nhận "tư liệu sản xuất" của công tác biên tập, xuất bản, bởi những người làm
xuất bản có thêm nhiều cơ hội, kênh tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người
đọc, hoặc chủ động tìm kiếm, khai thác đề tài, tổ chức bản thảo. Sự phát triển của trí
thơng minh nhân tạo tạo thuận lợi cho biên tập viên trong một số khâu như: tra cứu,
tìm kiếm, kiểm chứng thơng tin... Công nghệ xuất bản cũng mở ra một hướng đi mới

từ công nghệ in ấn đến công nghệ xuất bản sách điện tử, audio books,...


9
1.3.1.3. Sự phát triển của xuất bản trên thế giới và trong nước
Trên thế giới hiện nay, chuyển đổi số đang diễn ra ở nhiều quốc gia có nền
cơng nghiệp xuất bản phát triển như Đức, Mỹ, Anh, Nhật Bản, Canada... Nền xuất
bản thế giới ngoài thị phần sách in vẫn ln tồn tại, các nhà xuất bản, tập đồn xuất
bản đồng thời tập trung phát triển mảng sách điện tử, audio book, sách thực tế
ảo....những loại sách có thể phân phối đến tay độc giả thông qua ứng dụng cơng nghệ
một cách nhanh chóng và thuận tiện, trong bất cứ thời gian nào, ở bất cứ không gian
nào. Việt Nam cũng đang có những bước chuyển mình, ứng dung sự phát triển của
công nghệ vào hoạt động xuất bản.
1.3.2. Yếu tố chủ quan
1.3.2.1. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động xuất bản
Chủ trương, đường lối của Đảng đối với hoạt động xuất bản thể hiện ở quan
điểm của Đảng đối với hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng hay lĩnh
vực kinh doanh thuần túy, Nhà nước sở hữu toàn bộ các nhà xuất bản hay từng bước xã
hội hóa lĩnh vực này. Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng về những vấn đề
trong hoạt động xuất bản, phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối
với hoạt động xuất bản sẽ được xác định cho phù hợp.
1.3.2.2. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hoạt động xuất bản
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp đối với hoạt động xuất bản tác động trực
tiếp đến phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động
xuất bản, bởi vì cán bộ là gốc của mọi vấn đề. Phẩm chất chính trị và năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
lực, hiệu quả phương thức định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt
động xuất bản.
1.3.2.3. Năng lực của các đơn vị xuất bản
Năng lực của các đơn vị xuất bản là yếu tố thuộc về bản thân các nhà xuất bản với

tư cách là đối tượng định hướng, tuy nhiên nó ảnh hưởng trở lại với phương thức định
hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản. Năng lực của các nhà
xuất bản, cơ sở in và phát hành bao gồm tiềm lực về vốn, nhân lực, uy tín, thương hiệu,
văn hóa doanh nghiệp.... Năng lực đó càng cao thì phương thức định hướng chính trị, tư
tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản càng có nhiều cơ hội thành cơng hơn.


10
Chương 2
THỰC TRẠNG PHƯƠNG THỨC ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ,
TƯ TƯỞNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tổng quan về hoạt động xuất bản ở Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam đang có hệ thống nhà xuất bản, cơ sở in, kinh doanh
sách khá đa dạng. Tính hết năm 2020, cả nước có 59 nhà xuất bản, trong đó có 16
nhà xuất bản hoạt động theo mơ hình doanh nghiệp (công ty TNHH một thành
viên 100% vốn Nhà nước) và 43 đơn vị sự nghiệp công lập. Hoạt động xuất bản
những năm gần đây có nhiều bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động xuất
bản vẫn còn những tồn tại, rào cản cần khắc phục.
2.2. Ưu điểm và hạn chế trong phương thức định hướng chính trị, tư
tưởng đối với hoạt động xuất bản và nguyên nhân
2.2.1. Ưu điểm và nguyên nhân
2.2.1.1. Ưu điểm
* Về việc ban hành chủ trương, đường lối, pháp luật đối với hoạt động
xuất bản:
Đảng và Nhà nước đã xây dựng, ban hành những định hướng chiến lược thích
hợp, tạo điều kiện cho xuất bản phát triển trong cơ chế thị trường, định hướng XHCN,
thể hiện trên một số quan điểm chỉ đạo: Hoạt động xuất bản là một lĩnh vực tư tưởng
sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Hoạt động xuất bản góp phần xây dựng nền
tảng tư tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng và khoa học, giáo dục và nâng

cao trình độ, bản lĩnh cho cán bộ đảng viên và nhân dân, đấu tranh không khoan
nhượng với các quan điểm sai trái, lạc hậu. Hoạt động xuất bản là một bộ phận quan
trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; chăm lo bảo vệ,
khẳng định và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn
hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Hoạt động xuất bản là hoạt động trực tiếp góp
phần nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình
thành một xã hội học tập, góp phần cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động
xuất bản phải coi trọng các chức năng, nhiệm vụ nói trên, đồng thời phải thực hiện tốt
nhiệm vụ kinh doanh, xây dựng ngành xuất bản, in, phát hành thành một ngành kinh tế
công nghệ phát triển toàn diện, vững chắc.


11
* Về công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật về xuất bản
Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật về xuất bản được đẩy mạnh, thông qua các phương tiện chủ
yếu: thông qua hoạt động xuất bản, tập trung ở công tác xuất bản sách lý luận chính trị,
pháp luật; thơng qua các phương tiện truyền thông đại chúng khác để tuyên truyền chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hoạt động xuất bản; thơng qua các hình
thức tun truyền như: hội chợ, triển lãm tại các tỉnh, thành, khu vực và quốc tế; hội
thảo, tọa đàm; sử dụng các không gian đường sách, công viên sách,… để tổ chức sự
kiện, tuyên truyền về sách và những nội dung liên quan đến lĩnh vực xuất bản.
*Về công tác tổ chức, cán bộ trong hoạt động xuất bản
Cơng tác quy hoạch, bổ nhiệm kiện tồn bộ máy tổ chức và đội ngũ lãnh đạo
nhà xuất bản luôn được Đảng quan tâm. Trong các nội dung lãnh đạo có một nội
dung đặc biệt quan trọng đó là công tác cán bộ mà trọng tâm là không ngừng nâng
cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn của toàn đội
ngũ, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và đội ngũ cán bộ cao cấp, cán bộ
tham mưu chiến lược của Đảng.

Về công tác đào tạo cán bộ xuất bản, hoạt động đào tạo giữ vai trò quan trọng tạo
nên độ ngũ cán bộ xuất bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Cả nước hiện
có ba cơ sở đào tạo nhân lực xuất bản gồm: Học viện Báo chí và tuyên truyền,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh.
Việc đào tạo và thu hút biên tập viên trong những năm gần đây có nhiều thay đổi
lớn. Việc mở rộng các chuyên ngành đào tạo biên tập viên như biên tập viên sách
điện tử, biên tập viên sản phẩm số của một số cơ sở đào tạo gắn với nhu cầu của các
nhà xuất bản hay công ty xuất bản đã tạo ra nguồn nhân lực xuất bản mới có trình
độ, năng lực, kỹ năng cao hơn.
Trong công tác kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản, đã có sự phối hợp giữa
Vụ Báo chí – Xuất bản và Cục Xuất bản, In và Phát hành trong việc xử lý các sai
phạm trong hoạt động xuất bản. Đặc biệt, với những sai phạm về nội dung tư tưởng,
với những vấn đề “nhạy cảm” trong xuất bản phẩm được định hướng, chỉ đạo xử lý
kịp thời và hài hịa. Các mặt hoạt động khác trong cơng tác kiểm tra, giám sát cũng
được quan tâm định hướng, chỉ đạo để mọi hoạt động xuất bản diễn ra được ổn định
và được tạo điều kiện phát triển, trên cơ sở tuân thủ định hướng của Đảng và pháp


12
luật của Nhà nước về xuất bản.
Đã có sự quyết liệt hơn trong xử lý vi phạm, chẳng hạn như vụ khởi tố hình sự
vụ in lậu và phát hành 3 triệu cuốn sách giáo khoa giả tháng 6-2021, xảy ra tại Cơng
ty Cổ phần In và Văn hóa truyền thông Hà Nội; Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Thương mại và Sản xuất Phú Hưng Phát.
2.2.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xuất bản và định
hướng chính trị, tư tưởng trong công tác xuất bản.
Hai là, lịch sử, truyền thống của xuất bản cách mạng Việt Nam.
Ba là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng và vai trò quản
lý, điều hành của giám đốc, tổng biên tập của đơn vị xuất bản.

Bốn là, sự tích cực, chủ động học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ
cán bộ làm xuất bản.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Hạn chế
Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch cịn chậm, tính dự báo chưa cao. Các
cơ quan quản lý về xuất bản còn thiếu chủ động trong định hướng chiến lược, còn
chạy theo vụ việc để giải quyết.
Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về xuất bản thực hiện đường lối của Đảng
về xuất bản còn thiếu đồng bộ, chưa kịp thời tháo gỡ những khó khăn trong thực tiễn
xuất bản.
Chất lượng khoa học, tính chính trị, tính chiến đấu, tính hấp dẫn và thuyết
phục của sách lý luận chính trị cịn chưa cao; thiếu nhiều đầu sách có giá trị lý luận
cũng như thực tiễn; cịn ít những sách hay, sách đẹp, sách bán chạy trên thị trường.
Về công tác đào tạo cán bộ xuất bản, dù các đơn vị đào tạo ở bậc đại học, sau
đại học về xuất bản vẫn tuyển sinh thường niên nhưng lượng tuyển sinh chưa cao,
con số sinh viên ra trường làm đúng nghề lại rất ít. Cơ cấu biên tập viên đào tạo
chuyên ngành của các nhà xuất bản so với biên tập viên đào tạo chuyên ngành xuất
bản còn chênh lệch khá lớn.
Về việc kiểm tra, giám sát, vẫn còn tồn tại quá nhiều vi phạm về bản quyền, vi
phạm về in ấn và phát hành sách. Công tác thanh tra, xử lý vi phạm trong hoạt động
in theo kế hoạch hiệu quả chưa cao, chủ yếu là thanh tra đột xuất mới phát hiện được
sai phạm.
2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế


13
Một là, tác động của mặt trái trong nền kinh tế thị trường, mặt trái của xu
hướng thương mại hóa trong hoạt động xuất bản.
Hai là, sự chống phá của các thế lực thù địch.
Ba là, thực tiễn phát triển mạnh mẽ của xuất bản trong những năm gần đây với

sự nở rộ của các đơn vị xuất bản, phát hành; cùng với quá trình hội nhập khu vực và
quốc tế trong lĩnh vực xuất bản diễn ra nhanh chóng dẫn đến một số cơ chế, chính
sách chưa đồng bộ, chưa theo kịp thực tiễn.
Bốn là, công tác đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ xuất bản ở các học viện,
trường đại học đào tạo về xuất bản cịn có những hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu
về nhân sự xuất bản trong thực tiễn.
Năm là, chưa chủ động đổi mới đồng bộ, toàn diện các nhà xuất bản.
Sáu là, tinh thần trách nhiệm của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên, nhất là
các đảng viên làm công tác quản lý trong cơ quan xuất bản chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Chương 3
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY
PHƯƠNG THỨC ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
3.1. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phương thức định hướng chính trị,
tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản
3.1.1. Nhận thức của cấp ủy, cán bộ và đảng viên về vai trị của phương thức
định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản còn hạn chế
Nhận thức về vai trị của việc định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động
xuất bản ở nước ta hiện nay của một số tổ chức đảng, cấp ủy, lãnh đạo các cơ quan
chủ quản, cán bộ và các đơn vị tham gia hoạt động xuất bản còn chưa đầy đủ; thể
hiện trong việc phân công công việc, trách nhiệm chỉ đạo, quản lý, điều hành hoạt
động xuất bản; trong thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về xuất bản.
3.1.2. Cơng tác định hướng chính trị, tư tưởng chưa phát huy tốt vai trị của
mình trong việc đẩy lùi khuynh hướng thương mại hóa, tác động tiêu cực từ q
trình tồn cầu hóa trong hoạt động xuất bản
Cơ chế thị trường đã và đang tác động sâu rộng đến mọi mặt đời sống xã hội.
Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường chính là khuynh hướng thương mại hóa đã
và đang tác động lớn đến hoạt động xuất bản, là một thách thức đối với công tác chỉ



14
đạo, quản lý hoạt động xuất bản, cụ thể là cơng tác định hướng chính trị, tư tưởng.
Tác động tiêu cực của q trình tồn cầu hố và hội nhập quốc tế cũng là rào
cản của định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản. Mở
rộng giao lưu quốc tế khó tránh khỏi sự phân hóa về tư tưởng. Các khuynh hướng tư
tưởng khác nhau, đối ngược nhau sẽ xuất hiện dưới các hình thức rất tinh vi trong
xuất bản phẩm, biểu hiện rõ nhất là các quan điểm hạ thấp chức năng giáo dục chính
trị, tư tưởng của sách, coi sách cung cấp tri thức đơn thuần phi chính trị, gián tiếp
truyền bá hệ tư tưởng phi XHCN, phổ biến những thông tin không có lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...
3.1.3. Sự thiếu kịp thời, thụ động trong định hướng chính trị, tư tưởng
Lãnh đạo, quản lý là q trình động, bởi hoàn cảnh xã hội và con người trong
tổ chức ln biến đổi. Q trình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản cũng
phải đảm bảo tính chủ động, nhạy bén trước những biến đổi của lĩnh vực xuất bản
trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, công tác chỉ đạo, định hướng hoạt động xuất bản
chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn hoạt động xuất bản. Chức năng định hướng chiến
lược thiếu tầm nhìn, thiếu chủ động. Quá trình nghiên cứu, đánh giá, dự báo, định
hướng trung và dài hạn về xuất bản chưa hiệu quả. Có nhiều vấn đề mới nảy sinh, diễn
biến phức tạp về tư tưởng và vướng mắc về cơ chế, chính sách chưa được định hướng,
giải quyết kịp thời. Tình trạng ban hành luật khung trên lĩnh vực xuất bản vẫn còn tồn
tại dẫn đến việc thực thi luật bị lúng túng, gặp nhiều khó khăn hoặc chậm chễ.
3.1.4. Điều kiện đảm bảo về nguồn lực cho việc phát huy phương thức định
hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản còn hạn chế
Chuyển đổi số đang được coi là một xu hướng tất yếu và là một cơ hội lớn cho
sự phát triển đột phá trong xã hội. Là một lĩnh vực của truyền thông đại chúng, xuất
bản khơng nằm ngồi mà chịu tác động trực tiếp của xu hướng này. Vấn đề đặt ra là
xuất bản cần được đầu tư về cơng nghệ, về tài chính, về tri thức, con người để có thể
tiếp cận và vận hành hệ thống theo hướng chuyển đổi số, bên cạnh việc vẫn duy trì

hình thức xuất bản truyền thống là sản phẩm in ấn.
Tuy nhiên, nhìn ngược lại hiện trạng cơ sở vật chất, con người, những nguồn
lực khác mà các nhà xuất bản Việt Nam đang có thì dường như câu chuyện chuyển
đổi số vẫn là một giấc mơ xa vời. Nguồn lực tài chính hạn chế, phạm vi và trình độ
ứng dụng cơng nghệ lại càng thấp và có sự phân hóa mạnh giữa các nhà xuất bản.
Về chất lượng đội ngũ cán bộ xuất bản có vai trò quan trọng trong việc nâng
cao hiệu quả định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với xuất bản. Thực tế cho


15
thấy vẫn còn một bộ phận cán bộ ở các nhà xuất bản cần được nâng cao trình độ lý
luận chính trị, chun mơn, nghiệp vụ và cả trình độ ứng dụng công nghệ trước yêu
cầu chuyển đổi số trong hoạt động xuất bản hiện nay.
3.2. Quan điểm về phát huy phương thức định hướng chính trị, tư tưởng
đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam thời gian tới
3.2.1. Phát huy phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt
động xuất bản phải trên cơ sở tiếp tục đổi mới tư duy về lãnh đạo, quản lý hoạt
động xuất bản trong bối cảnh mới
Trong thời gian qua, hoạt động xuất bản Việt Nam phát triển ngày càng sôi
động hơn nhưng cũng phức tạp hơn với công tác quản lý nội dung xuất bản phẩm.
Trước bối cảnh mới như đã nêu ở trên cùng với thực trạng hoạt động xuất bản ở Việt
Nam hiện nay, việc đổi mới tư duy về lãnh đạo, quản lý hoạt động xuất bản là một
yêu cầu bắt buộc và cần thiết, nhằm đảm bảo cả mục tiêu thực hiện nhiệm vụ chính
trị, nhưng vẫn phát triển về kinh tế cho lĩnh vực xuất bản. Thực tiễn đòi hỏi sự quan
tâm hơn nữa, đầu tư, tạo điều kiện hơn nữa từ phía Đảng và Nhà nước đối với hoạt
động xuất bản, để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn hiện nay đối với các nhà xuất
bản cũng như tồn ngành. Cần có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất, kịp thời hơn nữa
giữa cơ quan chỉ đạo và cơ quan quản lý xuất bản trong việc giải quyết những khó
khăn, tạo động lực phát triển bền vững cho xuất bản trước bối cảnh cơ chế thị trường
và hội nhập quốc tế, trước bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ và nhu cầu

đọc của cơng chúng đã có rất nhiều thay đổi như hiện nay.
3.2.2. Phát huy phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt
động xuất bản phải trên cơ sở tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý hoạt động
xuất bản
Việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý hoạt động xuất bản có tác động trực
tiếp đến việc nâng cao hiệu quả phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với
hoạt động xuất bản. Cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tham gia xây dựng
pháp luật, Quốc hội với cơ quan tham mưu của Đảng để những văn bản quy phạm
pháp luật về xuất bản được xây dựng theo đúng tinh thần chỉ đạo, định hướng của
Đảng; ban hành đảm bảo đúng thời gian dự kiến, khơng để xảy ra tình trạng các chỉ thị,
nghị quyết và văn bản chỉ đạo của Đảng ban hành ra nhưng khơng được thể chế hóa
trong các quy định của pháp luật hoặc không ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, cần thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật về xuất bản
thành các chế tài, quy định rõ ràng, cụ thể, nhằm hiện thực hóa những chỉ đạo, định


16
hướng của Đảng đối với lĩnh vực xuất bản, giúp cho hoạt động xuất bản phát triển, sớm
thích ứng với những yêu cầu mới. Đồng thời, cần phối hợp với các cơ quan liên quan
xây dựng các đề án, chương trình để phát triển ngành xuất bản trong thời kỳ mới.
3.2.3. Phát huy phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt
động xuất bản phải gắn với đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
gắn với đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, kĩ thuật cho hoạt động xuất bản
Đối với công tác định hướng chính trị, tư tưởng, chất lượng nguồn nhân lực là
một vấn đề vô cùng quan trọng đảm bảo hiệu quả, tính khả thi của mọi chỉ đạo, định
hướng, quyết sách về xuất bản. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất bản hiện
nay, cần phải đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xuất bản theo hướng đổi
mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường tri thức về
chính trị song song với những tri thức của thời đại số với những hiểu biết về cơng
nghệ, về số hóa, về thương mại điện tử, về quản trị hiện đại,...

Bên cạnh nguồn lực con người, để phát huy cơng tác định hướng chính trị, tư
tưởng, việc tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, kĩ thuật cho hoạt động xuất bản
là tất yếu. Sự đầu tư đó đảm bảo cho các đơn vị xuất bản có đủ sức mạnh nội lực để tập
trung cho chiến lược xuất bản của mình, chủ động tài chính và các nguồn lực khác để
hiện thực hóa chiến lược.
3.2.4. Phát huy phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt
động xuất bản phải gắn liền với đấu tranh chống “diễn biến hịa bình” trên lĩnh
vực văn hóa, tư tưởng
Cơng tác định hướng chính trị tư tưởng phải phát huy vai trị của mình trong
việc định hướng nội dung tác phẩm, định hướng tư tưởng cho người viết và cán bộ
tham gia hoạt động xuất bản. Trong mỗi tác phẩm được xuất bản phải bảo đảm tính tư
tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng, có trách nhiệm
hình thành dư luận xã hội lành mạnh, góp phần tăng cường sự đồn kết, nhất trí về tư
tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân dân. Kiên quyết đấu tranh, phê phán các quan
điểm sai trái, thù địch, khắc phục các biểu hiện thương mại hóa, xa rời tơn chỉ, mục
đích và các biểu hiện tiêu cực, lệch lạc khác. Tích cực biểu dương nhân tố mới, tham
gia đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mê tín dị đoan và các tệ nạn xã
hội, góp phần làm lành mạnh xã hội, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp, bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong
thông tin, truyên truyền trên các xuất bản phẩm, phải kết hợp tốt giữa “xây” và
“chống”, lấy tích cực để đẩy lùi tiêu cực.


17
3.3. Giải pháp phát huy phương thức định hướng chính trị, tư tưởng đối
với hoạt động xuất bản ở Việt Nam thời gian tới
3.3.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, cán bộ xuất bản về vai trò
của định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của các cơ quan tham mưu của Đảng về xuất
bản, cấp ủy Đảng và chính quyền nơi có các đơn vị xuất bản, cơ quan chủ quản xuất

bản, quản lý các đơn vị xuất bản về vị trí, vai trị của xuất bản trong bối cảnh phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Cần giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa chức năng tư tưởng với chức năng kinh tế trong định
hướng chính trị, tư tưởng của Đảng đối với hoạt động xuất bản để từ đó có chủ
trương, chính sách đúng nhằm phát huy, sử dụng có hiệu quả xuất bản vào mục tiêu
phát triển kinh tế, xã hội đất nước.
Thứ hai, cần tăng cường công tác tư tưởng của Đảng trong tập thể cán bộ, biên
tập viên, cơ quan chủ quản và cơ quan định hướng, quản lý xuất bản; cần coi trọng và
thực hiện tốt những chủ trương, giải pháp sau:
Một là, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với
công tác tư tưởng.
Hai là, các cấp ủy, tổ chức đảng trong cơ quan xuất bản, cơ quan chỉ đạo, quản
lý xuất bản cần coi trọng việc kiện toàn các ban tham mưu của đảng ủy, cán bộ tham
mưu trong chi ủy; coi trọng việc lựa chọn, bố trí những cán bộ có phẩm chất chính trị,
đạo đức, trình độ, năng lực vào cấp ủy nói chung, ban tuyên giáo của cấp ủy nói riêng.
Ba là, thường xun thực hiện cơng tác tư tưởng và phát huy sức mạnh tổng
hợp của các lực lượng, binh chủng tham gia vào công tác tư tưởng.
Bốn là, đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung tuyên truyền, giáo dục chính trị,
tư tưởng. Đội ngũ cán bộ, chỉ đạo và quản lý xuất bản là những người làm công tác
liên quan đến định hướng dư luận xã hội, do vậy, cấp ủy, tổ chức đảng cần cung cấp
thông tin cho họ một cách đầy đủ, thường xuyên và có chất lượng.
Năm là, tăng cường đổi mới phương pháp, hình thức tun truyền, giáo dục
chính trị, tư tưởng. Trước hết, cần nâng cao chất lượng việc tổ chức học tập quán triệt
các văn bản chỉ đạo của Đảng; tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, báo cáo chun
đề, sinh hoạt chính trị về tình hình tư tưởng và nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng.
3.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực quản
lý Nhà nước về xuất bản; phát huy vai trò của cơ quan chủ quản đối với hoạt động
xuất bản
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động xuất bản thể hiện cụ thể trước



18
hết ở việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển ngành xuất bản. Cần tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung các vấn đề thực tiễn xuất bản yêu cầu khi xây dựng chiến lược,
quy hoạch phát triển ngành xuất bản trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là việc làm cần thiết nhằm khẳng định
hơn nữa vị trí, vai trị của Đảng trong lãnh đạo cơng tác xuất bản, đồng thời có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc củng cố quyền lực chính trị của Đảng. Chiến lược
cần đánh giá làm rõ những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm trong các mặt công tác
của chủ thể cơng tác xuất bản, từ đó đề ra quan điểm, phương hướng và các giải pháp
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xuất bản trong giai đoạn tới.
Vấn đề xã hội hóa hoạt động xuất bản để huy động mọi nguồn lực trong xã hội
nhằm thúc đẩy sự phát triển của xuất bản trong cơ chế thị trường vốn đã được nghiên
cứu, bàn luận, song cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn nữa.
Đảng cần tăng cường định hướng, chỉ đạo Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp
luật về xuất bản để nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt
động xuất bản. Trước những đòi hỏi của thực tiễn xuất bản hiện nay, cần tiếp tục
nghiên cứu việc thể chế hóa ở các nội dung sau:
Về vấn đề chính sách phát triển và mơ hình hoạt động xuất bản, cần tiếp tục có
những chính sách ưu đãi về thuế như thuế VAT, thuế nhà đất, thuế nhập khẩu giấy,
tiền thuê nhà, thuê đất,…
Đảng và Nhà nước cũng cần có những chính sách cụ thể hơn nữa về hợp tác
quốc tế về xuất bản, cần thông qua con đường ngoại giao văn hóa, tạo điều kiện cả về
quan hệ đối ngoại lẫn kinh phí đầu tư cho các hoạt động như tham gia hội chợ sách
khu vực và quốc tế, tham dự tọa đàm, hội thảo quốc tế về xuất bản...
Đảng và Nhà nước cũng cần quan tâm hơn nữa đến chính sách hỗ trợ hoạt động
xuất bản những loại sách phục vụ nhiệm vụ chính trị; sách đối ngoại; sách dành cho
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn; sách
dành cho thiếu nhi. Ngồi chính sách Nhà nước đặt hàng các đơn vị xuất bản những loại
sách này, cũng có thể quan tâm, hỗ trợ các đơn vị xuất bản ở từng khâu trong hoạt động

xuất bản như hỗ trợ trong việc mua bản quyền, dịch thuật, truyền thông, phát hành,...
Nhà nước cũng cần sớm soạn thảo và ban hành một nghị định của Chính phủ nhằm cụ
thể hóa Điều 7 Luật Xuất bản về chính sách hỗ trợ phát triển hoạt động xuất bản.
Trong thời đại công nghệ số hiện nay, Nhà nước cần xây dựng chính phủ điện
tử, chính quyền số, chính quyền thơng minh với khả năng chia sẻ các dữ liệu quản lý
nhà nước được triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo ra sự phối hợp liên ngành, liên
vùng, khai thác lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi ngành, lĩnh vực,


19
tạo ra sự kết nối cho phát triển xuất bản.
Để các nhà xuất bản ổn định và phát triển, toàn tâm vừa thực hiện nhiệm vụ chính
trị, vừa phát triển kinh tế, vai trò của cơ quan chủ quản là rất lớn. Thời gian tới, các cơ
quan chủ quản cần tập trung chỉ đạo thực hiện có chất lượng, hiệu quả những vấn đề sau:
Thứ nhất, quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực biên tập viên và
nhân sự lãnh đạo kế cận đáp ứng được tiêu chuẩn và thực tiễn cơng việc, tránh tình
trạng thiếu hụt nhân sự kéo dài như một số NXB thời gian vừa qua.
Thứ hai, quan tâm đầu tư NXB đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, thực hiện
chuyển đổi số trong hoạt động xuất bản, đóng góp vào sự phát triển - đưa ngành xuất
bản trở thành ngành kinh tế, công nghệ hiện đại. Thực hiện chuyển đổi số thành công,
đưa xuất bản điện tử thành mũi nhọn phát triển.
Thứ ba, bên cạnh việc định hướng, chỉ đạo các NXB thực hiện xuất bản được
nhiều sách có giá trị, đúng định hướng, có sức lan tỏa, tác động tích cực vào nhận
thức xã hội thì các cơ quan chủ quản cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chủ
quản; kịp thời uốn nắn, xử lý các sai sót, vi phạm của NXB, đặc biệt là sai phạm về
nội dung xuất bản phẩm.
Thứ tư, một số cơ quan chủ quản cần nghiên cứu, xem xét và có cơ chế tạo
điều kiện cho NXB trực thuộc đã có sẵn thế mạnh, tiềm lực có thể phát triển thành
những NXB lớn của cả nước trong tương lai (như nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam,
Kim Đồng, Văn hóa dân tộc, Tài ngun - Mơi trường và Bản đồ Việt Nam...). Bên

cạnh đó, cần nghiên cứu, đầu tư thiết thực cho những NXB có thế mạnh về đội ngũ
cộng tác viên làm công tác nghiên cứu khoa học, cơng nghệ để có thể xuất bản được
những cơng trình nghiên cứu khoa học, những bộ sách có giá trị, áp dụng vào đời
sống thực tiễn trong bối cảnh phát triển công nghệ 4.0.
Thứ năm, đối với một số NXB có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chưa
đạt yêu cầu, cơ quan chủ quản cần quan tâm, hỗ trợ hơn nữa; đồng thời, có kế hoạch
dài hạn để giúp NXB vượt qua khó khăn, hoạt động ổn định, thơng qua những hình
thức như đặt hàng xuất bản phẩm, bổ sung kinh phí hoạt động, đầu tư cơ sở vật chất...
Thứ bảy, phối hợp chặt chẽ hơn nữa với cơ quan quản lý trong việc định hướng
các NXB triển khai Chương trình sách Quốc gia và những chương trình sách đặt hàng
từ nguồn ngân sách Nhà nước, kết hợp với chương trình hỗ trợ xuất bản theo hình
thức xã hội hóa.
Thực tế cho thấy, NXB nào được cơ quan chủ quản thường xuyên quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đơn đốc... thì phát triển vững chắc, hồn thành tốt nhiệm vụ, ít
sai phạm. Ngược lại, NXB nào không nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của cơ


20
quan chủ quản, thì lúng túng, gặp khó khăn. Vì vậy, thời gian tới rất cần sự quan tâm
của cơ quan chủ quản cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chủ quản và cơ
quan quản lý trong việc chỉ đạo, định hướng, giám sát chặt chẽ và tạo cơ chế cho hoạt
động của NXB phát triển.
3.3.3. Công tác định hướng chính trị, tư tưởng phải tập trung vào việc chỉ
đạo thực hiện tốt chiến lược phát triển của ngành xuất bản; nâng cao hiệu quả
hoạt động của các nhà xuất bản; khắc phục tình trạng thương mại hóa trong hoạt
động xuất bản
Để phát huy vai trị chỉ đạo, định hướng trong hoạt động xuất bản đối với việc
triển khai thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển ngành xuất bản, cần tập trung
vào những giải pháp cụ thể sau:
Một là, xây dựng quy chế phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo, quản lý nhà nước về

xuất bản, cơ quan chủ quản; trên cơ sở làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
chế phối hợp hoạt động.
Hai là, nghiên cứu, đề xuất, xây dựng các đề án, sắp xếp, đổi mới tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các nhà xuất bản, các đơn vị in, phát hành
phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ trong bối cảnh mới của xã hội.
Ba là, quan tâm chỉ đạo xây dựng và củng cố công tác tổ chức, công tác cán
bộ, định hướng hoạt động và thẩm định các đề tài từ đề xuất của các nhà xuất bản.
Bốn là, phát huy vai trò của tổ chức Đảng cơ sở trong thực tiễn hoạt động xuất
bản; nhấn mạnh các nội dung về phương hướng, định hướng chiến lược, nhất là chiến
lược về xây dựng đội ngũ cán bộ xuất bản; thống nhất mơ hình tổ chức cơ sở Đảng,
bố trí bí thư, cấp ủy nhằm phát huy tốt vai trò chỉ đạo, định hướng của Đảng trực tiếp,
thường xuyên, liên tục đối với hoạt động xuất bản trong từng đơn vị xuất bản.
Năm là, huy động, tổ chức, quản lý tốt mọi nguồn lực tham gia vào hoạt động
xuất bản, thúc đẩy công tác xã hội hóa hoạt động xuất bản, khơng phân biệt thành
phần kinh tế tham gia vào hoạt động in, phát hành, các hoạt động liên kết xuất bản,
hợp tác quốc tế về xuất bản với các nhà xuất bản, các đơn vị mua bán bản quyền trên
thế giới, cho phép các đơn vị đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Sáu là, thường xuyên tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra trong quá trình
triển khai hoạt động xuất bản nhằm kịp thời nhận diện những vấn đề sai lệch về chính
trị, tư tưởng đối với cán bộ xuất bản cũng như trong nội dung xuất bản phẩm, hạn chế
và khắc phục tối đa những sai phạm; kiên quyết ngăn chặn nạn in và phát hành sách
lậu; thực hiện nghiêm túc luật quyền tác giả nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
quyền tác giả cũng như quyền sở hữu trí tuệ của các đơn vị xuất bản.


21
Đối với các nhà xuất bản, cần thực hiện những giải pháp cụ thể sau nhằm phát
huy vai trò của cơng tác định hướng chính trị, tư tưởng đối với hoạt động xuất bản:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện quy trình nghiệp vụ xuất bản, theo tiêu chuẩn
chuyên nghiệp, từng bước hiện đại hóa từ cơng tác kế hoạch xuất bản đến tổ chức bản

thảo, quy trình biên tập nội dung đến các quy trình sản xuất khác tạo ra thành phẩm, và
hoạt động nhân bản, quản trị chuỗi cung ứng, lưu thông trên thị trường.
Thứ hai, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm của lãnh đạo, người
quản lý trong việc xây dựng và phát triển nhà xuất bản cũng như chủ động, kịp thời
đề xuất những kiến nghị với cấp trên để có những chế độ, chính sách phù hợp với
thực tiễn của từng đơn vị xuất bản.
Thứ ba, đề cao tính chủ động và chịu trách nhiệm cá nhân trong quá trình tổ
chức hoạt động xuất bản. Ngồi vai trị và trách nhiệm của biên tập viên, tổng biên
tập như đã phân tích ở trên, cần nêu cao vai trò của từng đảng viên cũng như tổ chức
cơ sở Đảng tại nhà xuất bản.
Thứ tư, tiến hành tổ chức định kì và thường xuyên công tác thi đua, khen
thưởng, phát hiện và biểu dương kịp thời các cá nhân, tổ chức có thành tích; đồng
thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, xử lý kỉ luật nghiêm những
trường hợp sai phạm nói chung, trong đó có vi phạm về chính trị, tư tưởng trong quá
trình tham gia vào hoạt động xuất bản của các tổ chức cũng như từng cán bộ xuất
bản. Kết hợp chặt chẽ công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, quần chúng với
công tác kiểm tra, giám sát đảng viên trong các nhà xuất bản.
3.3.4. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành xuất bản
Để có đội ngũ cán bộ xuất bản giỏi về chun mơn, nghiệp vụ, vững vàng về
chính trị, cần phải:
Một là, xây dựng kế hoạch NNL của toàn ngành cũng như của mỗi nhà xuất
bản trong từng giai đoạn, gắn với chiến lược phát triển ngành xuất bản/từng nhà xuất
bản nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động và bối cảnh hội nhập
hiện nay.
Hai là, xây dựng kế hoạch đào tạo NNL cho từng thời kỳ, từng giai đoạn.
Ba là, xây dựng chuyên ngành mới: xuất bản số; số hóa bản thảo và quản trị dữ
liệu, kinh doanh sách điện tử,... Xây dựng chuyên ngành đào tạo NNL chất lượng cao
trong xuất bản.
Bốn là, đổi mới chương trình đào tạo đáp ứng chất lượng NNL theo tiêu chí hội



22
nhập, hiện đại đồng thời đảm bảo tính đặc thù của ngành – cán bộ xuất bản trước hết
là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, cần được đào tạo bài bản về lý luận
chính trị, bên cạnh nghiệp vụ xuất bản và những kiến thức chuyên môn, kiến thức về
xuất bản số, ứng dụng khoa học - cơng nghệ trong hoạt động xuất bản. Khung
chương trình đào tạo, các môn học phải đảm bảo cân bằng giữa kiến thức lý luận
chính trị với kiến thức nghiệp vụ, chuyên môn; cân bằng giữa lý thuyết và thực hành,
gắn với thực tiễn. Đổi mới chương trình, nội dung, phải đồng bộ với đổi mới phương
pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra; vấn đề xây dựng đội ngũ giảng viên…
Năm là, thống nhất chỉ đạo phối hợp giữa Vụ Báo chí – Xuất bản, Cục Xuất
bản, In và Phát hành, Hội Xuất bản Việt Nam, các cơ quan chủ quản, các đơn vị
xuất bản với các trường, học viện trong việc tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất bản Trung ương và địa phương, quản lý các
nhà xuất bản; mở các lớp ngắn hạn bồi dưỡng nghiệp vụ về biên tập, kinh doanh
sách; cử giảng viên có nền tảng lý luận vững chắc, đồng thời giàu kinh nghiệm thực
tiễn tham gia giảng dạy. Đồng thời, kế hoạch đào tạo phải gắn với kế hoạch tuyển
dụng và đề bạt cán bộ tại các đơn vị xuất bản.
Sáu là, đầu tư về cơ sở vật chất kĩ thuật cho các trường học, với các phương
tiện, thiết bị hiện đại, có phòng thực hành phù hợp với sự phát triển của nền công
nghiệp xuất bản đang dịch chuyển trong xu thế chuyển đổi số - xu thế chung của
thời đại đang tác động vào mọi lĩnh vực của đời sống hiện nay.
3.3.5. Tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện cho
các cơ quan chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản và các nhà xuất bản
Các cơ quan làm công tác chỉ đạo, định hướng, quản lý hoạt động xuất bản và
các nhà xuất bản cần phải đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu, phát triển các công cụ, giải
pháp kĩ thuật để tăng diện phủ sóng, bao phủ, đồng thời có cơng nghệ hiện đại nhằm
kịp thời ngăn chặn, hạn chế những xuất bản phẩm có nội dung tiêu cực, phản động;
chủ động về giải pháp cơng nghệ để ngăn ngừa tình trạng vi phạm bản quyền nói
chung, đặc biệt là bản quyền sách điện tử và những xuất bản phẩm được số hóa khác.

Về chính sách thuế, căn cứ theo Nghị định số 111/2005/NĐ-CP, cần ban hành
quy định cụ thể về các loại thuế áp dụng đối với nhà xuất bản, cơ sở phát hành xuất
bản phẩm và các loại xuất bản phẩm. Cần thực hiện tốt hơn chính sách đặt hàng của
Nhà nước đối với các nhà xuất bản về xuất bản một số dịng sách chủ đạo, trong đó
xuất bản sách lý luận cần được quan tâm hơn nữa, cụ thể ở chính sách trợ cước, cung
cấp các sách lý luận chính trị cho tổ chức đảng ở cơ sở, sách khoa học đời sống cho


23
thư viện miền núi, biên giới hải đảo, vùng sâu vùng xa. Cần có chính sách hỗ trợ mua
bản quyền đối với các phẩm có giá trị trên thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu về thông
tin khoa học, về kinh tế, chính trị,... để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng
và triển khai chương trình sách quốc gia; triển khai các kế hoạch cụ thể về xuất bản,
phát hành sách lý luận chịnh trị thường niên và dài hạn, nhằm phục vụ các mục tiêu
về ổn định chính trị, phát triển kinh tế, khắc phục tình trạng thiếu sách, đói sách ở
những vùng xa trung tâm. Đồng thời, cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tạo điều
kiện về kinh phí cho ngành xuất bản, các nhà xuất bản được tham gia nhiều hoạt động
hợp tác quốc tế về xuất bản, tham gia các triển lãm, hội chợ sách trong khu vực và
trên thế giới; đầu tư cho dịch thuật, xuất bản các tác phẩm có giá trị của Việt Nam ra
tiếng nước ngồi, góp phần vào việc đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, phục vụ công tác
thông tin đối ngoại của Đảng.
Cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển văn hóa đọc trong xã hội, tăng
cường về số lượng cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống thư viện các cấp,
điểm văn hóa cơ sở; khuyến khích sự phát triển của mơ hình thư viện gia đình,
chương trình Sách hóa nơng thơn. Cần xây dựng và phát triển hệ sinh thái đọc cho
từng địa phương, phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của từng vùng. Tổ
chức nhiều giải thưởng sách hơn nữa, ưu tiên các dòng sách đặc biệt cần cho xã hội
hiện nay nhưng kén người đọc như sách khoa học; hay những sách phục vụ nhiệm vụ
chính trị,... nhằm tạo động lực hơn nữa để các đơn vị xuất bản đầu tư cho những thể
loại sách này. Nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách khuyến đọc đối với cán bộ,

đảng viên, người dân ở dòng sách lý luận chính trị, đảm bảo từng bước nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và cơng chúng nói chung.

KẾT LUẬN
1. Định hướng chính trị, tư tưởng là hoạt động lãnh đạo quan trọng của Đảng ta
nhằm truyền bá, phát triển hệ tư tưởng XHCN, xây dựng kiến trúc thượng tầng XHCN
về mặt hình thái ý thức. Định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng có vai trị quan trọng
đối với sự ổn định và phát triển của đời sống xã hội, xuất phát từ tính khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiều yếu tố khách quan khác.
2. Trong điều kiện cơ chế thị trường và tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, trong
bối cảnh cách mạng thông tin và cách mạng công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ và tác


×