Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TL CSVHVN toàn cầu hóa và giao lưu tiếp biến văn hóa việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.67 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
Trong khoảng ba thập niên gần đây, cùng với những phát triển chung
của đất nước, sự nghiệp phát triển văn hoá đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Trong xu thế khu vực hố, tồn cầu hố ngày càng diễn ra mạnh mẽ, văn
hố Việt Nam tuy đón nhận được nhiều cơ hội, điều kiện phát triển mới nhưng
mặt khác cũng phải đối diện với khơng ít thách thức, khó khăn. Là một thực
thể gắn bó với đời sống chính trị, xã hội Việt Nam, văn hố đã đồng hành cùng
dân tộc, gắn bó mật thiết với những chuyển biến chung của dân tộc và có
những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ quốc phòng,
an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của
đất nước ta. Giao lưu văn hoá là phương thức tồn tại của mọi nền văn hoá; là
quy luật tồn tại và phát triển của mọi nền văn hoá từ trước đến nay. Ngày nay
trong thời đại tồn cầu hố, tính tuỳ thuộc giữa các cộng đồng người trên thế
giới ngày một gia tăng trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội. Trong
đó sự hiện diện của xu hướng tồn cầu hố văn hố là một tất yếu, có những
tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của cộng đồng người trên thế giới. Cùng
với những thay đổi mang tính cách mạng trong khoa học cơng nghệ, thì sự giao
lưu, mức độ tác động qua lại giữa các nền văn hoá đã thay đổi về chất.
Giao lưu văn hố ở Việt Nam trong điều kiện tồn cầu dẫn tới các chuẩn
mực đạo đức, luân lý, thẩm mỹ, quan niệm về phẩm hạnh v.v của dân tộc đang
thay đổi trước những địi hỏi của tồn cầu hố và tiến trình hội nhập quốc tế.
Trong thời đại tồn cầu hố, bản sắc văn hoá dân tộc đang đứng trước
những cơ hội và thách thức. Vì vậy, đề tài nghiên cứu : “Tồn cầu hóa và giao
lưu tiếp biến văn hóa Việt Nam hiện nay” sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng
đắn về tồn cầu hố văn hố, từ đó, chủ động giao lưu và hội nhập quốc tế trên
lĩnh vực văn hoá; giúp chúng ta tiếp nhận những giá trị của phương Tây cũng
1


như các nền văn hoá khác để làm giàu cho nền văn hoá dân tộc; đồng thời bảo
vệ và phát huy được truyền thống, lối sống Việt Nam.



2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Các khái niệm cơ bản
1.1 Khái niệm văn hóa
Văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thơng qua q trình xã hội hóa.
Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã
hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội
được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của
con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là một quốc gia trải qua hàng ngàn năm xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Qua lịch sử của một dân tộc giàu truyền
thống như vậy thì đi cùng với đó là một nền văn hố phong phú và đậm đà bản
sắc của dân tộc.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh
một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Nhưng tóm lại, Văn hóa là sản
phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại
giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên
con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác thơng qua q trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo
và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn
hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các
kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như
trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.



Văn hoá là nền tảng tinh thần
Nền tảng tinh thần văn hố Việt Nam là tồn bộ các giá trị do dân tộc
Việt Nam sáng tạo ra đúc kết thành bản sắc văn hoá Việt Nam truyền từ đời
này sang đời khác. Nền tảng tinh thần xã hội chính là hệ giá trị và chuẩn mực
xã hội truyền thống, đã được đúc kết từ trong lịch sử dân tộc, quốc gia, tạo nên
bản sắc văn hoá, là những nét riêng để phân biệt với các dân tộc khác, quốc gia
khác. Bản sắc dân tộc đó hình thành nên bản lĩnh tinh thần của cộng đồng dân
tộc, một quốc gia và hình thành nên niềm tin, lý tưởng chung của cộng đồng để
dân tộc đó, quốc gia đó hướng tới. Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền
tảng tinh thần trong xã hội, thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh,
không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, giữa tiến bộ
và cơng bằng xã hội thì khơng thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững.Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên
sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua sóng gió và
thác ghềnh để tồn tại và khơng ngừng phát triển.
Tóm lại, có thể thấy rằng: giá trị tinh thần đóng vai trị quyết định, là
nền tảng tinh thần xã hội, là hòn đá tảng của sự phát triển kinh tế, xã hội. Vì
vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã
hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây
dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng
và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản
tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; nêu
gương người tốt việc tốt
Văn hoá là động lực của sự phát triển.


Nguồn nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn

hóa. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới,
tạo ra cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa
trên cội nguồn, phát huy cội nguồn. Cội nguồn của mỗi quốc gia dân tộc là văn
hóa. Nển kinh tế Việt Nam hơm nay đã có bước tiến đáng kể so với thời kỳ
thực hiện chế độ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân không
phải chỉ ở sự tiến triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế mà còn do sự đổi mới
tư duy, đổi mới chính sách và chế độ quản lý, cịn do sự giải phóng tư tưởng và
bước phát triển mới về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học và công
nghệ, cán bộ quản lý và lực lượng lao động. Nghĩa là động lực của sự đổi mới
kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa đang được phát
huy.Nói cách khác, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con
người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng hiện
thực và bền vững bấy nhiêu.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của
cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không
ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra
hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo
lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, nghĩa
là hạn chế xu hướng hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện với tính cách là lực
lượng có khả năng xun tạc bản chất con người cũng như những mối liên hệ
khác” dẫn tới suy thoái xã hội.
Văn hoá là mục tiêu của sự phát triển.
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu văn hóa.. Chiến lược phát


triển kinh tế - xã hội xác định “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là
vì con người, do con người”. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ mơi

trường”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội mới bảo đảm phát
triển bền vững.
Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là
vấn đề bức xúc của mọi quốc gia. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân, các nước độc lập dân tộc đang tìm con đường dẫn tới ấm no,
hạnh phúc thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển
kinh tế - xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, trong nhận thức và
hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lất át mục tiêu văn hóa và thường
được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát
triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con
đường cơng nghiệp hóa.
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển,
chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn
với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
Khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và
hướng tới mục tiêu giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn
hóa trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Khi xác định mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa,
hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phải có chính sách kinh tế
trong văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh
tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Xây dựng chính sách văn hóa trong
kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh
tế - xã hội, xây dựng văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh


thương nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.mục tiêu của xã
hội phát triển, bởi văn hoá là đại diện theo trình độ văn minh, là thước đo
phẩm giá con người. Văn hố có trách nhiệm kích thích mỗi con người phát
huy mặt tốt, kiềm chế mặt xấu. Văn hố có vai trị điều tiết hành vi, mối quan
hệ giữa người với người bằng giá trị và chuẩn mực xã hội, bằng văn hố. Sự

điều tiết đó phải hướng tới mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống, vì hạnh
phúc của con người: nối dài cuộc sống, an sinh xã hội, điều tiết sự cơng bằng
XH.
Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy
nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.Chìa khố của sự phát triển tập
trung ở một nhân tố sau:
- Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên
- Nguồn vốn
- Nguồn KHCN
- Nguồn lực con người
Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có
tri thức con người mới là nguồn lực vơ hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh
khơng bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu
quả nếu khơng có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con
người xã hội chủ nghĩa.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Việt Nam chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ
người biết đọc biết viết được xếp thứ hạng cao trong khu vực (88%) nhưng
nguy cơ tái mù đang tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ và mù tin học.


1.2. Khái niệm giao lưu văn hóa
Giao lưu văn hóa là quá trình tiếp xúc, trao đổi, lựa chọn, tiếp nhận và
chuyển hóa các giá trị văn hóa khác nhau, có thể (hoặc khơng) dẫn đến sự biến
đổi văn hóa của mỗi chủ thể trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Về phương
diện tích cực, giao lưu văn hóa là hình thức quan hệ trao đổi văn hóa, tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau, học hỏi lẫn nhau, từ đó nảy sinh những nhu cầu
mới thúc đẩy mỗi nền văn hóa phát triển. Giao lưu văn hóa là nhu cầu cho sự
tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng quốc gia, dân tộc. Trong q trình đó

diễn ra sự giao thoa, pha trộn, dẫn đến độ khúc xạ khác nhau, làm cho văn hóa
của mỗi chủ thể có sự biến đổi hoặc khơng. Giao lưu văn hố tạo ra hiện tượng
tiếp biến (tiếp thụ và cải biến) văn hố (acculturation). Khơng có giao lưu, tiếp
xúc văn hố thì khơng có tiếp biến văn hố.
Khi tiến hành định vị một nền văn hóa, nhất thiết phải xét nó trong quan
hệ dẫn đến các trung tâm văn hóa kề cận hoặc các trung tâm văn hóa đã từng
có mối liên quan với nền văn hóa ấy trong lịch sử; tức là phải xét đến quá trình
giao lưu-tiếp biến dẫn đến sự hình thành và phát triển của nền văn hóa ấy. Sự
thật là: xuyên suốt tiến trình lịch sử, tất cả các nền văn hóa cịn tồn tại cho đến
giờ, thì đều hiện thân như kết quả của quá trình giao lưu- tiếp biến. Giao lưutiếp biến là phương thức tồn tại của mọi nền văn hóa trên hành tinh này.
Giao lưu- tiếp biến văn hóa được hiểu là hiện tượng xảy ra khi những
nhóm người có văn hóa khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau gây ra sự biến đổi
mơ thức văn hóa của các bên. Trong giao lưu có thể xảy ra hiện tượng những
yếu tố của nền văn hóa này thâm nhập vào nền văn hóa kia (tiếp thu thụ động);
hoặc nền văn hóa này vay mượng những yếu tố của nền văn hóa kia (tiếp thu
chủ động); rồi trên cơ sở những yếu tố nội sinh và ngoại sinh ấy mà điều chỉnh,
cải biến cho phfu hợp, gây ra sự giao thoa văn hóa.


1.3. Khái niệm tiếp biến văn hóa.
Tiếp biến văn hố là quá trình một cá nhân khi tiếp xúc trực tiếp và liên
tục với một cộng đồng hay một cá nhân khác (có hoặc khơng có ý thức) hấp
thụ nhiều hay ít nền văn hóa của cộng đồng hay các cá nhân này. Tiếp biến văn
hố có thể xảy ra theo con đường kinh tế, tôn giáo, tư tưởng, văn hố nghệ
thuật..., trong bối cảnh hồ bình hay gắn với áp đặt về chính trị. Tiếp biến văn
hố cũng có thể gây “sốc” văn hóa, “áp đặt” văn hố, nhưng bản chất của q
trình vẫn là đối thoại văn hóa, vì vậy nhiều khi cũng khó có thể tách bạch giữa
các phương thức giao lưu và tiếp biến văn hố.
Có ý kiến cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, phải dùng thuật ngữ kép là
“giao lưu - tiếp biến văn hố” , mới phản ánh q trình giao lưu, tiếp xúc, hỗn

dung - cộng sinh văn hoá, trao đổi - tiếp biến văn hố, để có thể bao qt được
ý nghĩa của nó.
Giao lưu và tiếp biến khơng những tạo cơ sở phát triển của các nền văn
hoá, mà quá trình đó cũng giúp các chủ thể nhận thức, hướng đến tinh thần
khoan dung văn hố, tơn trọng và chủ động hơn trong việc phát triển và giữ gìn
bản sắc văn hố của mình.
1.4 Khái niệm tồn cầu hóa
Tồn cầu hố là q trình phát triển kinh tế, theo xu thế phát triển hiện
đại, kèm theo những khuynh hướng tiên tiến, khi đó q trình tồn cầu hố
được xem như một quá trình tăng lên mạnh mẽ của các mối liên hệ, và có sự
phụ thuộc, ảnh hưởng qua lại giữa các khu vực, quốc gia và các dân tộc trên
thế giới. Tồn cầu hố đã tạo ra những điều kiện phát triển các lĩnh vực và đặc
biệt là kinh tế. Tồn cầu hóa là kết nối các nền kinh tế trên khắp thế giới về
thương mại, đầu tư, lao động, ngân hàng, dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ, và
con người.


Tồn cầu hóa cho phép các doanh nghiệp, con người trên tồn thế giới
có thể kết nối với nhau một cách dễ dàng. Tồn cầu hóa là q trình tăng lên
mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc
lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia,các dân tộc trên thế giới


CHƯƠNG 2:
Giao lưu văn hóa trong bối cảnh tồn cầu hóa và các biện pháp để
bảo tồn và phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa

2.1. Giao lưu văn hóa trong bối cảnh tồn cầu hóa
Phải khẳng định rằng, tồn cầu hóa nói chung và tồn cầu hóa về văn
hóa nói riêng trong bối cảnh hiện nay đã khác xa so với trước kia cả về nội

dung, ý nghĩa, quy mô và tốc độ. Thật ra, nói một cách chính xác, tồn cầu hóa
trước kia chỉ là khu vực hố. Sự giao lưu có tính chất khu vực được quy định
bởi sự hạn chế của các phương tiện, của giao thông lúc bấy giờ và do đó phạm
vi ảnh hưởng của giao lưu văn hóa khơng có tính tồn cầu thực sự. Chỉ đến
ngày nay, nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học – công nghệ, các phương
tiện giao thông và thông tin hiện đại mới cho phép con người vượt qua các giới
hạn không gian và thời gian, tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa phát triển trên
phạm vi tồn thế giới. Lồi người hàng ngày được tiếp cận nhiều nguồn thông
tin và do đó có thêm nhiều dịp trao đổi tiếp xúc với nhau, đẩy mạnh sự giao
lưu về mọi mặt từ kinh tế mậu dịch, đầu tư, du lịch đến văn hóa nghệ thuật.
Làn sóng di dân từ nước này sang nước khác cũng góp phần mở rộng hơn nữa
sự giao lưu trực tiếp và mạnh mẽ về cả đời sống vật chất và tinh thần của nhiều
dân tộc. Cũng nhờ những thành tựu của khoa học - công nghệ, thế giới hình
thành các lực lượng đủ mạnh có quy mơ tồn cầu. Đó là các cơng ty đa quốc
gia, xun quốc gia, các thể chế quốc tế và đi cùng với nó là các lực lượng phá
hoại như khủng bố hay tôn giáo cực đoan Các công ty đa quốc gia, xun quốc
gia ngày nay thậm chí cịn có sức mạnh hơn cả những quốc gia trung bình, có
khả năng ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế thế giới. Đồng thời, các lực lượng
phá hoại xuất hiện và hoạt động trên quy mơ tồn cầu, kết quả của những xung


đột giữa các dân tộc, các sắc tộc, các tôn giáo, mà nguyên nhân sâu xa là sự
xung đột về kinh tế, chính trị được che đậy dưới hình thức của sự xung đột về
tơn giáo, cũng phải được nhìn nhận như một mặt khác của tồn cầu hóa về văn
hoá. Đây là vấn đề sâu sắc nhất, bức thiết nhất trong xu thế tồn cầu hóa mà
chúng ta khơng thể chỉ xem xét thông qua các lực lượng thị trường. Nhiều
người lo ngại rằng trong thời đại hiện nay khi tồn cầu hóa về kinh tế đang
được tiến hành ngày càng rõ nét, các nền văn hóa do có năng lực khác nhau
nên các nước giầu, bằng tiềm lực kinh tế, bằng cơn lũ hàng hóa của mình, có
thể sẽ quy định các tiêu chuẩn văn hóa của hàng hoá, áp đặt cho các dân tộc

yếu hơn các tiêu chuẩn văn hóa của nó. Theo em, mối lo ngại này khơng có cơ
sở. Khơng một nền văn hóa nào có thể lấn át nền văn hóa nào.
Bởi vì con người tiếp nhận các ảnh hưởng của văn hóa một cách tự
nhiên, một cách từ từ và nó có quá trình chọn lọc. Hơn nữa, bản lĩnh văn hóa
của mỗi quốc gia là kết quả của sự hình thành tự nhiên có chọn lọc qua một
q trình lịch sử đủ dài. Do đó về bản chất, tồn cầu hóa về văn hóa chỉ góp
phần thúc đẩy sự hợp tác và chọn lọc giữa các nền văn hóa chứ khơng thể gây
áp lực hay lấn át bản lĩnh văn hóa của bất cứ nền văn hóa nào.
2.2. Những đặc điểm mới trong giao lưu và tiếp biến văn hoá hiện nay
Trước hết, đó là sự thích nghi mới trong giao lưu, tiếp biến văn hố.
Tồn cầu hố và truyền thơng tồn cầu đang làm cho giao lưu, tiếp biến văn
hoá của các quốc gia có sự khác về cơ bản so với các giai đoạn trước. Nền văn
minh tin học với công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại đã và đang làm
cho môi trường mới trở nên phức tạp, bất định và thường xuyên biến đổi. Ví
dụ, khoa học và công nghệ làm thay đổi quan niệm về không gian, thời gian;
tạo ra một xã hội số hóa, xa lộ thông tin, làm rút ngắn khoảng cách giao lưu,


quy mơ và hình thức giao lưu văn hóa... Điều đó buộc con người phải tự biến
đổi để thích nghi và sáng tạo.
Các quốc gia, dân tộc ngày càng phải hướng đến những tiêu chuẩn
chung trong đánh giá, kể cả các tiêu chí trong thể thao, âm nhạc, các giá trị
tinh thần như nhân quyền, dân chủ... Việc ra đời và hồn thiện của các cơng
ước quốc tế đã hướng các dân tộc phải chấp nhận những giá trị chung, như: sở
hữu trí tuệ, nhân quyền, đa dạng văn hóa, thống nhất văn hố, bảo vệ di sản
văn hóa... Sự tác động này đòi hỏi các quốc gia thay đổi nhận thức và hành
động thực tiễn: phải tìm những lợi thế của mình để cạnh tranh (vốn, nguồn
nhân lực, vốn văn hóa, tài nguyên thiên nhiên...); coi trọng sự liên kết khu vực
dựa trên những điểm tương đồng, để tạo sức cạnh tranh; các sáng tạo của các
dân tộc phải vừa mang bản sắc, vừa phải hướng đến những giá trị chung của

nhân loại.
Những xu hướng đang làm thay đổi thế giới hiện nay là: tồn cầu hố
kinh tế, khả năng liên kết tồn cầu, tính minh bạch trong giao dịch và sự thích
nghi xã hội, hiện đại hố nền văn hoá của mỗi dân tộc. Các quốc gia đang tập
trung theo hướng: đầu tư cho lĩnh vực văn hoá nhằm quảng bá hình ảnh dân
tộc, con người, văn hố của đất nước mình; đầu tư phát triển giáo dục, giáo dục
quốc tế, tạo điều kiện cho người nước ngoài sang đất nước mình du học; đầu tư
mở các trung tâm văn hố của quốc gia mình ở nước khác; đầu tư cho lĩnh vực
thể thao, âm nhạc, các sự kiện văn hố, tơn vinh các vận động viên, ca sỹ; tôn
trọng sự thống nhất trong đa dạng, đối thoại, thân thiện; đề cao giá trị đạo đức
gia đình, giá trị xã hội; phát triển truyền thông... So với trước đây, giao lưu và
tiếp biến văn hoá diễn ra với nhiều hình thức mới. Giao lưu, tiếp biến văn hóa
chủ yếu được diễn ra thông qua thông tin đại chúng; xuất nhập khẩu văn hóa
phẩm; tín ngưỡng, tơn giáo; xuất nhập khẩu lao động, du lịch, di dân nhập


quốc tịch khác, du học; hợp tác giữa các chính phủ thông qua các các dự án,
nghị định về văn hóa, các cơng ước về văn hóa... Giao lưu, tiếp biến văn hố
mang tính thường xun, cập nhật hơn.
Thứ hai, các quốc gia cùng bị chi phối bởi những đặc điểm mới trong
giao lưu và tiếp biến văn hố. Đó là sự gia tăng áp lực từ các nền văn hóa của
các nước phát triển đối với các nước chưa phát triển; xu hướng vừa đấu tranh,
vừa hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc; vấn đề bảo vệ sự đa dạng văn hóa,
chống chủ nghĩa đế quốc về văn hóa; giao lưu, tiếp biến văn hóa gắn với sự
trao đổi hàng hóa văn hóa và phát triển của nền cơng nghiệp, dịch vụ văn hóa,
gắn với truyền thơng tồn cầu, gắn với lợi ích kinh tế và chính trị.
Cũng có ý kiến chưa đồng tình với cách hiểu q nhấn mạnh về áp đặt
văn hoá, xâm lăng văn hoá trong giao lưu và tiếp biến văn hoá giữa các quốc
gia hiện nay. Cho rằng văn hoá là tự thân, văn hóa khơng phải là ý thức của tơi,
của anh hay của bất kỳ ai, mà thuộc về con người một cách tự nhiên, chính vì

thế mà sự hội nhập về mặt văn hóa là q trình con người đi tìm ngơn ngữ
chung cho một cuộc sống chung. Nhưng dù thế nào thì giao lưu và tiếp biến
văn hố cũng đang diễn ra với tốc độ nhanh, quy mơ tồn cầu và tác động sâu
sắc tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy hội nhập văn hóa quốc tế
ngày càng toàn diện. Các quốc gia, dân tộc buộc phải thay đổi nhận thức và
xây dựng, phát triển hệ thống chính sách văn hố cho phù hợp.
2.3 Tác động của giao lưu, tiếp biến văn hoá thế giới đến phát triển
văn hoá dân tộc hiện nay
Bản sắc văn hóa là những đặc điểm để phân biệt dân tộc này với dân tộc
khác và nó được hình thành tự nhiên bởi sự tác động của nhiều yếu tố khác
nhau như địa lý, lịch sử và cả những yếu tố ngẫu nhiên. Bản sắc văn hóa dân
tộc đóng vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần cũng như vật chất của con


người. Văn hóa hay là bản sắc chính là dấu hiệu để phân biệt người này với
người kia, cộng đồng này với cộng đồng kia, quốc gia này với quốc gia kia và
là kết quả của cộng đồng đó hay con người đó tương tác với chính mình và
tương tác với các cộng đồng khác. Văn hóa thể hiện nhân cách xét về mặt cá
nhân và bản sắc dân tộc xét về mặt cộng đồng. Chính bản sắc văn hóa của mỗi
dân tộc làm cho con người khác nhau chứ khơng làm cho con người đối lập với
nhau vì bản thân văn hóa được hình thành nên bởi một cộng đồng chứ khơng
phải một cá nhân. Văn hóa chính là thơng điệp chung sống vì vậy nó có giá trị
chung sống.
Chúng ta không thể phủ nhận sự bành trướng của văn hóa phương Tây
trên thế giới trong vịng hơn một thế kỷ qua cũng như sự tất yếu của giao lưu
giữa văn hóa phương Đơng và phương Tây. Trong q trình tồn cầu hóa về
văn hóa như hiện nay khơng ít người lo ngại về sự mất mát bản sắc dân tộc. Họ
lo sợ sự bành trướng và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Thật ra đó là
những mối lo ngại khơng có cơ sở vì nếu chúng ta cường điệu nhiệm vụ bảo vệ
bản sắc dân tộc một cách chủ quan thì sẽ làm cho chúng ta tự trở thành dị biệt

với nhân loại trong khi thế giới đang đi theo xu hướng tất yếu của sự hòa hợp.
Sớm hay muộn, các dân tộc cũng hội tụ đến một tiêu chuẩn chung sống giữa
con người. Vì thế một bản sắc tốt là một bản sắc tự nó phải có khả năng hịa
hợp với các bản sắc khác. Trong sự nghiệp phát triển, một chính phủ khơn
ngoan phải biết phát huy những thế mạnh của văn hóa dân tộc, đồng thời, biết
học hỏi những cái hay, cái tốt của các dân tộc khác để dân tộc mình có thể
tương tác với nhiều cộng đồng văn hóa khác. Hội nhập vào thế giới, đó chính
là con đường tiến bộ.
Về thời cơ: sự tác động này góp phần nâng cao vị thế văn hố Việt Nam
trong q trình phát triển, từ vị thế, ý thức và mục đích của chủ thể. Việt Nam


với tư cách là một quốc gia độc lập, tự do, một dân tộc có chủ quyền, có ý thức
về bản sắc và bản lĩnh trong quá trình tham gia giao lưu và hội nhập văn hố.
Đặc điểm này hồn toàn khác với tư cách giao lưu và tiếp biến với văn hoá
Trung Hoa và với văn hoá Pháp và phương Tây trong lịch sử. Qua giao lưu,
hội nhập văn hoá, thế giới hiểu được Việt Nam là quốc gia có cội nguồn lịch
sử văn hố lâu đời, nền văn hố đó đã được hình thành và trải qua bao thăng
trầm, tiếp biến. Thế giới cũng nhận thức được một nền văn hố Việt Nam ln
hướng đến những giá trị nhân văn, vì hồ bình và độc lập tự do, “Khơng có gì
q hơn độc lập tự do” (Hồ Chí Minh). Văn hoá truyền thống Việt Nam là nền
văn hoá bao dung, cởi mở, hồ đồng, có khả năng chuyển hoá những giá trị
của nền văn hoá khác.
Phát triển văn hoá Việt Nam đã và đang hướng đến một nền văn hoá
hiện đại và hội nhập quốc tế. Trước hết đó là sự chủ động, giao lưu, hợp tác
quốc tế để phát triển văn hoá dân tộc. Việt Nam đã tiếp thu tư tưởng, quan
điểm của thế giới về vai trị của văn hố và phát triển văn hố để phát triển bền
vững con người và xã hội. Vai trò của văn hoá được nhận thức là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội; bảo đảm sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá, phát

triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội; phát triển văn hoá và con người Việt Nam để
phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Thời cơ cũng đưa đến cơ hội
để Việt Nam đổi mới tư duy về phát triển văn hóa trong cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Việt Nam trong
phát triển nền văn hoá mới có cơ hội để chuyển giao vốn, khoa học kỹ thuật,
cơng nghệ, kinh nghiệm hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc. Đây cũng là cơ hội
để chúng ta tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ văn hóa, tham gia thị
trường văn hố phẩm quốc tế bình đẳng. Xuất, nhập khẩu văn hóa tăng, đáp


ứng nhiều nhu cầu văn hóa khác nhau, tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa
khác, thúc đẩy sự sáng tạo mới.
Về thách thức: trước hết là từ phương diện giá trị. Q trình giao lưu,
tiếp biến văn hố trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, vẫn là làm sao để
khỏi chệch hướng phát triển văn hoá: giữa giá trị xã hội, đạo đức, thẩm mỹ với
giá trị thương mại. Mặt khác, Việt Nam cũng như nhiều nước chưa phát triển,
đang phải chịu sự áp đặt trên thị trường văn hoá phẩm, chịu sự lấn lướt của các
quốc gia đang có ngành cơng nghiệp văn hố phát triển. Thứ ba, đó là nguy cơ
sự tụt hậu ngày càng xa về trình độ phát triển văn hố. Về cơ bản, Việt Nam
hiện vẫn đang là nước nghèo, phát triển ở trình độ thấp, quy mơ kinh tế nhỏ.
Nhận thức được sự tác động của giao lưu, tiếp biến văn hoá trong bối
cảnh mới cũng là cơ sở để nhận biết chính xác những yếu kém, bất cập trong
phát triển văn hố. Từ góc nhìn giao lưu, tiếp biến văn hố, trước hết đó là
“loạn chuẩn văn hố”. Nếu gõ vào Google cụm từ này ta sẽ nhận được thơng
tin là trong 0,5 giây có khoảng 3.110.000 bài viết, thơng tin liên quan. Điều đó
chứng tỏ chưa bao giờ văn hoá lại được bàn nhiều đến như hiện nay với nhiều
vấn đề bức xúc.
Câu hỏi đặt ra là, có sự đứt đoạn hay khơng trong dịng chảy văn hố
truyền thống và hội nhập? Thử xem xét vấn đề từ phương diện tiếp nhận, tiếp

biến, sáng tạo và hội nhập văn hoá. Nhiều ý kiến cho rằng, chúng ta chưa
chuẩn bị sẵn sàng cả về nội lực và tâm thế trong giao lưu, tiếp biến, phát triển
văn hoá. Sự loạn chuẩn giá trị thể hiện ở suy thoái đạo đức, lối sống, khủng
hoảng giá trị gia đình, xã hội... Đó còn là sự thụ động, bất lực trong việc tiếp
nhận, tiếp biến và vận dụng các giá trị văn hoá của thế giới để phát triển văn
hoá dân tộc và hội nhập. Đội ngũ cán bộ làm văn hố khơng am hiểu văn hoá
dân tộc và thế giới. Tư tưởng “vọng ngoại” đi liền với tâm lý mặc cảm, tự ti


văn hoá; chạy theo giá trị kinh tế trong phát triển văn hố. Tình trạng thương
mại hóa, câu khách hoặc chạy theo thị hiếu tầm thường, quá chú trọng chức
năng giải trí, coi nhẹ giá trị nhân văn và tính phản biện xã hội của nghệ thuật
diễn ra khá phổ biến. Hoạt động quảng bá, giới thiệu các giá trị văn hố Việt
Nam ra thế giới cịn lộn xộn, tự phát.
Cùng với tình trạng trên, các nhà nghiên cứu cũng cảnh báo rằng, còn
nguy hại hơn cái phản giá trị (dễ nhận biết), là chúng ta đang bị đầu độc bởi
những sản phẩm thị trường tầm thấp. Nếu cứ chạy theo xu hướng thị trường
tầm tầm, chiều theo thị hiếu liệu chúng ta có xây dựng, phát triển được nền văn
hố tiên tiến, đậm bản sắc để hội nhập khơng? Chắc là khơng.
Trong các ngun nhân, có sự bất cập trong quản lý văn hoá. Sự bất cập
thể hiện ở chỗ không chặt chẽ, bất hợp lý, không khả thi từ việc xây dựng và
ban hành, thực thi hệ thống thể chế văn hoá và các dự án văn hoá. Thực tế
nhiều thập niên qua cho thấy các dự án về giáo dục đào tạo, điện ảnh, nghệ
thuật, kinh doanh dịch vụ văn hoá, xây dựng các thiết chế văn hoá... đầu tư
nhiều, nhưng hiệu quả rất thấp.
Ba là, một số vấn đề đặt ra trong hồn thiện chính sách văn hoá.
Hiện đại hoá nền văn hoá làm nền tảng tinh thần và tạo động lực cho sự
phát triển bền vững là u cầu có tính chất sống cịn.
Thứ nhất, phát triển chính sách văn hố quốc gia phải tính đến:
- Xây dựng văn hố chính trị theo nghĩa rộng: văn hoá dân chủ, văn hoá

về mối quan hệ giữa người lãnh đạo có chức trách của đất nước này với dân
tộc, văn hoá cơ chế lãnh đạo... Tiếp nhận các giá trị văn hố bên ngồi phải
nhằm nâng cao văn hố lãnh đạo và quản lý (phẩm chất, trình độ, năng lực, hệ


thống thể chế), nếu văn hoá này kém, sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển văn hoá
dân tộc.
- Xây dựng văn hoá kinh doanh trong cơ chế phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các giá trị
kinh tế và giá trị văn hố. Khơng có giá trị văn hố làm nền tảng thì kinh tế sẽ
hoang dã, chính trị sẽ lệch đường.
- Phát triển chính sách văn hố quốc gia nhằm xây dựng văn hoá nhân
cách con người - với tư cách là chủ thể sáng tạo, nhất là văn hoá trong thanh
thiếu niên (với các đặc trưng: trung thực, sáng tạo, ích kỷ, ích nhân). Con
người mới Việt Nam phải đồng thời mang nhân cách của công dân dân tộc và
cơng dân tồn cầu. Xây dựng và phát triển các giá trị văn hố gia đình, làm nền
tảng đầu tiên, quan trọng cho sự phát triển con người một cách toàn diện.
- Phát triển các giá trị văn hố đơ thị và văn hố làng xã nơng thơn trong
q trình phát triển, nhất là trong giai đoạn chúng ta đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, xây dựng nông thôn mới.
Thứ hai, xây dựng các giải pháp nâng cao tính tích cực trong giao lưu,
tiếp biến văn hoá phải đảm bảo các giá trị và xu hướng vận động, phát triển
văn hoá theo hướng tiến bộ đang diễn ra trên thế giới. Đó là: xu hướng phát
triển giáo dục nhằm đáp ứng văn hoá lao động mới; xu hướng phát huy vai trị
của văn hố điều tiết, định hướng cho phát triển bền vững; xu hướng mở rộng
giao lưu quốc tế về văn hố, tơn trọng đa dạng, đối thoại, thống nhất trong đa
dạng, thân thiện cùng chung sống.
Thứ ba, xây dựng các giải pháp trong giao lưu, tiếp biến văn hoá phải
thấy được sự tác động bởi những thời cơ và thách thức mới của hội nhập kinh
tế quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin. Hội nhập kinh tế quốc tế đã

và đang tạo ra những điều kiện thuận lợi để chúng ta đổi mới tư duy về kinh tế,


đồng thời cũng tạo cơ hội cho sự đổi mới tư duy về phát triển văn hoá gắn với
phát triển kinh tế trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập ngày càng sâu và toàn diện. Đây là cơ hội lớn để chúng ta xem xét, đánh
giá vai trị của văn hố, thực hiện gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá,
phát triển con người với phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế tri thức.
Nhiều vấn đề cần phải làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là mối
quan hệ giữa văn hoá và kinh tế, vấn đề làm cho văn hoá thấm sâu vào đời
sống xã hội, thực hiện gắn kết giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hố...
Q trình hội nhập kinh tế quốc tế càng đi vào chiều sâu thì văn hố càng nổi
lên như một trong những trụ cột chính.
Thứ tư, các giải pháp nâng cao tính tích cực trong giao lưu, tiếp biến văn
hoá phải được xây dựng trên cơ sở giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại. Trong lĩnh vực văn hoá, cái truyền thống mang tính
đặc thù, văn hố truyền thống tạo nên diện mạo, bản sắc ngơi nhà của mình,
cái để thiên hạ nhận ra mình. Giao lưu và tiếp biến văn hố để một dân tộc hồ
nhập mà khơng hồ tan trong sự phát triển chung của nhân loại, và đây cũng
chính là bệ phóng của bất cứ dân tộc nào muốn không tụt hậu để tiến lên cùng
thời đại. Xây dựng các giải pháp nâng cao tính tích cực trong giao lưu, tiếp
biến văn hoá phải trên cơ sở bài học kinh nghiệm của phát triển văn hoá trong
thời gian qua. Gần ba thập kỷ đổi mới, phát triển đất nước, so với những thành
tựu về kinh tế, những thành tựu đạt được trên lĩnh vực văn hoá chưa tương
xứng, chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong các nguyên nhân, có nguyên nhân từ bài học giao
lưu và tiếp biến văn hoá.
Thứ năm, trong giao lưu, tiếp biến văn hoá hiện nay, vấn đề bảo tồn và
phát huy sự đa dạng văn hoá, chống nguy cơ áp đặt văn hoá được thể hiện tập



trung ở việc chiếm lĩnh thị trường văn hoá đại chúng với những sản phẩm của
ngành công nghiệp và dịch vụ văn hoá. Việt Nam phải xây dựng và thực thi
chiến lược phát triển ngành cơng nghiệp văn hố để hội tụ được sức mạnh của
kinh tế và văn hoá. Đây là cơ hội để Việt Nam phát triển nền văn hoá hiện đại,
hội nhập quốc tế, chủ động tham gia vào phát triển kinh tế tri thức trong thời
kỳ tồn cầu hố văn hố.
2.4 Các biện pháp để bảo tồn và phát triển văn hóa Việt Nam trong
bối cảnh tồn cầu hóa
Như đã nói ở phần trên, giao lưu văn hóa trong bối cảnh tồn cầu hóa
đem lại những đổi thay tích cực nhất định, đồng thời cũng mang lại những tiêu
cực, ảnh hưởng tới nền văn hóa ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam ta.
Trong phần này, em xin nêu ra một số những biện pháp nhằm mục đích bảo
tồn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa.

- Thứ nhất, khơng e ngại sự áp đảo của tồn cầu hóa, khơng "dị ứng" với
mọi biểu hiện của văn hóa nhân loại. Thâm nhập vào thế giới một cách chủ
động, tự tin, tự nhiên, sẵn sàng đối thoại với các nền văn hóa với tư duy đa
dạng văn hóa là một tất yếu của giao lưu, hợp tác. Muốn vậy phải trên cơ sở
lấy văn hóa dân tộc làm gốc. Chỉ trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ việc
giữ gìn, phát huy cốt cách văn hóa dân tộc mới đi tới được văn hóa nhân loại.
- Thứ hai, kinh tế và có kiến thiết kinh tế rồi thì văn hóa mới kiến thiết
được và đủ điều kiện phát triển được. Ngược lại, văn hóa phải đứng trong kinh
tế và chính trị, thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển. Như vậy, trong khi đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với phát triển kinh tế vẫn phải có
niềm tin và biện pháp tích cực để phát triển văn hóa tinh thần, khơng theo kiểu


dàn hàng ngang để tiến, mà bằng tư duy "lấy tinh thần chiến thắng vật chất",
"đem văn minh (đồng nghĩa với văn hóa) thắng bạo tàn".

- Thứ ba, Có "vay" thì phải có "trả". "Vay" thì phải sáng tạo và khơng
được trở thành kẻ bắt chước. "Trả" thì phải xứng đáng là một dân tộc trong số
ít của thế giới có nền văn hóa tiêu biểu. Giới thiệu văn hóa, đất nước, con
người Việt Nam với thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa nhân loại vừa
là trách nhiệm, vừa là vinh dự. Suy cho cùng, "giúp bạn cũng chính là giúp
mình". Q trình "vay" và "trả" qua lại lẫn nhau giúp ta có điều kiện giao lưu
hội nhập, tạo nên tiên tiến và hiện đại song vẫn rất truyền thống (Việt Nam)
nếu chúng ta ln có ý thức và niềm tự hào về các dân tộc.
- Thứ tư, phải xuất phát từ tư duy phương Đông được đánh dấu bởi hồi
bão tìm kiếm tính thống nhất của vũ trụ, sự hài hòa giữa những mâu thuẫn. Để
giao lưu, hội nhập phải có một thái độ "cầu đồng tồn dị", tìm mẫu số chung
thay vì khoét sâu sự cách biệt. Nếu giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tìm thấy
điểm chung của Khổng Tử, Các Mác, Giê-su, Tơn Dật Tiên là mưu cầu hạnh
phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội, thì đến cuối thế kỷ XX nhân
loại lại tìm thấy một lý tưởng chung ở Hồ Chí Minh là hướng con người Chân
– Thiện – Mỹ, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân loại. Trong mối quan hệ
Đông – Tây, dân tộc và nhân loại, cần phải xác định có cái chung và cái riêng,
vật chất và tinh thần, nội sinh và ngoại sinh để tập trung giải quyết sự cân
bằng, hài hòa giữa các yếu tố.
- Thứ năm, xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc là một ý
thức chính trị, và ý thức chính trị của dân tộc, xây dựng tâm lý cộng đồng với
nội dung cao cả là tinh thần độc lập tự cường, tự chủ lại là biểu hiện cao nhất
và trước hết của văn hóa. Trước đây bản sắc văn hóa của dân tộc với tinh thần


yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, tinh thần dân tộc tự chủ về chính trị đã khẳng
định sức mạnh của phong trào giải phóng thì nay lại càng cần phải như vậy.
“Gạn đục, khơi trong” những giá trị văn hóa dân tộc để giữ gìn, kế thừa,
phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậmđà bản sắc dân tộc, thực sự coi đó

vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa dân tộc là
một chỉnh thểđồ sộ, phong phú bao gồm tri thức, tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán, truyền thống… nó vừa là “trầm
tích” của tình cảm và ý thức dân tộc trong quá khứ, vừa là kết tinh của tinh
thần thờiđại và định hướng giá trị của dân tộc. Mỗi dân tộc có cách giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc của mình.. Văn hóa ln là hệ thống mở, những giá trịđích
thực tiêu biểu cho cốt cách, phẩm chất dân tộc Việt Nam cần phải được bồi
đắp nội dung mới cho phù hợp với thời đại, những mặt hạn chế cần phải được
khắc phục, đổi thay.
Tiếp thu tinh hoa VH nhân loại một cách chọn lọc và đấu tranh chống
lại sự xâm nhập của văn hóa độc hại Văn hóa phải được thang định chuẩn và
thước đo giá trị mới đánh giá, kiểm định trên cơ sở kiên trì mục tiêu XHCN
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng phát triển và
làm biểu tượng cho sự phát triển kinh tế xã hội.
- Thứ sáu, tiếp thu tồn diện, nhưng có chọn lọc qua "màng lọc" bản sắc
văn hóa Việt Nam. Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh chỉ rõ, cái gì bổ ích và
cần thiết, cái gì tốt và hay thì ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn
hóa Việt Nam, một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng
của nhân dân. Nói như vậy để thấy khơng phải mọi thứ mới lạ đều bổ ích. Cái
gì mới mà hay thì tiếp thu, cịn cái mới mà lai căng, xấu xa thì cương quyết
loại bỏ. Phải thường xuyên bồi bổ cho lịch sử – văn hóa với ý nghĩa là cội rễ


của dân tộc, cái vốn của riêng mình. Điều cơ bản và trước hết là phải làm kỳ
được việc thường xuyên bồi bổ cho lịch sử – văn hóa, để cho cốt cách văn hóa
dân tộc thấm sâu vào tâm lý quốc dân. Một khi sao nhãng cơng việc đó thì tự
mình sẽ đánh mất mình. Nhưng trong nội hàm giữ gìn bản sắc đã chứa đựng
phát huy, giao lưu, trao đổi, xâm nhập và hội nhập các giá trị văn hóa rồi. Kết
hợp chặt chẽ việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đấu tranh chống lại sự
xâm nhập của văn hóa độc hại. Đó là mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc với tiếp

thu tinh hoa, giữa truyền thống – tiếp biến và đổi mới, để bồi bổ cho một nền
văn hóa dân tộc cường tráng, với các yếu tố nội sinh sung mãn.
- Thứ bảy, q trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng là q trình
xâm nhập văn hóa, q trình tự thân vận động, tự ý thức, tự khám phá, tự tái
tạo từ ta và từ người. Cái khó ở đây là, làm thế nào để có được sự cơng bằng
giữa gốc rễ và hoa lá trên cành; giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh khi các yếu
tố đó ln có mối quan hệ biện chứng. Câu trả lời phải được tiếp tục suy nghĩ
từ quá khứ và thực tiễn hôm nay. Nhưng trước mắt chúng tôi vẫn phải trở lại,
vận dụng sáng tạo và phát triển những luận đề của Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp giải phóng: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước… Người
ta sẽ khơng làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực
vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ". "Phải trông ở thực lực. Thực
lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng và ngoại giao là cái
tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn". "Đem sức ta mà giải phóng cho ta", "Muốn
người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Về văn hóa, cần
hiểu đó là sự bảo tồn, chấn hưng nền văn hóa dân tộc để làm cơ sở định hướng
cho việc mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế. Đồng thời phải kết hợp một cách
chặt chẽ, khoa học, tinh tế, có lý có tình giữa "pháp trị" – mà đặc biệt là vai trò
quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế – xã hội – với "đức trị" mà
chủ yếu là giáo dụctính nhân văn, đạo đức. Ở một ý nghĩa nào đó, là kết hợp


giữa "xây" và"chống", trong đó "xây" là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. Phải
nhận thức con người là điểm xuất phát cũng là mục tiêu của sự phát triển. Phải
đào tạo con người cả về nhân cách và về trí tuệ. Trong nhân cách có trí tuệ. Trí
tuệ càng cao, nhân cách càng phải lớn. Chỉ có nhận thức như vậy mới tạo nên
một Việt Nam ổn định, phát triển bền vững trong quá trình giao lưu, hội nhập.
Thứ tám, hồn thiện bộ máy quản lý Văn hóa, khơng lấy chính quyền
thay thế thị trường mà biến ý chí của Đảng và Nhà nước thành pháp luật, pháp
quy, hành vi quy phạm yêu cầu các doanh nghiệp văn hóa tn thủ, duy trì trật

tự của thị trường văn hóa, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, xúc tiến và
thúc đẩy sự trưởng thành và phát triển của thị trường văn hóa, định ra các tiêu
chuẩn sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa, thực thi giám sát chất lượng,
trừng trị những hoạt động kinh doanh văn hóa độc hại trên cơ sở luật pháp đã
ban hành. Bằng cách kiểm sốt ở tầm vĩ mơ, Nhà nước có những chính sách,
điều chỉnh hợp lý để kinh doanh văn hóa hoạt động trong quỹ đạo có lợi cho
phát triển văn hóa tiên tiến. Thơng qua các chương trình hành động, phong trào
thi đua yêu nước, qua hệ thống các thiết chế văn hóa để vận động quần chúng
nhân dân thực hiện; biến chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng thành
lực lượng vật chất, thành phong trào cách mạng; tạo ra những kết quả cụ thể
nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội, trực tiếp xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Thứ chín, giữ gìn các truyền thống lịch sử
Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng
chiến, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể; Kết hợp hài hịa giữa bảo tồn, phát
huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch. tinh
thần tự nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng văn hóa. Xây dựng
tâm lý cộng đồng với nội dung cao cả là tinh thần độc lập tự cường, tự chủ.


×