Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

(Luận văn thạc sĩ) ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.45 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN TUẤN

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN TUẤN

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, năm 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
được nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Văn Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH VỀ ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................................................................6
1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn và áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự ...................................................................................... 6
1.2. Lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam ...........................................................................................................19
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN
THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................................................29
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn ................... 29
2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại quận Thanh Khê, Thành phố
Đà Nẵng ......................................................................................................................... 43
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN ........................................................................................................................... 54
3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn .........................................54

3.2. Các giải pháp đảm bảo thi hành đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
các biện pháp ngăn chặn ................................................................................................ 58
KẾT LUẬN ..................................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CQCSĐT

: Cơ quan Cảnh sát điều tra

Nxb

: Nhà xuất bản

TA


: Tòa án

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TAQS

: Tòa án Quân sự

TP

: Thành phố

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn là chế định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt
Nam. Việc quy định cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn khơng chỉ có tác
dụng ngăn chặn tội phạm mà cịn có tác dụng khơng nhỏ đối với quá trình điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, mà cụ thể là: khơng để người phạm tội tiếp tục
thực hiện hành vi phạm tội, hoặc trốn tránh pháp luật, cản trở quá trình điều tra truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là
vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng đến quyền con người, quyền và lợi ích khác của người
bị áp dụng. Vì thế, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải hết sức thận trọng,
phải có căn cứ, đúng thẩm quyền và đúng đối tượng mà luật định. Có như vậy, mới
phát huy tác dụng của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Nếu việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, thiếu
căn cứ... không chỉ ảnh hưởng đến quyền con người, quyền cơng dân mà cịn ảnh
hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Hiến pháp năm 2013 quy
định: "Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tịa án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc
bắt, giam, giữ người do luật định". Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, BLTTHS
năm 2015 đã quy định chặt chẽ, cụ thể các biện pháp ngăn chặn, bao gồm: giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh (Điều 109). So với quy định của
BLTTHS năm 2003, những quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp ngăn
chặn có nhiều điểm mới cần nghiên cứu làm rõ.
Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng
trong 5 năm qua cho thấy, các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp bắt, tạm giữ,
tạm giam được áp dụng tương đối phổ biến. Việc áp dụng các biện pháp này, trong
nhiều trường hợp đã ngăn chặn kịp thời tội phạm, tạo thuận lợi cho hoạt động điều tra
truy tố, xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn ở quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng vẫn cịn những hạn chế, sai

sót nhất định do nhiều ngun nhân khách quan và chủ quan khác nhau cần có giải pháp
khắc phục. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu vấn đề áp
1


dụng các biện pháp ngăn chặn ở một địa bàn cấp quận, huyện nhằm góp phần làm phong
phú lý luận về các biện pháp ngăn chặn, đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực
trạng áp dụng các biện pháp này, trên cơ sở đó xây dựng những giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng các quy định của BLTTHS hiện hành về các biện pháp ngăn chặn là hướng
nghiên cứu cần thiết và cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Vì lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo
pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng"
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chủ đề được nhiều nhà khoa học,
cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện, cấp độ khác nhau. Tiêu
biểu là các cơng trình sau đây:
- Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của các trường Đại học, như
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Trường Đại học Cần Thơ (2008), Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015),… Nội dung trong các giáo trình này đã làm
rõ những vấn đề lý luận cơ bản nhất và những kiến thức tổng quát về các biện pháp
ngăn chặn trong pháp luật Tố tụng hình sự.
- Cùng với hệ thống giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam cịn có các tác
phẩm nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn của các tác giả sau:
Võ Khánh Vinh (2012), sách "Bình luận khoa học BLTTHS của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam", Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
Nguyễn Ngọc Anh – Phan Trung Hồi (2019), sách "Bình luận khoa học
BLTTHS năm 2015", Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội ;
Phạm Mạnh Hùng (2018), sách "Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015", Nxb.
Lao động, Hà Nội;
Nguyễn Trọng Phúc (2015), sách "Chế định các biện pháp ngăn chặn theo Luật

tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội;
Mai Đắc Biên và Mai Ngọc Hải (2016), bài viết "Chế định các biện pháp ngăn
chặn trong BLTTHS năm 2015", Tạp chí Kiểm sát, số 5/2016;
Hồng Tám Phi (2018), bài "Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của
BLTTHS năm 2015", Tạp chí Kiểm sát, Số 7/2018;
2


Hoàng Anh Tuyên, bài "Những nội dung mới cơ bản về các biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế tố tụng BLTTHS năm 2015".
Trong các tác phẩm kể trên, các tác giả đã có những phân tích, so sánh, đánh giá,
làm rõ những nội dung cụ thể quy định của BLTTHS trên cơ sở thực tiễn áp dụng về các
biện pháp ngăn chặn.
+ Ngoài ra, đề cập đến các biện pháp ngăn chặn trong TTHS cịn có các cơng
trình nghiên cứu khoa học khác gồm: luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ... Tiêu biểu là:
Luận án Tiến sĩ "Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của
lực lượng Cảnh sát nhân dân" của tác giả Trịnh Văn Thanh, Học viện Cảnh sát nhân
dân năm 2012;
Luận văn Thạc sĩ: "Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn
TP Đà Nẵng" của tác giả Trương Hùng Thanh, Học viện KHXH năm 2013;
Luận văn Thạc sĩ: "Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà
Nội" của tác giả Nguyễn Hồng Công, Học viện KHXH năm 2017;
Luận văn thạc sĩ: "Biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự về tội
phạm ma túy từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh" của tác giả Đoàn Văn
Long, Học viện KHXH năm 2019, v.v... Trong các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ
này, các tác giả đã đề cập đến các biện pháp ngăn chặn ở nhiều cấp độ, phạm vi khác
nhau cả về phương diện lý luận, thực tiễn và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các biện
pháp ngăn chặn hoặc từng biện pháp ngăn chặn cụ thể.

Như vậy, có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về các biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự ở Việt Nam. Song do mục đích, phạm vi nghiên cứu khác
nhau nên chưa có cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề: "Áp dụng các biện pháp ngăn
chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, TP Đà
Nẵng". Do vậy, có thể xác định đề tài luận văn được học viên lựa chọn nghiên cứu
khơng trùng với các cơng trình khoa học đã được cơng bố ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm: làm rõ và phong phú thêm những vấn
đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn; đánh giá thực tiễn áp dụng những biện
3


pháp này ở địa bàn quận Thanh Khê, Đà Nẵng; trên cơ sở đó thiết lập các giải pháp đảm
bảo áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Phân tích, luận giải cơ sở lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên các
phương diện: khái niệm, đặc điểm, căn cứ, thẩm quyền, đối tượng, mục đích, ý nghĩa
của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự;
+ Bình luận, đánh giá làm rõ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự, nhất là quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn, rút ra những
điểm mới, hoàn thiện cũng như những hạn chế, bất cập gây khó khăn vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS ở
quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng, chỉ ra những kết quả đạt được, cũng như những hạn
chế, sai sót cần khắc phục.
+ Xác định yêu cầu, kiến nghị những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các biện
pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm ba vấn đề: những vấn đề lý luận;
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn; thực tiễn áp dụng
các biện pháp này ở quận Thanh Khê, Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn
trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn,
đặc biệt là biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam của CQĐT, Công an quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi thời gian 5 năm, từ năm 2016 đến 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của phương pháp luận chủ nghĩa Mác 4


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà
nước và pháp luật, về bảo vệ quyền con người, quyền công dân và về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm rõ từng nội dung
nghiên cứu, như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
phương pháp tham khảo ý kiến của chuyên gia,....
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm lý luận
chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn trong Tố
tụng hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo để phục vụ

cho hoạt động thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, góp phần phịng ngừa, ngăn
chặn kịp thời tội phạm, thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự.
Ngồi ra, đề tài cịn có giá trị làm tài liệu tham khảo đối với các sinh viên, học
viên, giảng viên tại các cơ sở đào tạo ngành luật, cũng như các chuyên gia trong các cơ
quan nghiên cứu lập pháp và người làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành
tố tụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo thì nội dung
luận văn được thiết kế gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2. Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về các biện pháp ngăn
chặn và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH VỀ ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn và áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
1.1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
* Khái niệm
Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định của Luật tố tụng hình sự

Việt Nam và được áp dụng khá phổ biến trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Theo
Điều 109 BLTTHS quy định thì: "Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ
chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi
nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh". Khoa học luật TTHS gọi các biện pháp này là các
BPNC. Trong các BLTTHS được ban hành vào năm 1988, 2003 và 2015 mặc dù đều có
một chương riêng quy định về các biện pháp ngăn chặn nhưng khơng có quy phạm định
nghĩa về khái niệm các biện pháp ngăn chặn.
Trong khoa học luật TTHS có nhiều cách hiểu khác nhau về các BPNC. Có
quan điểm cho rằng: "Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế
trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị
khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những
hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp
luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án"
[45, tr.166]. Khái niệm này đã phản ánh được bản chất, đối tượng và mục đích áp
dụng các biện pháp ngăn chặn, nhưng chưa chỉ ra căn cứ áp dụng cũng như chủ thể có
thẩm quyền áp dụng.
Quan niệm khác được hiểu: "Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có tính chất bắt
buộc của Nhà nước do người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng và cơ
6


quan được quyền tiến hành một số các hoạt động điều tra theo luật định áp dụng, tạm
thời tước bỏ hoặc hạn chế một phần quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo và trong
trường hợp đặc biệt có thể áp dụng đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm
ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hoặc không cho họ tiếp tục gây nguy hại cho xã hội" [30, tr.40]. Khái niệm này mặc
dù chỉ ra được đối tượng, chủ thể có thẩm quyền, mục đích áp dụng, nhưng khơng hợp

lý khi cho rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có thể "tạm thời tước bỏ một
phần tự do thân thể của bị can, bị cáo". Theo chúng tôi, các biện pháp ngăn chặn
khơng phải là hình phạt, do vậy khơng có nội dung "tước bỏ quyền, lợi ích của người
phạm tội". Mặt khác, khái niệm này chưa liệt kê đầy đủ chủ thể có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp ngăn chặn, tức là đã bỏ sót một loại chủ thể có thẩm quyền bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, đó là bất kỳ người nào.
Cũng có quan niệm lại cho rằng: "Biện pháp ngăn chặn là biện pháp hạn chế
quyền tự do cá nhân, do người có quyền hạn được quy định trong BLTTHS áp dụng
đối với bị can, bị cáo, người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố
nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự đạt hiệu quả cao" [30, tr.28]. Tuy nhiên, trong khái niệm này chưa thể hiện
được căn cứ, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Mặc dù có sự khác nhau, nhưng các quan niệm nêu trên tương đối thống nhất
khi đề cập đến bản chất, đối tượng và mục đích áp dụng. Mặt khác, các khái niệm khoa
học này được xây dựng trước thời điểm ban hành BLTTHS năm 2015 nên chưa phản
ánh được đầy đủ những vấn đề thuộc nội hàm của khái niệm các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự.
Theo quan điểm của tác giả thì khái niệm các biện pháp ngăn chặn phải bao
hàm được bản chất, thẩm quyền, căn cứ, mục đích áp dụng, đối tượng bị áp dụng. Với
cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự như sau: "Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế được
quy định trong BLTTHS, do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị
buộc tội, hoặc người chưa bị khởi tố hình sự (người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người phạm tội quả tang) khi có căn cứ và theo một trình tự, thủ tục mà luật định
nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị buộc tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ
7


hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án".
Theo quy định Điều 109 BLTTHS, các BPNC bao gồm: giữ người trong trường

hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi
cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Theo đó:
- Giữ người trong trường hợp khẩn cấp: là một trong các BPNC do cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng khi có căn cứ và theo trình tự thủ tục do pháp luật tố
tụng hình sự quy định, đối với người bị nghi thực hiện tội phạm, người đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người đã
thực hiện tội phạm nhằm kịp thời ngăn chặn họ thực hiện tội phạm, bỏ trốn hoặc tiêu
hủy chứng cứ.
- Bắt người: là một trong những BPNC do cơ quan, người có thẩm quyền áp
dụng khi có căn cứ và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, đối với người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị
cáo, người bị yêu cầu dẫn độ nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người phạm tội
trốn tránh pháp luật, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội.
Theo quy định hiện hành, biện pháp bắt người bao gồm:
+ Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn là BPBN trong TTHS do người có
thẩm quyền áp dụng đối với người đã bị giữ trong trường hợp khẩn cấp khi xét thấy
cần phải tiếp tục áp dụng biện pháp bắt để tạm giữ đối với người đó trong một thời hạn
nhất định.
+ Bắt người phạm tội quả tang là một trong những BPBN trong TTHS khi
người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát
hiện hoặc bị đuổi bắt.
+ Bắt người đang bị truy nã là một trong những BPBN trong TTHS được áp
dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án trục xuất, phạt tù hoặc tử hình hoặc người
đang chấp hành án trục xuất, chấp hành án phạt tù hoặc người được tạm đình chỉ chấp
hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn và đã có quyết định truy nã của
cơ quan có thẩm quyền.
+ Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trong BPBN trong TTHS do cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo để tạm giam nhằm ngăn chặn việc
8



bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để đảm bảo thi hành án.
+ Bắt người bị yêu cầu dẫn độ là một trong những BPBN trong TTHS do cơ
quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ để tạm giam
nhằm bảo đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành, yêu cầu dẫn độ, đáp ứng
yêu cầu hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.
- Tạm giữ: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm
quyền áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã, người phạm
tội tự thú, đầu thú nhằm ngăn chặn việc họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội.
- Tạm giam: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm
quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLTTHS quy
định hình phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ chứng tỏ rằng họ có thể bỏ trốn, cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
- Bảo lĩnh: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm
quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ căn cứ theo PLTTHS quy định để thay
thế biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi được cơ quan
có thẩm quyền THTT triệu tập và ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, cản trở hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử.
- Đặt tiền để bảo đảm: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người thân thích của bị can,
bị cáo nhằm bảo đảm sự có mặt của họ, ngăn ngừa việc bị can, bị cáo cản trở hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và để bảo đảm thi hành án.
- Cấm đi khỏi nơi cư trú: là một trong những BPNC do cơ quan có thẩm quyền
áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt
của họ theo giấy triệu tập của CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án.

- Tạm hoãn xuất cảnh: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà
qua việc kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm
9


hoặc đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ
trốn.
* Đặc điểm của các biện pháp ngăn chặn
Cả lý luận và thực tiễn áp dụng cho thấy, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự có những đặc điểm sau đây:
+ Thứ nhất, các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự của Nhà nước.
Các biện pháp ngăn chặn có đặc điểm này là vì đây là những biện pháp tác động
mang tính quyền lực nhà nước đối với những người bị áp dụng, buộc họ không được
phép thực hiện một số hành vi như: không được tiếp tục phạm tội, không được rời khỏi
nơi cư trú, tạm thời không được xuất cảnh, không được thực hiện những hành vi cản
trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Những hành vi mà Nhà nước cấm
này buộc đối tượng bị áp dụng phải chấp hành.
+ Thứ hai, các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp mang tính chất phịng
ngừa, khơng mang tính chất trừng trị.
Đặc điểm này cho thấy, việc quy định cũng như áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong từng trường hợp cụ thể phải căn cứ vào yêu cầu phòng ngừa, ngăn chặn
người bị buộc tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội.
Xét về mặt nội dung, các biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng chỉ hạn chế
tạm thời một số quyền và lợi ích của người bị áp dụng như: quyền tự do thân thể, tự do
đi lại, cư trú, xuất cảnh, .v.v... nhưng khơng tước bỏ những quyền và lợi ích của họ
như hình phạt. Do vậy, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự khơng mang
tính chất trừng trị, khơng phải là hình phạt.

+ Thứ ba, các biện pháp ngăn chặn mang tính chất pháp lý.
Tính pháp lý của BPNC thể hiện ở việc, chỉ những biện pháp nào có mục đích
phịng ngừa tội phạm, ngăn chặn những hành vi gây cản trở cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được luật quy định thì mới được coi là BPNC
trong Tố tụng hình sự.
+ Thứ tư, các biện pháp ngăn chặn mang tính lựa chọn, tùy nghi.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tế áp dụng cho thấy, các
10


biện pháp ngăn chặn không nhất thiết phải áp dụng trong mọi trường hợp, đối với tất
cả các vụ án hình sự cũng như đối với tất cả người bị buộc tội. Chỉ áp dụng các biện
pháp này trong trường hợp thật cần thiết, dựa trên những căn cứ luật định. Do vậy,
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khơng mang tính bắt buộc mà mang tính lựa
chọn. Tính chất này địi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn
chặn phải xem xét cân nhắc hết sức thận trọng khi quyết định áp dụng các biện pháp
ngăn chặn. Việc lựa chọn biện pháp ngăn chặn cụ thể để áp dụng là tùy thuộc vào tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và yêu cầu
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Khi sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn
chặn cịn khơng thì chúng phải được hủy bỏ hoặc bị thay thế bằng các biện pháp khác.
1.1.1.2. Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn
Việc quy định và áp dụng các BPNC trong TTHS có ý nghĩa nhiều mặt. Cụ thể
là:
+ Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS tạo cơ sở pháp lý cho
các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng để ngăn chặn tội phạm, hạn chế những thiệt
hại do tội phạm gây ra cho xã hội.
+ Việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự góp
phần bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi, không bị kéo dài do
đã kịp thời ngăn chặn, không để cho người bị buộc tội có thể cản trở, gây khó khăn cho
việc giải quyết vụ án. Ngồi ra, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cịn góp phần ngăn

chặn bị can, bị cáo bỏ trốn có thể gây khó khăn cho việc thi hành án, qua đó góp phần bảo
đảm hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
+ Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự với những căn
cứ áp dụng chặt chẽ còn tạo cơ sở pháp lý để cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng
để bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Ngồi ra, cịn có tác dụng hạn chế sự lạm quyền
trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn xâm phạm đến quyền con người, quyền
công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận.
1.1.1.3. Phân biệt các biện pháp ngăn chặn với các biện pháp cưỡng chế tố
tụng hình sự khác.
Biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là biện pháp mang tính quyền lực nhà
11


nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố
tụng hình sự quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi của người tham gia tố tụng, buộc
họ phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án được thuận lợi.
Các biện pháp cưỡng chế độ tố tụng hình sự có tính chất, nội dung, mục đích,
đối tượng áp dụng khác nhau. Căn cứ vào những tiêu chí này, các biện pháp cưỡng chế
tố tụng hình sự có thể được thành 3 nhóm:
- Các BPNC, như giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người; tạm giữ; tạm
giam; bảo lãnh; đặt tiền để bảo đảm; cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh.
- Các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ, như khám xét, thu giữ,
tạm giữ tài liệu, đồ vật; xem xét dấu vết trên thân thể v.v...
- Các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án,
như biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản.
Trong 3 nhóm biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nêu trên, các biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự có tính nghiêm khắc hơn cả, bởi chúng có khả năng
hạn chế tạm thời một số quyền và lợi ích thiết thân của người bị áp dụng (như quyền

tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú...). Do đều là những biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự, nên tất cả ba nhóm biện pháp nêu trên đều có điểm chung: đều là biện pháp
mang tính quyền lực nhà nước; chỉ do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng khi có
căn cứ và theo một trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định; đều
khơng nhằm mục đích trừng trị, giáo dục người phạm tội mà nhằm mục đích phịng
ngừa, ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án được thuận lợi.
Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau nhất định.
* Điểm khác nhau giữa biện pháp ngăn chặn với biện pháp đảm bảo cho việc
thu thập chứng cứ:
+ Về nội dung: các biện pháp ngăn chặn có khả năng hạn chế tạm thời quyền và
lợi ích thiết thân (quyền tự do thân thể, cư trú, đi lại) của đối tượng bị áp dụng, còn các
biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ khơng có khả năng này.
+ Về đối tượng bị áp dụng: đối tượng bị áp dụng các BPNC chỉ có thể là con
người, trong khi đó đối tượng bị áp dụng các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập
12


chứng cứ có phạm vi rộng hơn, khơng chỉ con người cụ thể mà còn là nơi ở, nơi học tập,
làm việc, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, dữ liệu điện tử,bưu kiện, bưu phẩm,…
+ Về mục đích áp dụng: các biện pháp ngăn chặn được áp dụng chủ yếu nhằm
ngăn chặn tội phạm, không để cho tội phạm tiếp tục được thực hiện, không để cho
người phạm tội trốn tránh pháp luật... Tuy nhiên, một chừng mực nhất định, các biện
pháp ngăn chặn được áp dụng còn nhằm mục đích thu thập, bảo quản chứng cứ trong
vụ án, tạo điều kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận
lợi. Trong khi đó, mục đích chủ yếu của việc áp dụng các biện pháp đảm bảo cho việc
thu thập chứng cứ là nhằm phát hiện, thu giữ, ghi nhận và bảo quản chứng cứ chứng
minh tội phạm, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
+ Về tính chất: các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ là các biện
pháp điều tra, còn các biện pháp ngăn chặn không phải là các biện pháp điều tra (theo

đúng nghĩa).
+ Ngoài ra, tùy thuộc vào từng biện pháp cụ thể hay nhóm biện pháp này cịn
khác nhau ở căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng.
* Điểm khác nhau giữa các biện pháp ngăn chặn với các biện pháp bảo đảm
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án:
+ Về nội dung, mức độ cưỡng chế: các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án có tính cưỡng chế những ít nghiêm khắc, chủ yếu
nhằm mục đích bắt buộc đối tượng bị áp dụng phải thi hành nghĩa vụ cơng dân theo
quy định pháp luật. Trong khi đó, các BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc hơn bởi
khi được áp dụng các biện pháp này có khả năng hạn chế tạm thời quyền tự do thân
thể, tự do cư trú, đi lại của đối tượng bị áp dụng.
+ Về đối tượng bị áp dụng: Các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án có đối tượng bị áp dụng nhiều hơn các biện pháp ngăn chặn,
bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, ngoai ra cịn có:
Người làm chứng, người bị hại, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; bị can, bị cáo về
tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm
bồi thường thiệt hại; người bị buộc tội về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền tịch thu
tài sản để bảo đảm bồi thường thiệt hại. Trong khi đó, đối tượng bị áp dụng các BPNC
chỉ bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, người
13


đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ.
+ Về mục đích áp dụng: việc áp dụng các biện pháp đảm bảo cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là nhằm mục đích bảo đảm cho những hoạt động
này được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định, khơng
có mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án.
+ Về tính chất: các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án không có tính chất phịng ngừa, ngăn chặn cũng như tính chất điều tra vụ

án mà chỉ có tính chất hỗ trợ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
+ Về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng: tùy thuộc vào từng biện pháp cụ thể
mà có căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng khác nhau.
Mặc dù giữa biện pháp ngăn chặn với các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự
có những điểm khác nhau cơ bản như trên, nhưng các biện pháp này có mối quan hệ
tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thực tế cho thấy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn sẽ tạo điều kiện cho việc áp
dụng các biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Ngược lại, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác sẽ tạo thuận lợi cho
việc thu thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ để áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Nắm
vững những vấn đề này sẽ giúp các cơ quan, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng đắn
các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án được đúng đắn, kịp
thời, qua đó góp phần bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thiết thực vào
cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.2. Những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ "áp dụng" được giải nghĩa là "đưa vào
vận dụng trong thực tế điều nhận thức, lĩnh hội được" [54, tr.33]. Áp dụng các biện
pháp ngăn chặn là một hình thức áp dụng pháp luật. Theo từ điển Luật học thì: "Áp
dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà
nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ
14


chức xã hội được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật và
các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể" [53, tr.15].
Áp dụng các biện pháp ngăn chặn thực chất là áp dụng (thi hành) các quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự quy định về các biện pháp ngăn chặn trong q trình giải

quyết vụ án hình sự.
Với tính chất là một hình thức áp dụng pháp luật (mà cụ thể là pháp luật tố tụng
hình sự) áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang những đặc điểm chung của hoạt động
áp dụng pháp luật, đồng thời cịn có những đặc điểm riêng của mình.
* Những đặc điểm chung:
+ Thứ nhất, áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động thi hành pháp luật tố
tụng hình sự mang tính tổ chức quyền lực nhà nước.
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC chủ yếu là các cơ quan THTT (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án), đại diện cho tính tối cao của quyền lực chính trị.
Do vậy, các cơ quan này quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn căn cứ vào quy
định của pháp luật và theo ý chí của mình (ý chí nhà nước), khơng phụ thuộc vào ý chí
của đối tượng bị áp dụng.
+ Thứ hai, áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động điều chỉnh cá biệt
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cụ thể.
Thực tế cho thấy, áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ tiến hành trong những
trường hợp cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể, làm phát sinh quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự cụ thể. Do vậy hoạt động này ln có tính xác định, nghĩa là các biện
pháp ngăn chặn được áp dụng đối với ai, trong trường hợp nào, ở đâu và vào thời điểm
nào. Những đòi hỏi này làm cho hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn có tính
điều chỉnh cá biệt.
+ Thứ ba, hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn được tiến hành theo
trình tự, thủ tục, hình thức chặt chẽ do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp
quyền và lợi ích thiết thân của người bị áp dụng (nhất là quyền tự do thân thể) mà cịn
ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước nói chung, của các cơ quan và người tiến hành tố
tụng nói riêng. Do vậy, hoạt động này phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt
chẽ, dưới hình thức do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
15



* Ngoài những đặc điểm chung trên đây, áp dụng các biện pháp ngăn chặn cịn
có một số đặc điểm riêng, đó là:
- Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố
tụng hình sự, có khả năng hạn chế tạm thời quyền và lợi ích nhất định của đối tượng bị
áp dụng.
Có đặc điểm này là vì: Xét về mặt tính chất, nội dung, các biện pháp ngăn chặn
là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự chỉ nội dung hạn chế tạm thời quyền và
lợi ích nhất định của người bị áp dụng như quyền tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú
v.v... mà không tước bỏ những quyền và lợi ích này. Do vậy, áp dụng các biện pháp
ngăn chặn khơng phải là áp dụng hình phạt.
- Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang tính tùy nghi, lựa chọn.
Theo quy định của BLTTHS hiện hành, thì việc áp dụng thì các biện pháp ngăn
chặn khơng có tính bắt buộc, nghĩa là khơng nhất thiết phải áp dụng trong mọi trường
hợp, đối với mọi đối tượng. Những biện pháp này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp
cần thiết, khi có căn cứ luật định. Do vậy, khi quyết định áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, chủ thể có thẩm quyền phải xem xét, cân nhắc để xác định có cần thiết áp dụng
biện pháp ngăn chặn hay khơng, nếu cần thiết thì sẽ lựa chọn biện pháp nào để áp
dụng. Mặt khác, khi sự cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn khơng cịn thì cơ quan
có thẩm quyền phải ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp khác.
1.1.2.2. Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, có một số quan điểm khác nhau về căn cứ áp
dụng các biện pháp ngăn chặn như: "Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn là những
tiêu chí, điều kiện mà người có thẩm quyền dựa vào đó để quyết định áp dụng" [46,
tr.265]. Quan điểm khác thì cho rằng: "Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn là
những tài liệu, chứng cứ dự báo có đầy đủ cơ sở về khả năng bị can, bị cáo sẽ gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội" [40, tr.55].
Theo quan điểm tác giả, căn cứ áp dụng BPNC là cơ sở đòi hỏi các cơ quan
THTT phải dựa vào đó khi quyết định áp dụng các BPNC. Nếu khơng có các căn cứ
này thì khơng được áp dụng các BPNC đối với người phạm tội. Ở đây cũng có thể
khẳng định khơng phải người bị buộc tội nào cũng bị áp dụng các BPNC. Các căn cứ

áp dụng BPNC trong TTHS bao gồm:
16


* Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong trường hợp này là cần thiết nhằm ngăn chặn tội phạm, không để tội phạm
diễn ra hoặc tiếp tục diễn ra, gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ. Căn cứ này thường được viện dẫn để áp dụng biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
* Thứ hai, khi có căn cứ cho thấy người bị buộc tội bỏ trốn hoặc gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Để xác định là có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cần dựa vào những biểu hiện thực tế sau
đây:
+ Người bị buộc tội nhiều lần khơng có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng mà khơng có lý do chính đáng;
+ Người bị buộc tội có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai
báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
+ Người bị buộc tội có hành vi tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của
vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án;
+ Người bị buộc tội có hành vi đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị
hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Căn cứ này thường được viện dẫn để áp dụng biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người đang bị truy nã;
bắt bị can, bị cáo để tạm giam; tạm giữ; tạm giam.
* Thứ ba, khi có căn cứ cho thấy người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội.
Để xác định được căn cứ này cần dựa trên những biểu hiện sau đây của người bị
buộc tội:
+ Người bị buộc tội tiếp tục có hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm
trọng; đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại khoản 2 Điều 14 BLHS;
+ Người bị buộc tội có hành vi đe dọa, trả thù người tố giác tội phạm, người

làm chứng, người bị hại hoặc người thân thích của những người này.
+ Người bị buộc tội có ý thức chống đối, ngoan cố khơng thừa nhận hành vi
phạm tội của mình, phạm tội chuyên nghiệp, có tổ chức, là phần tử lưu manh, cơn đồ,
có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Căn cứ này thường được viện dẫn để áp dụng các biện pháp giữ người trong
17


trường hợp khẩn cấp, bắt bị can, bị cáo để tạm giam hoặc biện pháp tạm giam.
* Thứ tư, khi cần bảo đảm thi hành án. Xác định căn cứ này dựa trên các biểu
hiện sau đây:
- Người bị buộc tội (người bị kết án) trốn hoặc có dấu hiệu sẽ trốn;
- Người bị buộc tội khơng có nơi cư trú rõ ràng;
- Người bị buộc tội hoặc người thân thích của họ có hành vi tẩu tán tài sản hoặc
có hành vi chuẩn bị tẩu tán tài sản có liên quan đến vụ án;
- Người bị buộc tội bị tuyên hình phạt tù, tử hình...
Căn cứ này thường được viện dẫn để áp dụng biện pháp tạm giam; bảo lãnh, đặt
tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Trên đây là những căn cứ có tính chất chung để áp dụng các biện pháp ngăn
chặn. Tuy nhiên, khi áp dụng từng biện pháp ngăn chặn cụ thể thì cơ quan, người có
thẩm quyền cịn phải dựa vào căn cứ được quy định riêng đối với biện pháp đó.
Để khẳng định có các căn cứ trên, cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp
ngăn chặn phải xác minh, làm rõ các tình tiết của vụ việc, chứng minh sự tồn tại của
các căn cứ trên. Đồng thời, dựa vào những tài liệu, chứng cứ chứng minh có đủ cơ sở
để áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, cịn mục đích áp dụng các
biện pháp ngăn chặn là kết quả cuối cùng mà cơ quan, người có thẩm quyền hướng tới
và mong muốn đạt được qua việc áp dụng các biện pháp này như: ngăn chặn tội phạm;
bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.
1.1.2.3. Chủ thể có thẩm quyền, đối tượng, mục đích áp dụng các biện pháp
ngăn chặn

* Chủ thể có thẩm quyền áp dụng các BPNC là những người mà theo quy định
của pháp luật TTHS có quyền áp dụng các biện pháp này. Các chủ thể này có thể là
người THTT; người trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra hoặc bất kỳ ai mà theo quy định của PL TTHS có quyền bắt người phạm tội
quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.
* Đối tượng bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ bao gồm những người - cá
nhân mà theo quy định của PLTTHS cần thiết phải áp dụng một trong những biện
pháp ngăn chặn cụ thể khi có căn cứ luật định. Những người này có thể là người bị
buộc tội: người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Người bị giữ trong trường hợp khẩn
18


cấp; người bị kết án; người bị yêu cầu dẫn độ. Trong số họ, có những người đã bị cơ
quan có thẩm quyền khởi tố về hình sự, bị Tịa án quyết định đưa ra xét xử; có người
đã bị Tịa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật và thi hành bản án đó. Tuy
nhiên, có những BPNC được áp dụng đối với những người chưa bị khởi tố về hình sự:
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang.
* Mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn là nhằm kịp thời ngăn chặn tội
phạm, các hành vi gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và
nhằm đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.2. Lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988
Trong lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam, các biện pháp ngăn chặn đã
được quy định khá sớm và từng bước được hoàn thiện.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, để bảo vệ chính quyền dân
chủ nhân dân cịn non trẻ, thiết lập trật tự mới, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến
việc xây dựng hệ thống pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật tố tụng hình sự
chứa đựng các quy phạm về các biện pháp ngăn chặn.
Văn bản pháp luật đầu tiên có quy định về biện pháp ngăn chặn là Sắc lệnh số

13/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Điều 4 của Sắc lệnh quy định:
"Ban Tư pháp xã khơng có quyền tịch thu tài sản của ai, cũng khơng có quyền bắt bớ,
giam giữ trừ khi có trát nã của một Thẩm phán, hay khi thấy người phạm tội quả tang"
[6, tr.97]. Như vậy, Sắc lệnh này đã đề cập đến một số biện pháp ngăn chặn như bắt
người, giam giữ người. Tuy nhiên, quy định về các biện pháp này còn đơn giản, chưa
chặt chẽ, đặc biệt là chưa xác định rõ căn cứ áp dụng.
Tiếp đến, ngày 29 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 40/SL về bảo vệ quyền tự do cá nhân, trong đó có quy định
về trình tự, thủ tục áp dụng hai biện pháp ngăn chặn, đó là bắt và giam người. Chẳng
hạn, tại Điều 2 Sắc lệnh số 40/SL đã đưa ra khái niệm phạm pháp quả tang và thủ tục
bắt người phạm pháp quả tang: "Khi nào sự phạm pháp đương xảy ra hoặc vừa xảy ra
trước mắt hoặc khi nào kẻ phạm pháp cịn đang bị cơng chúng theo đuổi hay cịn đang
cầm giữ tang vật thì gọi là phạm pháp quả tang. Trong trường hợp đặc biệt ấy thì bắt
19


người khơng cần phải có lệnh trước của Thẩm phán viên. Tư nhân bắt được kẻ phạm
pháp quả tang phải lập tức dẫn đến trình nhà chức trách ở gần đấy nhất..." [6,
tr.121]. So với quy định của Sắc lệnh số 13/SL về bắt người thì những quy định này về
bắt người có sự tiến bộ hơn. Tuy nhiên, trong Sắc lệnh số 40/SL mới cũng chỉ đề cập
đến bắt người phạm pháp quả tang và bắt thường, mà chưa quy định các trường hợp
bắt khác.
Để khắc phục hạn chế này, ngày 20/5/1957 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã ký ban hành Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/05/1957 về đảm bảo quyền tự do thân
thể và bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân trong đó đã đề cập
đến ba biện pháp ngăn chặn là bắt người, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp cưỡng chế
tố tụng khác như: khám người, khám đồ vật, khám nhà ở và thư tín. Đặc biệt Điều 4 của
Luật số 103/SL.005 quy định hai trường hợp bắt người, đó là trường hợp phạm pháp quả
tang và trường hợp khẩn cấp và coi đây là những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy
định [42, tr.85-87]. Tuy nhiên, Điều 4 của Luật số 103/SL/L.005 chưa xác định các

trường hợp phạm pháp quả tang cũng như những trường hợp khẩn cấp, đồng thời những
thủ tục cần tiến hành sau khi bắt người cũng chưa được quy định cụ thể. Điều đó đã gây
khó khăn nhất định cho việc áp dụng các biện pháp này trên thực tiễn.
Để kịp thời hướng dẫn và thực thi Luật số 103/SL/L.005 có hiệu quả, ngày
18/6/1957, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 002/SLt quy
định những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp. Theo đó,
Sắc lệnh số 002/SLt đã quy định bốn trường hợp phạm pháp quả tang và thẩm quyền
bắt người phạm pháp quả tang, đó là: ".... những trường hợp sau đây là phạm pháp
quả tang mà người cơng dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Ủy ban hành
chính, Tịa án nhân dân hoặc Đồn Công an nơi gần nhất: 1- Đang làm việc phạm pháp
hoặc sau khi phạm pháp thì bị phát giác ngay; 2- Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp;
3- Đang bị giam giữ mà lẩn trốn; 4- Đang có lệnh truy nã (Điều 1)" [4, tr.68].
Đồng thời tại Điều 2 của Sắc lệnh này quy định các trường hợp bắt khẩn cấp,
gồm: "1- Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp; 2- Người bị hại hoặc người có
mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt trơng thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm
pháp; 3- Tìm thấy chứng cứ có phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người tình
nghi phạm pháp; 4- Có hành động chuẩn bị hoặc đang trốn; 5- Có hành động chuẩn bị
20


×