Tải bản đầy đủ (.docx) (175 trang)

luan an tien si Tổ chức bộ máy Ban Quản lýKhu kinh tế đặc biệt cấp tỉnh tại vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.39 KB, 175 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo tinh thần Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế
từng bước CNH, HĐH, hình thành các vùng, cụm cơng nghiệp lớn trở thành
đầu tàu cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, các Khu Kinh tế (KKT), Khu
Công nghiệp (KCN), Khu chế xuất (KCX), Khu Công nghệ cao (KCNC),
Khu nông nghiệp công nghệ cao (KNNCNC), Khu công nghệ sinh thái
(KCNST), KCN chuyên ngành, KKT cửa khẩu đã đóng góp đáng kể vào phát
triển kinh tế xã hội Việt Nam. Tính đến tháng 9/2016, cả nước có 324 KCN, 9
KKT đã được Chính phủ quyết định thành lập; 3 KCNC đã được thành lập ở 3
miền.
Tất cả các loại KCN, KCX, KKT hay KCNC, KNNCNC đều được trao
những quy chế đặc biệt so với các vùng kinh tế cịn lại. Gọi chung các loại
khu đó theo thông lệ quốc tế là Khu Kinh tế đặc biệt (viết tắt là KKTĐB).
Các KKTĐB đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam giai đoạn qua. Đây là điều đã được các báo cáo phát triển kinh tếxã hội các tỉnh tổng kết.
KTTĐB đã thực hiện được 5 mục tiêu kinh tế là: 1) thu hút vốn đầu tư
trong và ngoài nước; 2) giải quyết việc làm; 3) Du nhập kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý tiến tiến; 4) Tăng năng lực xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ;
5) Góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội theo xu hướng CNH, HĐH.
Thuật ngữ KTTĐB (Special Economic Zone - SEZ) được sử dụng rất
phổ biến trên nhiều phương tiện thông tin của tất cả các nước trên thế giới. Đó
là cụm từ để chỉ rất nhiều loại vùng lãnh thổ có tính đặc biệt hơn so với các
vùng lãnh thổ còn lại, như: KCN; KCX; KKT các dạng (ven biển; biên giới,
hải đảo,v.v.); KCNC; KCN sinh thái; Cảnh biển tự do; khu mậu dịch tự
1


do;...v.v. Tùy từng nước có thể có tất cả các loại đó, nhưng một số nước chỉ có


một vài loại, ở Việt Nam chưa có hết tất cả các loại.
Tùy theo từng giai đoạn phát triển từng quốc gia sẽ hình thành các
KTTĐB đó. Ở Việt Nam từ 1991 đã bắt đầu hình thành KCX; tiếp theo 1994
hình thành các KCN. Và gần đây đang tiếp tục xuất hiện những loại KKTĐB
loại mới.
Các KKTĐB do có những nét đặc trưng khác với các vùng lãnh thổ còn
lại của quốc gia nên tất cả các nước đều xác định cụ thể nội dung quản lý nhà
nước (QLNN) vùng lãnh thổ đặc biệt này, có nhiều điểm khác so với các vùng
lãnh thổ còn lại của quốc gia. Mức độ khác nhau về nội dung QLNN các vùng
lãnh thổ đặc biệt này là khác nhau giữa các quốc gia và được thể hiện bằng
nhiều dạng văn bản khác nhau:
- Luật;
- Văn bản dưới luật.
Việt Nam hiện nay vẫn chưa có Luật về KTTĐB.
Do tính chất đặc biệt của các vùng kinh tế này, nên ln địi hỏi phải có
một tổ chức (cơ quan) đặc biệt, mang tính chun trách để có thể quản lý tốt
nhất các vấn đề kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ của vùng kinh tế đó, đây
là một vấn đề được quan tâm của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Cần một
cơ quan QLNN Trung ương để có thể đưa ra những định hướng chung cho sự
hình thành và phát triển các KKTĐB. Nhưng đồng thời phải có cơ quan quản
lý trực tiếp các KKTĐB của từng địa phương.
Cả nước hiện nay có 63 tỉnh, thành phố, nhưng có hơn 90 tên gọi khác
nhau cho các cơ quan QLNN các KKTĐB của địa phương. Đồng thời, Nghị
định của Chính phủ đã đưa ra một số định hướng về cơ quan QLNN các
KKTĐB địa phương, nhưng hiện nay các tỉnh chưa áp dụng giống nhau.
Mặc dù, vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN) đã hình thành
cùng với các vùng kinh tế trọng điểm khác, nhưng chưa có một đạo luật riêng
2



cho vùng kinh tế này; và cũng không hiệu quả khi khơng có một chủ thể, một
cơ quan nào có thể thực hiện chức năng quản lý toàn bộ cả vùng kinh tế trọng
điểm, khơng có pháp luật riêng và cũng chưa có một cơ chế quản lý cụ thể,
mang tính đặc trưng cho loại vùng kinh tế trọng điểm này.
Trong bối cảnh của Việt Nam cũng như nhiều nước, nghiên cứu để đưa
ra một cơ chế quản lý và một chủ thể quản lý đối với các KKTĐB có tính chất
đặc thù, đặc biệt khác đã và đang được quan tâm. Là vùng kinh tế được trao
một số ưu đãi đặc biệt về kinh tế - xã hội, nên địi hỏi cần phải có một chủ thể
để quản lý tất cả các vấn đề hoạt động kinh tế của KKTĐB cả trên phương
diện các vấn đề của lãnh thổ đó và cả ưu đãi đặc biệt.
KKTĐB là một vùng lãnh thổ, cho nên có tất cả các yếu tố mà một
vùng lãnh thổ phải thực hiện.
Mặt khác, KKTĐB là một vùng lãnh thổ đặc biệt, có những vấn đề
mang tính đặc biệt này. Do đó có những nội dung QLNN có tính chất đặc biệt
khác với quản lý vùng lãnh thổ nói chung.
Trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam, các KKTĐB đã và đang
được thành lập chỉ dừng lại ở cấp tỉnh. Đây là thông lệ chung của nhiều nước.
Do đó, tên của chủ thể được trao quản lý một số vấn đề của các KKTĐB trên
địa bàn của tỉnh (khơng có ở cấp huyện) gọi chung là Ban Quản lý KKTĐB
cấp tỉnh, nhằm phân biệt với cơ quan quản lý KKTĐB ở Trung ương. Mặt
khác, tên gọi này cũng mang ý nghĩa lịch sử khi tên ấy gọi là Ban Quản lý
KCX, KCN (cấp bộ), thì địa phương cũng có Ban Quản lý tương ứng, nhưng
chỉ đến cấp tỉnh.
Ban Quản lý KTTĐB cấp tỉnh còn nhiều chức năng, nhiệm vụ chồng
chéo, trùng lắp, sự phối kết hợp chưa tốt với các cơ quan chuyên môn cấp
tỉnh; cũng như sự phân cấp giữa Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh với Ban Quản lý
KKTĐB chưa rõ ràng nên hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, tạo mơi trường thơng thống
3



cho hoạt động của các KTTĐB cần có cơ quan thực hiện chức năng QLNN
các vấn đề mang tính đặc thù của KKTĐB trong mối quan hệ với trung ương,
UBND cấp tỉnh.
Xuất phát từ những u cầu có tính khách quan nêu trên, tác giả lựa
chọn nội dung nghiên cứu: “Tổ chức bộ máy Ban Quản lý Khu kinh tế đặc
biệt cấp tỉnh tại vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam” làm đề tài Luận án
tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận về tổ chức bộ máy quản lý
khu kinh tế đặc biệt và thực trạng tổ chức bộ máy Ban quản lý KKTĐB cấp
tỉnh, Vùng KTTĐPN, Luận án nhằm mục đích đề xuất cơ cấu tổ chức và các
giải pháp điều kiện để hoàn thiện cơ cấu tổ chức và vận hành tổ chức bộ máy
Ban Quản lý KTTĐB cấp tỉnh Vùng KTTĐPN.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong
việc thiết lập cơ quan (ban) quản lý KKTĐB để tìm ra các bài học và lý luận
cần thiết.
- Phân tích thực trạng tổ chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB Vùng
KTTĐPN để chỉ ra những ưu điểm, các kết quả đạt được, các hạn chế cần
khắc phục trong quá trình hoạt động của các cơ quan quản lý này.
- Đề xuất hoàn thiện cơ cấu tổ chức Ban KKTĐB cấp tỉnh theo hướng
QLNN trực tiếp tất cả các vấn đề trên KKTĐB.
- Đề xuất các giải pháp điều kiện để hoàn thiện cơ cấu tổ chức Ban
Quản lý KKTĐB cấp tỉnh theo hướng QLNN trực tiếp tất cả các vấn đề trên
KKTĐB Vùng KTTĐPN .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tổ chức bộ máy Ban Quản lý
4



KKTĐB cấp tỉnh tại Vùng KTTĐPN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu công tác tổ chức bộ máy Ban Quản lý
KKTĐB, bao gồm cơ cấu tổ chức, vị trí, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, mối
quan hệ phối hợp với các cơ quan khác và các điều kiện để vận hành Ban
Quản lý KKTĐB có hiệu quả
- Về khơng gian: vùng KTTĐPN, đó là 8 tỉnh: TP.Hồ Chí Minh, Đồng
Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền
Giang thuộc vùng KKTĐPN.
- Về thời gian: Các số liệu và dữ liệu phân tích được giới hạn trong
khoảng thời gian từ 2005 - 2015. Dự báo phát triển đến năm 2020 và tầm nhìn
đến 2030.
- Về Khách thể nghiên cứu: các loại KKTĐB có trên địa bàn tỉnh trong
giai đoạn hiện nay, bao gồm khu Chế xuất, khu Công nghiệp, Khu Kinh tế,
Khu Kinh tế cửa khẩu, Khu Công nghệ cao, Khu Nông nghiệp công nghệ cao,
Khu Công nghiệp sinh thái, v.v....
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở nhận thức về chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật
biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả luận giải các vấn đề về tổ
chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB theo tư duy logic biện chứng mang tính
khách quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp khảo cứu tài liệu:
Luận án sử dụng phương pháp khảo cứu tài liệu nhằm xây dựng khung
lý thuyết về tổ chức bộ máy của KKTĐB được sử dụng tại chương 1 và
chương 2. Đồng thời luận án cũng sử dụng phương pháp này nhằm tìm kiếm
các thơng tin số liệu thực tế về thực trạng về cơ cấu tổ chức Ban Quản lý

5


KKTĐB tại các tỉnh, thành phía Nam, được mơ tả cụ thể trong chương 3. Các
tài liệu được sử dụng đều đảm bảo tính khách quan, pháp lý, cập nhật.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Mục đích sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi nhằm chủ yếu
thu thập số liệu, thông tin về quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển
KKTĐB; quản lý về đầu tư, mơi trường, xây dựng, nguồn nhân lực, trật tự an
toàn xã hội trong KKTĐB; cơ cấu tổ chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB.
+ Thiết kế bảng hỏi
Có 2 bảng hỏi được thiết kế dành cho 2 nhóm đối tượng: (1) cán bộ,
cơng chức của các sở ngành có liên quan- đây là cơ quan tham mưu cho
UBND tỉnh về QLNN đối với các KKTĐB (xem phụ lục bảng hỏi ....) và (2)
công chức của Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn 8
tỉnh thành nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (bao gồm Bình
Phước, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang) (xem phụ lục bảng hỏi....)
Trước khi xây dựng bảng hỏi, tác giả đã trực tiếp đến địa bàn nghiên
cứu ở một số tỉnh như Bà Rịa- Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, TP. Hồ Chí
Minh để thực hiện phỏng vấn sâu với 2 nhóm đối tượng: (1) các đối tượng là
thành viên trong Ban quản lý các KKTĐB về các nội dung liên quan trực tiếp
đến nội dung của đề tài (mỗi KKTĐB có 5 thành viên được phỏng vấn), (2)
một số công chức của các sở : Nội vụ, Kế hoạch- Đầu tư, Xây dựng, Tài
nguyên& Môi trường, Công thương, Lao động- Thương binh & Xã hội (mỗi
sở 05 công chức). Căn cứ vào các thông tin thu thập được từ phỏng vấn sâu và
dựa vào giả thuyết nghiên cứu, bảng hỏi sơ bộ cho cả hai nhóm khảo sát được
hình thành. Để đảm bảo tính khách quan, khoa học và có thể trả lời được của
các câu hỏi, bảng hỏi sơ bộ đã được gửi lại các thành viên Ban Quản lý đã
được phỏng vấn ở các KKTĐB để lấy ý kiến. Sau khi tổng hợp các ý kiến
đóng góp, bảng hỏi được chỉnh sửa lại chuẩn bị cho nghiên cứu chính thức

6


Bảng hỏi đối với nhóm cán bộ, cơng chức của Ban quản lý khu cơng
nghiệp, khu chế xuất ngồi các phần câu hỏi mở (Phần 1: Thông tin chung,
Phần 3: ý kiến khác để hồn thiện q trình phân cấp, tổ chức bộ máy và cơ
chế phối hợp giữa ban quản lý khu kinh tế với các cơ quan có liên quan trên
địa bàn tỉnh), nội dung trọng tâm của bảng hỏi được tập trung vào phần 2 (Ý
kiến đánh giá về các nội dung liên quan đến quản lý, tổ chức và hoạt động của
khu kinh tế đặc biệt), theo đó số lượng nhân tố bao gồm 7 nhân tố (1) Quy
hoạch, kế hoạch, chính sách về phát triển khu kinh tế đặc biệt; (2) Quản lý
đầu tư trong khu kinh tế đặc biệt; (3) Quản lý các vấn đề môi trường của khu
kinh tế đặc biệt; (4) Quản lý vấn đề xây dựng (các giai đoạn thực hiện dự án
có liên quan đến xây dựng); (5) Quản lý vấn đề trật tự an toàn xã hội khu kinh
tế đặc biệt; (6) Quản lý nguồn nhân lực. Đối với nhân tố thứ 7 (Cơ cấu tổ
chức của khu kinh tế đặc biệt) được trình bày dưới dạng câu hỏi có/khơng sẽ
được trình bày kết quả trong một phần riêng biệt. Sáu nhân tố đầu tiên được
chia thành 30 biến quan sát.
Bảng hỏi đối với cán bộ, công chức các sở, ngành có liên quan, ngồi
phần thơng tin chung ở phần 1 và phần cơ cấu tổ chức ở phần 3 mang tính
mở, phần 2 cũng bao gồm 6 nhân tố, tuy nhiên trong các biến quan sát đã
được điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù là cán bộ, công chức là các cơ quan
tham mưu cho hoạt động quản lý nhà nước đối với KKTĐB.
Thang đo trong nghiên cứu và xây dựng dựa vào quy trình do Churchill
(1979) đưa ra (dẫn theo Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2008).
Thang đo ý kiến về đánh giá đối với các nội dung liên quan đến quản lý, tổ
chức và hoạt động của KKTĐB cấp tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sử
dụng thang đo Likert 5 mức độ; các câu hỏi đều ở dạng tích cực với việc phân
chia hai cực là mức 1- hồn tồn khơng đồng ý và mức 5 là hoàn toàn đồng ý.
+ Điều tra chính thức

Phương pháp chọn mẫu được áp dụng là phương pháp ngẫu nhiên phi
7


xác suất để vừa đảm bảo tính khách quan vừa đảm bảo tính đại diện của mẫu
nghiên cứu ở tất cả các tỉnh thuộc địa bàn nghiên cứu.
Số phiếu được phát ra 595, số phiếu thu về 595. Phiếu hỏi sau khi thu
về được xử lý dựa vào phần mềm SPSS phiên bản 20.0.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia:
Luận án còn thu thập ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý có
liên quan đến cơng tác quản lý khu kinh tế đặc biệt, bao gồm: Cán bộ lãnh đạo
các sở ban, ngành có liên quan và cán bộ đang làm việc tại Ban Quản lý khu
kinh tế đặc biệt trên địa bàn các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
để có căn cứ khoa học cho việc rút ra các kết luận một cách chính xác và đề ra
các giải pháp hồn thiện tổ chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp:
Luận án sử dụng phương pháp thống kê để thu thập số liệu thực tế về tổ
chức bộ máy quản lý khu kinh tế đặc biệt cấp tỉnh của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam trong phần thực trạng ở chương 3. Sau đó đó sử dụng phương
pháp phân tích để phân tích số liệu thực tế, đánh giá thực trạng về tổ chức bộ
máy quản lý KKTĐB, từ đó sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh nhằm
khái quát hóa vấn đề, rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân cần phải
khắc phục, từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện ở chương tiếp theo.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
5.1. Các câu hỏi nghiên cứu
Câu 1: Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý KKTĐB cấp tỉnh vùng
KTTĐPN như thế nào?
Câu 2: Để quản lý KKTĐB hiệu lực, hiệu quả cần hoàn thiện cơ cấu tổ
chức Ban Quản lý KKTĐB cấp tỉnh như thế nào?
Câu 3: Các giải pháp điều kiện nào cần phải đảm bảo để hoàn thiện cơ

cấu tổ chức Ban Quản lý KKTĐB?
5.2. Giả thuyết khoa học
8


Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý KKTĐB còn nhiều hạn chế về vị trí,
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ phối hợp trong quản lý
KKTĐB
KKTĐB là vùng lãnh thổ thuộc tỉnh có tính chất đặc biệt khác với vùng
lãnh thổ cịn lại. Vì vậy, cần phải hoàn thiện tổ chức bộ máy Ban Quản lý
KKTĐB theo hướng QLNN trực tiếp tất cả các vấn đề ngành, lĩnh vực trên
địa bàn KKTĐB nhằm phát huy tính đặc biệt của KKTĐB và quản lý
KKTĐB đạt được hiệu lực, hiệu quả như mong muốn.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Về lý luận: Luận án bổ sung thêm một số luận điểm, luận cứ góp phần
hồn thiện khung lý thuyết về tổ chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB cấp tỉnh
vùng kinh tế trọng điểm.
Về thực tiễn: Luận án đề xuất hoàn thiện cơ cấu tổ chức và đưa ra các
giải pháp điều kiện để hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý KKTĐB theo hướng
QLNN trực tiếp tất cả các vấn đề trên KKTĐB tại Vùng KTTĐPN.
7. Cấu trúc của Luận án
Cấu trúc của luận án gồm: Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, phụ lục,
danh mục tài liệu tham khảo. Luận án gồm bốn chương như sau:
Chương 1 : Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Chương 2: Cơ sở khoa học về tổ chức bộ máy Ban Quản lý Khu kinh tế
đặc biệt cấp tỉnh.
Chương 3: Thực trạng tổ chức bộ máy Ban Quản lý Khu Kinh tế đặc
biệt cấp tỉnh tại vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam.
Chương 4: Các giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy Ban Quản lý Khu
kinh tế đặc biệt cấp tỉnh vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam.


9


Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến tổ chức bộ máy quản lý
Khu kinh tế đặc biệt
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ngồi nước
Tổ chức bộ máy KKTĐB đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài
trên thế giới và trở nên phổ biến từ những năm 1960 của thế kỷ thứ 20. Có
nhiều cơng trình nghiên cứu phong phú và đa dạng về tổ chức bộ máy quản lý
KKTĐB, có thể kể đến một số nghiên cứu gần đây và kết luận của các nghiên
cứu sau:
Tác giả Christina Hirche, giới thiệu trên Achem Asia (2007) thông tin
về KCN ở Trung Quốc. Theo tác giả, KCN ở Trung Quốc chia thành ba cấp:
Trung ương, tỉnh và cấp địa phương. Các KCN cấp quốc gia là loại hình thu
hút nhiều đầu tư nước ngồi nhất. Đồng thời, mơ hình quản lý KCN cũng tạo
cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ở Trung Quốc hiện áp dụng hai mơ hình
quản lý: mơ hình Ủy ban hành chính lồng ghép và mơ hình Ủy ban hành
chính tự quản và công ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN. Trong mơ hình thứ
nhất, Ủy ban hành chính chịu trách nhiệm quản lý chung tất cả các vấn đề gắn
với KCN; trong mơ hình thứ hai, những vấn đề liên quan đến cung cấp dịch
vụ, tiện ích; sắp xếp vị trí cho các cơng ty do cơng ty phát triển đảm nhận.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư vào các KCN là những hoạt động đầu tư mới, về
nguyên tắc cơ quan QLNN tương ứng sẽ quy định những điều kiện thực hiện.
Do đó, cơng ty phát triển chỉ đóng vai trị thực hiện. Các KCN chia thành khu
phát triển công nghiệp và kinh tế không bao gồm các ngành công nghiệp
nặng. KCN gắn với phát triển công nghiệp công nghệ cao và mới nhằm thu
hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao. Tuy nhiên, tác giả khơng giới

thiệu chi tiết hai mơ hình quản lý nêu trên.
Các tác giả Yannick Saleman và Luke Jordan [105, tr4-8], khơng trình
10


bày mơ hình nào cụ thể về KCN. Tuy nhiên các tác giả lại phân tích cách tiếp
cận về các bên có liên quan đến sự thành cơng của KCN. Các tác giả thừa
nhận tính hấp dẫn về lý thuyết của mơ hình KCN. Tuy nhiên, trên thực tế mơ
hình hấp dẫn đó phụ thuộc vào cách thức mà các bên tham gia vào hoạt động
của KCN. Mơ hình quản lý mà các tác giả phân tích chính là vai trò của nhà
nước khi tạo nên những điều kiện hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư. Vì vậy,
KCN hay tên gọi chung là KKTĐB (special econmic zones - SEZ) địi hỏi
phải có tính đặc biệt. Khi tạo ra KKTĐB, các bên có liên quan phải xác định
cụ thể vai trị của họ. Theo các tác giả, mơ hình KKTĐB vận hành dựa trên
nguyên tắc giải quyết 9 vấn đề:
- Chọn địa điểm;
- Xác định đòi hỏi hiện tại và tiềm năng;
- Thủ tục mua, bán đất;
- Thiết kế hay kế hoạch tổng thể ;
- Cơ cấu tài chính và kế hoạch tài chính;
- Mua các cơ sở hạ tầng;
- Xây dựng hạ tầng;
- Vận hành và duy tu;
- Giám sát và đánh giá.
Tất cả 9 vấn đề đó phải được chia sẻ trách nhiệm, nhiệm vụ giữa các
chủ thể có liên quan:
- Chính phủ Trung ương;
- Chính quyền địa phương;
- Các tổ chức khu vực tư nhân.
Xác định rõ sự tham gia của các bên, tuy nhiên vai trị của nhà nước rất

quan trọng cho những bước chính sách đầu tiên. Theo nhóm tác giả, do các
mơ hình quản lý khơng đạt được sự phân định nên có thể tạo ra:
- Mục tiêu không rõ;
11


- Địa điểm không phù hợp;
- Đầu tư vào hạ tầng không đủ;
- Năng lực thực hiện hạn chế và không đủ quyền hạn;
- Thiếu sự hỗ trợ của cấp cao hơn hoặc thiếu bền vững.
Hệ quả của mơ hình quản lý có thể tạo nên các KCN được phê duyệt,
nhưng hoạt động kém:
- Không được xây dựng đủ hạ tầng;
- Được xây dựng nhưng đáp ứng nhu cầu thấp của doanh nghiệp;
- Chỉ thu hút được lĩnh vực hẹp;
- Xây dựng, khai thác tốt nhưng khơng có tác động tích cực đối với
vùng lận cận KKTĐB như mong muốn.
Tuy nhiên, tác giả khơng cho biết mơ hình quản lý cụ thể bao gồm
những yếu tố gì. Các nội hàm khoa học về tổ chức bộ máy quản lý không
được nêu rõ về hình thức cũng như mơ hình quản lý.
Các tác giả Hermann G. Hauthal and Tiina Salonen [80, tr 3-5], đã giới
thiệu về mơ hình hai KCN của Trung Quốc: Khu phát triển công nghệ và kinh
tế Thiên Tân (The Tianjin Economic and Technological Development Area
TEDA) và KCN hóa chất Thượng Hải (Shanghai Chemical Industry Park
SCIP). Cả hai KCN đều tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình Ủy ban hành
chính tự quản và cơng ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN. Theo các tác giả, tại
Thiên Tân, Công ty trách nhiệm hữu hạn TEDA chịu trách nhiệm về bất động
sản (đất đai), phát triển hạ tầng; cung cấp các dịch vụ như điện, nước sạch,
nước thải; gas; các hoạt động liên quan đến xử lý nước thải, rác thải.
Mơ hình quản lý KCN của Thượng Hải cũng có tên gọi giống như của

Thiên Tân. Ủy ban hành chính có trách nhiệm phê duyệt các dự án đầu tư và
phối hợp hoạt động sản xuất, kinh doanh giữa chính quyền thành phố với
KCN hóa chất Thượng Hải và Công ty đầu tư phát triển KCN. Các hoạt động
đòi hỏi phối hợp liên quan đến KCN như: phát triển và xây dựng hạ tầng;
12


cung cấp dịch vụ điện, nước; xử lý chất thải và mua bán đất. Công ty đầu tư
phát triển KCN là công ty nhà nước và tất cả các công ty đóng trên địa bàn
lãnh thổ của KCN đều là thành viên của công ty đầu tư phát triển hạ tầng
KCN. Công ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN liên doanh với nhiều cơng ty
trong và ngồi nước để xây dựng hạ tầng; khai thác hạ tầng cũng như xử lý
chất thải.
Tác giả Han Minli đã giới thiệu mô hình quản lý một trong những KCN
có những thành tích nhất định của Trung Quốc. KCN Trung Quốc -Singapore
[84, tr26-30].
Quản lý KCN này cấu thành từ bốn nhóm yếu tố:
- Hội đồng chỉ đạo chung Singapore - Trung Quốc. Đây là cơ quan nhà
nước cấp cao quản lý KCN. Hội đồng do 2 Phó Thủ tướng của hai nước đứng
đầu;
- Ủy ban công tác chung Singapore – Trung Quốc;
- Ủy ban hành chính KCN;
- Cơng ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN Singapore – Trung Quốc.
Cơ quan thứ hai chỉ mang tính định hướng do Thị trưởng Tơ Châu và
Chủ tịch Hội đồng phát triển kinh tế Singapore đồng chủ trì. Ủy ban sẽ giải
quyết những vấn đề bức xúc trực tiếp của KCN. Hai bộ phận chịu trách nhiệm
quản lý KCN là Ủy ban hành chính và Cơng ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN.
Ủy ban hành chính là cơ quan của chính quyền địa phương Trung Quốc
chịu trách nhiệm tất cả các vấn đề mang tính pháp lý để đầu tư vào KCN.
Công ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN là công ty liên doanh giữa nhiều

công ty của Singapore và Trung quốc để phát triển hạ tầng.
Tác giả Leonard Sahling [83, tr7-9], đã giới thiệu về cách hình thành
KKTĐB, các KCN quốc gia của Trung Quốc (National Industrial Parks). Sự
đóng góp của KKTĐB và các KCN quốc gia rất lớn cho sự tăng trưởng kinh
tế của Trung Quốc. Mơ hình quản lý các KCN quốc gia thống nhất theo Ủy
13


Ban Quản lý (management committee), đó là cánh tay nối dài của chính
quyền địa phương (cấp vùng hay cấp tỉnh); đồng thời, mỗi một KCN quốc gia
có một Cơng ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN. Nhiệm vụ chính của các Công
ty đầu tư phát triển hạ tầng KCN là tạo ra những điều kiện hấp dẫn nhất về hạ
tầng cũng như cung cấp dịch vụ (bên cạnh những chính sách khác của chính
quyền) để thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhằm lấp đầy các KCN. Ủy
Ban Quản lý chịu trách nhiệm quản lý các vấn đề liên quan trực tiếp đến
KCN. Nhiệm vụ chủ yếu gồm:
- Xem xét việc cung cấp dịch vụ cộng đồng như: cảnh sát, cứu hỏa; thu
gom rác thải cho các doanh nghiệp trong KCN;
- Chuẩn bị và quản lý báo cáo tài chính của KCN nhằm duy trì tình
trạng tài chính đúng, đủ;
- Điều hành, quản lý đất của KCN; hoàn thiện hạ tầng, lập kế hoạch
tổng thể và cấp phép xây dựng;
- Quản lý lao động nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cả hai bên
người lao động và người sử dụng lao động trong KCN.
Tác giả chỉ ra rằng các KCN quốc gia không chỉ cạnh tranh với nhau
trong việc thu hút đầu tư trực tiếp vào KCN của mình mà cịn phải cạnh tranh
với cả các KCN của địa phương (tỉnh và cấp thấp hơn). Hoạt động của các
KCN địa phương thường chịu nhiều rủi ro và chịu sự quản lý của Chính phủ
Trung ương nên trên thực tế, các doanh nghiệp nước ngoài thường chọn KCN
quốc gia hơn là của địa phương. Các ủy Ban Quản lý thường phải cạnh tranh

để có thể hồn thiện việc cung cấp dịch vụ, hạ tầng nhằm thu hút đầu tư của
các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài; và tùy theo mức độ cạnh tranh và sự cho
phép của Chính phủ Trung ương, các KCN quốc gia có thể mở rộng phạm vi
hoạt động ngoài địa giới của KCN.
Nhóm tác giả trình bày tại Hội thảo“mơ hình quản lý khu công nghiệp
nhằm hướng đến thành công” [87, tr.10-17], nhấn mạnh tính đặc thù của từng
14


KCN của từng nước và ngay cả trong một quốc gia nên khơng có mơ hình
quản lý KCN nào là phù hợp cho tất cả các loại KCN. Cần phải có đánh giá
cụ thể địi hỏi và chấp nhận mơ hình quản lý KCN phù hợp với điều kiện của
từng vùng. KCN phải được lồng ghép chung với khuôn khổ đổi mới của
vùng. KCN đòi hỏi sự tham gia một cách tích cực của các thành viên có liên
quan và mỗi một thành viên phải đảm nhận những chức năng nhất định.
Những vấn đề lớn như: quản trị KCN; xây dựng chiến lược phát triển hay các
quyết định đầu tư.v.v. và các chủ thể nhà nước, ngân hàng và các doanh
nghiệp phải liên kết với nhau để hình thành Hội đồng. Đồng thời phải xác
định những yếu tố mang tính kỹ thuật như: mục tiêu, tài chính và các loại
hình, lĩnh vực sẽ thu hút. Một cơ cấu tổ chức mang tính hội đồng và linh hoạt.
Và điều đó thuận tiện cho cả ba nhóm yếu tố hoạt động. Những vấn đề quan
tâm trên phương diện quản lý KCN:
- Một chính sách chiến lược phát triển quốc gia;
- Việc phân loại, xác định các lĩnh vực công nghiệp và đầu tư vào
KCN;
- Chọn địa điểm của KCN;
- Hạ tầng và cung cấp dịch vụ;
- Năng lực quản lý chung;
- Liên kết đổi mới;
- Tiếp thị và xúc tiến đầu tư;

- Liên kết hệ thống.
Mơ hình quản lý trên sẽ có thể tạo ra sự phối kết hợp tốt cho mọi chủ
thể có liên quan đến hoạt động đầu tư tại các KCN.
Tác giả Vincent Bricout, đưa ra một cách tiếp cận quản trị KCN [102].
Theo tác giả, cân bằng chiến lược phát triển KCN theo quan điểm nhà nước
và nhà đầu tư là nền tảng cho sự thành công của mơ hình KCN. Thất bại có
thể thấy ngay ở nhiều nước khi nhà nước có thể lãng phí rất nhiều triệu đôla
15


để phát triển hạ tầng, nhưng lại không thu hút được nhà đầu tư. Ngay cả nước
thành công như Trung Quốc, giai đoạn đầu đã thất bại do thiếu liên kết và chỉ
khi cân bằng được lợi ích của nhà nước và nhà đầu tư mới đem lại kết quả.
Cân bằng quyền quyết định các vấn đề gắn với KCN và các chủ thể có liên
quan, theo tác giả phải là nền tảng của quản trị tốt KCN.
Ba mơ hình có thể sử dụng cho quản trị tốt KCN:
- Một chủ thể được trao tư cách pháp lý để quản lý. Chủ thể này được
thành lập dựa trên một văn bản pháp luật cụ thể. Chủ thể có quyền phát triển
và quản lý KCN. Singapore là ví dụ khi chủ thể này là cơ quan QLNN chịu
trách nhiệm quản lý tồn bộ các KCN;
- Tập đồn. Đó là một chủ thể hoạt động vì lợi nhuận, phát triển và
quản lý các KCN phức tạp. KCN cảng biển Rotterdam là một ví dụ khi
chuyển từ cơ quan thuộc chính quyền địa phương sang hình thức tập đồn.
- Sự kết hợp của cả hai nhóm trên. Trong mơ hình quản lý này, các chủ
thể có tư cách pháp lý của nhà nước sẽ chịu trách nhiệm với các lợi ích của
nhà nước và quản lý KCN; một chủ thể mang tính tập đoàn chủ yếu chịu trách
nhiệm xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng cũng như cung cấp dịch vụ, cho
thuê đất và hạ tầng. Trung Quốc hiện nay áp dụng mơ hình này.
Tuy nhiên, khơng có mơ hình nào tuyệt đối. Để vận hành tốt một trong
ba dạng trên, cần xác định:

- Phạm vi chức năng, quyền hạn;
- Phạm vi nguồn tài trợ;
- Tính pháp lý của hội đồng quản lý;
- Phân chia lợi nhuận.
Tập đoàn VizExec [107] xây dựng mơ hình quản lý KCN theo 5 nhóm
yếu tố như sau:
- Hệ thống quản lý KKTĐB: Dựa trên quan điểm KCN hay vùng kinh
tế đặc biệt đòi hỏi cách quản lý tồn diện, có sự tham gia của nhiều chủ thể.
16


Đó là: cơ quan quản lý KKTĐB; các nhà đầu tư phát triển; các nhà khai thác,
sử dụng; Các cơ quan nhà nước khác.
- Hệ thống quản lý hành chính: Chịu trách nhiệm khá nhiều vấn đề
mang tính sự vụ như: giải quyết visa; mua vé; nhà khách; sân bay, cảng biến;
quản lý đi lại; các dịch vụ khác;
- Hệ thống quản lý bất động sản: quản lý bất động sản; quản lý quan hệ
khách hàng; sử dụng các tiện ích, nhà; quản lý các duy tu, bão dưỡng định kỳ;
- Hệ thống quản lý tài sản: Đó là những nhóm liên quan đến khai thác;
quản lý tổ chức; quản lý tài chính và nhóm duy tu bảo dưỡng;
- Hệ thống quản lý dự án. Các dự án đầu tư vào KCN cần phải được
quản lý theo những nguyên tắc mang tính phối kết hợp.
Khi kết hợp cả 5 nhóm hệ thống trên, sẽ tạo nên mơ hình quản lý
KKTĐB hiệu quả. Nhìn chung nghiên cứu mơ hình QLNN các KKTĐB ở các
nước không được chú ý. Một mặt pháp luật quản lý nói chung các hoạt động
kinh tế cũng như KKTĐB đã quy định khá cụ thể. Mặt khác, mỗi một
KKTĐB lại có một quy định cụ thể cho KKTĐB đó.
Trong cơng trình “định hướng thực tiễn tốt nhất cho phát triển vùng
kinh tế vùng Trung Đông và Bắc Phi” do OECD tổ chức (2009) [85] đã giới
thiệu về những vấn đề liên quan đến phát triển các vùng KKTĐB ở các nước

Trung Đông và Bắc Phi.
Bên cạnh những cách tiếp cận chung nhất về KKTĐB cũng như xu
hướng phát triển KKTĐB trong vùng MENA (Middle East and North Africa),
nhóm tác giả đã nhấn mạnh bốn nhóm yếu tố cần để có thể phát triển và vận
hành các KKTĐB hiệu quả. Đó là:
- Khung chính sách;
- Khung khuyến khích;
- Khuôn khổ quy chế;
- Khuôn khổ thể chế.
17


Khn khổ chính sách: theo nhóm tác giả, các nước khu vực MENA đã
lựa chọn một số chính sách sau:
- Đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư vào KKTĐB, khơng phân biệt
nhà đầu tư trong hay ngồi nước; liên kết gia tăng kinh tế vùng với kinh tế
quốc gia;
- Nhiều nước Egypt, Iraq, Kuwait, Palestinian National Authority,
UAE, Syria and Yemen cho phép 100% sở hữu nước ngoài trong KKTĐB;
- Ai Cập , Tiểu Vương quốc Ả rập và Jordan không đưa ra hạng mức
tối thiểu xuất khẩu để được hưởng chính sách ưu đãi thuế quan.
Riêng điều này cũng có thể giúp Việt Nam suy nghĩ khi chỉ ưu tiên
chính sách ưu đãi cho đầu tư nước ngồi.
Khn khổ khuyến khích: các nước thuộc vùng MENA áp dụng khn
khổ chính sách phổ biến:
- Một số nước vùng MENA áp dụng khuyến khích thuế ở mức rất linh
hoạt;
- Thuế thu nhập cá nhân được áp dụng sẽ được miễn trừ một số năm
cho cơng dân nước ngồi;
- Thuế thu nhập công ty được miễn trong 10 năm đầu cho tất cả các

cơng ty cả trong và nước ngồi.
Khn khổ quy tắc, thủ tục: tất cả nhằm tạo thuận lợi cho nhà đầu tư.
- Đơn giản hóa đến mức tối đa thủ tục đăng ký kinh doanh;
- Áp dụng cơ chế một cửa tại một cơ quan nhà nước;
- Công khai các loại thủ tục;
- Các loại giấy phép liên quan đến hoạt động trong KKTĐB được trao
cho cơ quan vùng và cũng theo cơ chế một cửa (one-stop shop services).
Khuôn khổ thể chế: cần xem xét khuôn khổ thể chế phù hợp với từng
điều kiện cụ thể.
- Trao đủ quyền tự chủ cho cơ quan quản lý KKTĐB, cụ thể trên lĩnh
18


vực như nhân sự, ngân sách, chi tiêu, chính sách vi mơ;
- Cần có một Hội đồng độc lập bao gồm đại diện cho các bộ quản lý;
đại diện cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư, chính quyền địa phương để xem
xét quyết định các vấn đề của KKTĐB;
- Mỗi cơ quan quản lý KKTĐB phải có bộ phận “1 cửa” nhằm giải
quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn trao cho cơ quan quản lý
KKTĐB;
- Những loại dịch vụ khơng mang tính quản lý có thể sử dụng nguồn
cung cấp từ bên ngồi.
Hiện nay khơng có tài liệu giới thiệu tổng quan mơ hình quản lý
KKTĐB chung. Nguyên nhân chính là từng quốc gia và từng KKTĐB có mơ
hình quản lý khác nhau để phù hợp với hoạt động từng KKTĐB.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước
- Sách, báo
Có nhiều cơng trình ở các dạng sách, bài tạp chí, bài viết trên báo điện
tử, hội thảo với nhiều hướng tiếp cận, đáng chú ý có một số bài viết của các
tác giả sau:

+ Cuốn sách “Tác động xã hội vùng của các khu công nghiệp Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Bình Giang, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2012
trình bày nhiều nội dung, chủ yếu đánh giá tác động tới môi trường và sức
khỏe, cũng là những gợi ý quan trọng để xem xét khía cạnh quản lý nhằm hạn
chế tác động xấu đối với xã hội của Ban Quản lý KKTĐB.
+ Bài viết “Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động, việc làm ở
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Cộng sản tháng 5/2008.
Bài viết đã phân tích sự cần thiết phát triển KCN với vấn đề việc làm, giải
quyết lao động ở Việt Nam, tác giả nêu rõ mối quan hệ và vai trò của KCN
đối với vấn đề lao động và việc làm.
+ Trong bài viết “Tiếp cận lý thuyết cụm công nghiệp và hệ sinh thái
19


kinh doanh trong nghiên cứu chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ
trợ ở Việt Nam”, tác giả Lê Thế Giới, Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, Đại
học Đà Nẵng, số 1 (30) 2009 đã bàn về hệ sinh thái kinh doanh tác động vào
chính sách thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ, thực chất nâng cao năng lực cạnh
tranh trong kinh doanh, khai thác và phát triển công nghiệp hỗ trợ tạo sản
phẩm mang thương hiệu Việt Nam trong phát triển các KCN.
+ Bài viết “Các khu công nghiệp ở Việt Nam: hướng tới sự phát triển
bền vững” của TS. Phạm Thanh Hà, Tạp chí Cộng sản số 02/2015. Tác giả
nghiên cứu những chuyển biến, khởi sắc và thành công của nền kinh tế - xã
hội nước ta trong công cuộc đổi mới, mở cửa với dấu ấn đậm nét của việc
hình thành, phát triển các KCN, KCX, KKT (trong bài viết này gọi chung là
KCN - KCN). Ðây là một động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Vì thế, phát triển bền vững các KCN sẽ góp phần vào chiến lược
phát triển bền vững của Việt Nam. Tác giả nêu lên thực trạng và bất cập trong
phát triển KCN ở Việt Nam, từ đó đề xuất hai giải pháp về hạn chế phát triển
quá nóng và phân cấp, ủy quyền cho các Ban Quản lý KCN có thể triển khai

đầy đủ thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa - tại chỗ.
Những cơng trình trên đem đến cách nhìn đa chiều về KCN, KKT, các
chính sách phát triển KCN, KKT nói chung mà chưa nghiên cứu về tổ chức
bộ máy Ban Quản lý KKTĐB.
- Các đề tài khoa học, đề án cấp Bộ
+ Đề tài của tác giả Thang Văn Phúc, Bộ Nội vụ (1996), “Nghiên cứu
mơ hình tổ chức quản lý hành chính nhà nước các khu kinh tế đặc biệt, khu
chế xuất, khu công nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện cải cách hành chính”.
Có thể nói đây là cơng trình nghiên cứu về tổ chức bộ máy quản lý KCN,
KKT đầu tiên ở nước ta. Đề tài đã nêu rõ và đầy đủ về khái niệm và đặc điểm
KKTĐB, lập luận có sức thuyết phục về sự cần thiết và khả năng phát triển
của các KKTĐB ở nước ta, khái quát một số kinh nghiệm quốc tế về tổ chức
20


QLNN đối với KKTĐB. Đề tài đã phân tích với sự chính xác cao hệ thống tổ
chức QLNN đối với các KKT, KCX và KCN ở nước ta trong các văn bản
pháp lý của nhà nước. Đề tài cũng đã nêu được ba yêu cầu của việc hình
thành hệ thống QLNN đối với KKTĐB. Đó là: đủ sức đảm đương những
nhiệm vụ cơ bản; phản ánh tính đặc thù của đối tượng quản lý; gọn nhẹ, ít đầu
mối, khơng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Đề tài, đề xuất bốn mơ hình tổ
chức hệ thống QLNN đối với KKT, KCX và KCN ở nước ta: mơ hình 1và mơ
hình 3 theo ngun tắc tản quyền. Mơ hình 4 theo ngun tắc phân quyền và
mơ hình 2 mang dấu ấn của cơ chế chủ quản. Do vậy, đi liền với việc hình
thành một hệ thống tổ chức QLNN các KCN và KCX, cần thiết phải khẩn
trương nghiên cứu, ban hành một hệ thống luật pháp và những văn bản pháp
quy điều chỉnh các hoạt động xây dựng, sản xuất kinh doanh ở các KCN và
KCX; phải sớm nghiên cứu áp dụng “cơ chế một cửa tại chỗ” trên thực tế đối
với các nhà đầu tư vào các KCN và KCX cũng như vấn đề kết hợp quản lý
theo ngành và theo lãnh thổ đối với các KCN, KCX ở nước ta.

+ Đề án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Nội vụ, 2014 “Nghiên cứu
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Ban Quản lý khu công
nghiệp, khu kinh tế”, đề xuất 2 phương án. Phương án 1, các phòng thuộc cơ
cấu tổ chức cứng, bao gồm: Văn phịng, Phịng có chức năng tổng hợp. Trong
đó, Phịng có chức năng tổng hợp sẽ thực hiện các nhiệm vụ về tổng hợp, báo
cáo về chính sách chung, xây dựng kế hoạch xây dựng và phát triển, kế hoạch
đầu tư phát triển KCN, KKT. Các phịng chun mơn nghiệp vụ thuộc các
lĩnh vực quản lý đầu tư, doanh nghiệp, môi trường, quy hoạch, xây dựng,
thương mại, v.v… và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc sẽ do UBND cấp tỉnh
quyết định.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phương án này có các thuận lợi là tăng
sự chủ động của UBND cấp tỉnh trong tổ chức bộ máy của Ban Quản lý; đồng
thời, phù hợp với thẩm quyền của UBND cấp tỉnh trong xây dựng chính
21


quyền địa phương quy định tại Điều 95 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003.
Phương án thứ hai, việc phân cấp, ủy quyền các nhiệm vụ chuyên
ngành cho Ban Quản lý tại các địa phương. Do đó, cơ cấu tổ chức các phịng
chun mơn của Ban Quản lý khơng thống nhất giữa các địa phương. Cụ thể
trong lĩnh vực lao động, một số Ban Quản lý được ủy quyền như: Ban Quản
lý KKT Dung Quất, Ban Quản lý các KCN Đồng Nai… nhưng cũng có Ban
Quản lý khơng được ủy quyền như: Ban Quản lý các KCN Ninh Thuận, Ban
Quản lý KKT Cà Mau… Một số Ban Quản lý được ủy quyền về lao động
nhưng nhập chức năng quản lý lao động với chức năng quản lý doanh nghiệp
hoặc chức năng khác để thành lập phịng chun mơn đa ngành, ví dụ: Phịng
Lao động Doanh nghiệp (Ban Quản lý các KCN Nam Định), Phịng Thương
mại cơng nghiệp - Lao động (Ban Quản lý KKT Kiên Giang). Việc các địa
phương chủ động tổ chức, sắp xếp các phịng chun mơn khơng gây ra nhiều

xáo trộn về cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khi tổ chức lại theo quy định.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phương án 2 có thuận lợi là cơ cấu và tên
gọi các Phòng chuyên môn của Ban Quản lý được quy định rõ hơn. Tuy
nhiên, phương án này không tạo ra sự linh hoạt trong tổ chức các Phịng
chun mơn của Ban Quản lý; gây ra xáo trộn trong cơ cấu tổ chức của Ban
Quản lý khi tổ chức lại theo quy định.
+ Đề tài của nhóm tác giả, ThS. Phạm Bình An, TS. Đặng Chí Chơn,
CN. Ngơ Anh Tuấn và KS. Nguyễn Tấn Phước (2006), Viện nghiên cứu phát
triển TP. Hồ Chí Minh “Cơ chế phối hợp quản lý giữa Ban Quản lý các khu
chế xuất và cơng nghiệp TP. Hồ Chí Minh với các cấp chính quyền và các sở,
ngành của thành phố”. Nhóm tác giả đã nghiên cứu thực trạng QLNN đối với
hoạt động của các KCX và KCN trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Chủ yếu là
thực trạng phối kết hợp quản lý hoạt động KCX và công nghiệp. Phân tích và
đánh giá cơ chế phối hợp giữa Ban Quản lý KCX và công nghiệp với các cấp
22


chính quyền và các sở, ngành của thành phố. Từ đó, các tác giả đã đề xuất và
kiến nghị cơ chế phối hợp, nguyên tắc phối hợp và xây dựng qui chế phối hợp
quản lý giữa Ban Quản lý KCX và KCN với các cấp chính quyền và các sở,
ngành của thành phố
- Ngồi ra, cịn có một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về chủ đề QLNN
đối với KCN, KCX:
+ Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Huy Tưởng, 1996, Đại học Kinh
tế Quốc dân Hà Nội, “Những phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước đối với sự hình thành và phát triển các khu chế xuất ở Việt Nam” là
cơng trình nghiên cứu cơng phu về KCX, có thể coi là luận án đầu tiên về
QLNN gắn với vùng kinh tế đặc biệt ở Việt Nam. Mặc dù sau này, nhiều tên
gọi khác nhau gắn với nó. Tác giả cung cấp thơng tin liên mang tính tổng
quan về KCX; QLNN KCX cũng như kinh nghiệm quản lý KCX của một số

quốc gia. Đồng thời tác giả luận án cũng chỉ ra những mặt tích cực cũng như
hạn chế của QLNN KCX. Và đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm điều
chỉnh, thay đổi hoạt động QLNN KCX. Từ 1996 lại nay, Việt Nam cũng như
các nước trên thế giới đã có rất nhiều thay đổi về quản lý vùng kinh tế đặc
biệt cũng như KCN hay KCX. Những thông tin tác giả luận án cung cấp cũng
là bài học cho việc nghiên cứu giai đoạn hiện nay.
+ Luận án Tiến sĩ kinh tế của Lê Tuyển Cử, 2004, Đại học Kinh tế
Quốc dân Hà Nội, “Những biện pháp phát triển và hoàn thiện công tác quản
lý nhà nước đối với khu công nghiệp ở Việt Nam”. Đây có thể coi là luận án
đầu tiên đề cập đến bức tranh toàn diện về vấn đề QLNN đối với các KCN ở
Việt Nam. Luận án cũng đã chỉ ra được vị trí đặc trưng của KCN trong q
trình phát triển cơng nghiệp hóa nói chung và Việt Nam nói riêng. Đồng thời
cũng đưa ra những thông tin liên quan đến công tác QLNN của một số quốc
gia đối với KCN. Cùng với phân tích thực trạng cơng tác QLNN các KCN
Việt Nam giai đoạn đó và chỉ ra những thành công hay thất bại và nguyên
23


nhân. Đồng thời, kiến nghị hồn thiện cơng tác QLNN các KCN đến năm
2010. Tuy nhiên, KCN ở Việt Nam nói chung và KCN của các nước đều trải
qua thăng trầm của sự thành cơng và thất bại. Do đó, luận án mới dừng lại cho
những giai đoạn trước 2004, những năm tiếp theo cần phải nghiên cứu làm rõ;
và luận án chỉ đề cập đến phương diện vĩ mô quản lý nhà nước đối với mơ
hình KCN, khơng đi vào quản lý nhà nước mang tính địa phương cụ thể.
+ Luận án Tiến sĩ của Lê Hồng Yến, 2007, Đại học Thương mại Hà
Nội, “Hồn thiện chính sách và mơ hình tổ chức quản lý nhà nước đối với
phát triển khu công nghiệp Việt Nam (thông qua thực tiễn các khu công
nghiệp Miền Bắc”. Tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề gắn với QLNN
các KCN trên địa bàn lãnh thổ phía Bắc trong giai đoạn đến năm 2006. Tác
giả đưa ra những lý giải về chính sách và mơ hình tổ chức QLNN các KCN,

đồng thời cung cấp thông tin về các hoạt động và tổ chức QLNN về KCN của
các nước. Tác giả phân tích và đánh giá sự thành công và chưa thành công của
các mơ hình QLNN ở Việt Nam cho vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và kiến
nghị những vấn đề đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy QLNN đối với KCN vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc. Tuy nhiên, luận án cũng chưa đề xuất được một
mơ hình cụ thể cho Ban Quản lý các KCN vùng kinh tế trọng điểm này.
Ngồi ra, cịn nhiều bài viết của các tác giả khác cũng viết về chủ đề
KCN, nhưng không tiếp cận từ góc độ tổ chức bộ máy Ban Quản lý.
1.2. Đánh giá về các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước và định
hướng nghiên cứu
1.2.1. Những giá trị có thể tiếp thu
Thơng qua tổng quan các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước về
tổ chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB vùng kinh tế trọng điểm, tác giả luận án
nhận thấy có thể kế thừa từ các tác giả đi trước một số nội dung lý luận sau:
- Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã cung cấp cho tác giả một cơ sở
lý luận khá toàn diện về các loại KKTĐB về hình thức, mơ hình, bản chất, vai
24


trị của các KKTĐB.
- Các cơng trình nghiên cứu của nước ngoài đã cung cấp cho tác giả
kinh nghiệm về tổ chức bộ máy quản lý KKTĐB. Những kinh nghiệm đó giúp
cho nghiên cứu tổ chức bộ máy quản lý KKTĐB ở Việt Nam nhằm phát triển
kinh tế, nâng cao mức sống cho người dân và tạo công bằng xã hội, năng lực
cạnh tranh và hiệu quả quản lý các KKTĐB.
- Thực trạng tổ chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB vùng kinh tế trọng
điểm đã được các cơng trình phân tích làm rõ, với nguồn số liệu dồi dào,
phong phú. Qua đó, tác giả có được cái nhìn khái quát về thực trạng vấn đề tổ
chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB, xác định được những hướng nghiên cứu
thực tiễn chính, những số liệu cần tiếp cận, cũng thơng qua đây, tác giả có cơ

sở để xây dựng kế hoạch điều tra, khảo sát địa bàn nghiên cứu trong lĩnh vực
tổ chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB Vùng KTTĐPN
Luận án sẽ kế thừa các quan điểm khác nhau về tổ chức bộ máy Ban
Quản lý KKTĐB, để từ đó đưa ra cách hiểu riêng về thuật ngữ này trong luận
án và luận án kế thừa các nghiên cứu đã có trước, để luận giải riêng về tổ
chức bộ máy Ban Quản lý KKTĐB Vùng KTTĐPN.
1.2.2. Những vấn đề liên quan đến luận án chưa được đề cập
Có thể nhận thấy, các cơng trình nghiên cứu trong nước và ngồi nước
có liên quan đến tổ chức bộ máy KKTĐB khá đa dạng và phong phú. Đối với
nhóm cơng trình ngồi nước, các cơng trình nghiên cứu tương đối sâu và cụ
thể về tổ chức bộ máy ở KKTĐB. Tuy nhiên, các nội dung nghiên cứu chủ
yếu đối với các KKTĐB ở nước ngoài như Trung Quốc, Hồng Kong,
Singapore... Những mơ hình tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của cơ quan
quản lý KKTĐB tại các quốc gia đó có thể vận dụng vào Việt Nam được hay
khơng? Và để vận dụng được cần những điều kiện gì thì cần phải tiếp tục
nghiên cứu.
Những cơng trình trong nước mặc dù được cơng bố dưới các hình thức
25


×