Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Định tội danh các tội phạm về ma tuý từ thực tiễn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.31 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG NGỌC HƯNG

Định tội danh các tội về ma túy
từ thực tiễn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã ngành: 8.38.01.04
Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. Đồng Đại Lộc

Hà Nội, năm 2021
1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành
đến các thầy giáo, cô giáo đang công tác và giảng dạy tại Học viện khoa học xã hội thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; các thầy cô hiện đang
công tác trong hệ thống Tòa án nhân dân và giảng dạy tại Học viện Tòa án đã
truyền đạt kiến thức cho em trong thời gian học tập.
Em cũng xin tỏ lòng biết ơn đến PGS - TS. Đồng Đại Lộc, người đã
định hướng về mặt khoa học và nhiệt tình chỉ dẫn em trong suốt quá trình tìm
hiểu, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em muốn bày tỏ sự cảm ơn chân tình đến các đồng nghiệp, gia đình,
các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Hoa Lư và bạn bè đã ủng hộ, giúp đỡ
trong q trình hồn thành luận văn của mình.
Với vốn kiến thức và điều kiện tiếp cận các cơng trình nghiên cứu cịn
hạn chế do đó trong bài viết có nhiều thiếu sót, em rất mong các thầy, cơ chân


thành đóng góp ý kiến để em hồn thiện hơn nữa trong q trình cơng tác.
Em xin chân trọng cảm ơn!
Ninh Bình, ngày 17 tháng 01 năm 2021
Học viên

Hoàng Ngọc Hưng

2


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan, luận văn của em là cơng trình nghiên cứu của cá
nhân em. Kết quả trình bày trong bài viết chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu là trung thực, do các cơ quan tiến hành tố tụng
huyện Hoa Lư cung cấp và trích dẫn theo đúng quy định.
Em xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của kết quả
nghiên cứu này.
Học viên

Hoàng Ngọc Hưng

3


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự

BLHS

Tịa án nhân dân


TAND

Tịa án nhân dân tối cao

TANDTC

Viện kiểm sát nhân dân

VKSND

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Do chịu tác động từ tình hình tội phạm ma túy trên thế giới và trong
khu vực, nhất là từ khu vực “Tam giác vàng”, nên tình hình ma túy và tội phạm
ma túy tại Việt Nam tiếp tục diễn biến phức tạp. Ma túy được mua bán, vận
chuyển từ nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu qua các tuyến biên giới đường bộ
Việt - Lào, Việt -Trung, Việt Nam - Campuchia và một phần qua tuyến đường
hàng không.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm vừa qua cho thấy, tình hình tội
phạm về ma tuý đang là vấn đề gây bức xúc lo lắng cho quần chúng nhân dân,
ma tuý đã trở thành “quốc nạn” mà tồn dân đang gồng mình gánh chịu những
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do tội phạm này gây ra. Thời gian vừa qua, lực
lượng chức năng phát hiện và thu giữ khối lượng ma túy tổng hợp rất lớn vận
chuyển từ “Tam giác vàng” về Việt Nam.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình tệ nạn ma tuý trên thế
giới, khu vực và trong nước, để đấu tranh và nâng cao hiệu quả các mặt cơng

tác phịng, chống AIDS và phịng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, huy động
đông đảo các ngành, các cấp và các tầng lớp nhân dân tham gia vào công tác
đấu tranh, phòng, chống ma tuý, trong thời gian qua, Bộ chính trị, Ban Bí thư,
Chính phủ và Uỷ ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma
tuý, mại dâm đã dành sự quan tâm đặc biệt đến cơng tác phịng, chống và kiểm
sốt ma t.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc đấu tranh với tệ
nạn ma tuý, trong những năm qua Toà án nhân dân tối cao đã thường xuyên chỉ
đạo hệ thống Toà án cả nước thực hiện nghiêm chỉnh các Nghị quyết, Chỉ thị
của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về đấu tranh phịng, chống và kiểm sốt ma
t, khẩn trương đưa ra xét xử nghiêm minh các vụ án ma tuý, Toà án nhân
dân Tối cao đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật chỉ đạo về công tác
đấu tranh đối với một số tội phạm về ma tuý gây bức xúc dư luận.
5


Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía nam đồng bằng sông Hồng, thuộc
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cách thủ đơ Hà Nội hơn 90 km. Ninh Bình có
diện tích 1.389 km2, gồm 8 đơn vị hành chính là thành phố Ninh Bình, thành
phố Tam Điệp và 06 huyện với tổng dân số khoảng hơn 1 triệu người. Trong
đó có huyện Hoa Lư, với tiềm năng vị trí địa lý thuận lợi và là trung tậm du
lịch của cả tỉnh. Bên cạnh những mặt tích cực mà nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mang lại thì mặt trái của nó cũng tác động tiêu cực đối
với xã hội, làm gia tăng tội phạm, các tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức
tạp, trong đó các tội phạm về ma túy cũng khơng ngừng gia tăng có diễn biến
ngày càng phức tạp.
Do vậy, hệ thống Tồ án nhân dân tỉnh Ninh Bình đã có nhiều cố gắng
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, nhất là trong công tác xét xử các
vụ án về ma tuý. Từ đó đã hạn chế việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội, chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma tuý đúng pháp
luật hơn, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm nói
chung và tội phạm về ma tuý nói riêng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hoạt động xét xử của
hệ thống Tồ án nói chung cũng như của Toà án nhân dân huyện Hoa Lư nói
riêng vẫn cịn có nhiều hạn chế. Tình trạng nhận thức về lý luận cũng như thực
tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự về ma tuý không đúng dẫn đến án
bị huỷ, cải sửa nghiêm trọng. Mặc dù các bản án sai lầm này không nhiều
nhưng tác hại gây ra cho xã hội là rất lớn. Nó vừa vi phạm quyền tự do dân chủ
của cơng dân, vừa ảnh hưởng khơng tốt đến uy tín của Thẩm phán, của hệ
thống Toà án và các cơ quan thực thi pháp luật.
Đối với Tòa án xét xử là chức năng chính được ghi nhận trong Điều
102 Hiến pháp nước năm 2013. Hoạt động xét xử nói chung, xét xử án hình sự
trong đó có xét xử các tội phạm về ma tuý nói riêng để ra các bản án, các quyết
định thể hiện tính nghiêm minh và sự cơng bằng của pháp luật. Do đó, việc
6


nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về định tội danh trong quá trình xét xử
các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự về ma tuý nói riêng vừa là
nhiệm vụ vừa là trách nhiệm của cán bộ, cơng chức hệ thống Tồ án, cụ thể là
Thẩm phán có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động xét xử.
Do vậy học viên đã lựa chọn đề tài: “Định tội danh các tội phạm về ma
tuý từ thực tiễn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình” làm luận văn tốt nghiệp Thạc
sỹ với sự nhiệt tình mong muốn bày tỏ quan điểm cá nhân về vấn đề trên trong
quá trình xét xử các vụ án về ma túy.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước tình hình tội phạm về ma tuý hoạt động ngày càng có nhiều diễn

biến phức tạp, nên cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm ma tuý là một yêu
cầu bức thiết, mang tính tồn cầu được các nhà khoa học, các cơ quan nghiên
cứu và cán bộ hoạt động thực tiễn quan tâm và có nhiều bài báo, đề tài khoa
học và luận văn, chuyên đề đề cập về phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống
tội phạm về ma tuý.
Khi lựa chọn đề tài “Định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn
huyện Hoa Lư” cho luận văn Thạc sỹ, tơi đã tham khảo: Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm), PGS-TSKH Lê Cảm, NXB ĐHQGHN năm
2007; Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành. NXB
ĐHQGHN năm 2004. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản; Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự năm 2009, NXB Cơng an nhân dân năm 2001; Giáo trình tội phạm
học của GS-TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), NXB Cơng an nhân dân năm 2011;
Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), Th.s Đinh
Văn Quế, NXB TP HCM năm 2005; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần
các tội phạm), TS ng Chu Lưu (Chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia năm
2004; Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử của
TS. Phạm Minh Tuyên, NXB Hồng Đức năm 2013; Bộ Luật hình sự năm 2015
(sửa đổi năm 2017); Cơng văn số: 89/TANDTC-PC, ngày 30/6/2020 của Tòa
án nhân dân Tối cao về việc “Thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số
7


vướng mắc trong xét xử”; Dự thảo chi tiết sửa đổi bổ sung một số điều Luật
Phòng, chống ma túy; Nghị định số 60/2020/NĐ-CP, ngày 29/5/2020 Sửa đổi,
bổ sung Danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định
73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất
ma túy và tiền chất và một số luận văn, luận án tiến sĩ như luận văn “Mối quan
hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong đấu tranh
phòng, chống các tội phạm về ma túy” của Ths Nguyễn Minh Thành, Vụ 1C,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, năm 2011; Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn

Mạnh Cường (Vụ 1A, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) về “Áp dụng pháp luật
trong điều tra, truy tố các vụ án ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam”, năm 2007; Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Mai Nga (Vụ 1C, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao) về “Nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong quá trình giải quyết các
vụ án ma túy”…
Đây là những bài viết có tính thực tiễn sâu sắc, nhưng mục đích và
phạm vi nghiên cứu của các cơng trình khác nhau. Tuy nhiên chưa có cơng
trình nào mang tính chuyên sâu về định tội danh các tội về ma túy trên địa bàn
huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Trong luận văn này, em nghiên cứu sâu hơn vào những quy định của
pháp luật hình sự, cũng như các văn bản hướng dẫn về “Định tội danh các tội
phạm về ma túy”, thực trạng giải quyết vụ án hình sự trong những năm gần đây
và qua đó, tìm ra khó khăn, tồn tại và đưa ra những giải pháp nâng cao chất
lượng khi định tội danh trong quá trình xét xử các vụ án hình sự về ma t của
Tồ án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình nói riêng và trong cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm ma tuý cả nước nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn
khi định tội danh các tội về ma tuý trong quá trình tiến hành tố tụng trên địa
bàn huyện Hoa Lư.
8


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận văn là từ năm 2016 đến
30/12/2020 đối với thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự về ma
tuý của các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Hoa Lư. Đặc biệt, đối với Tòa án
đây là khoảng thời gian đánh dấu những bước chuyển biến mang tính chất đột

phá trong cơng tác xét xử của hệ thống Tồ án nhân dân nói chung và của Tồ
án cấp huyện ở tỉnh Ninh Bình nói riêng theo đúng tinh thần của Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 và thực hiện pháp luật phòng chống ma tuý cũng như việc thay
đổi giữa Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự cũ và mới.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trong q trình học tập, cơng tác cũng như khi được giao đề tài tốt
nghiệp, cá nhân em mong muốn đưa ra cái nhìn tồn diện các quy định của
pháp luật hình sự cũng như tố tụng hình sự và các văn bản có liên quan đối với
việc “Định tội danh đối với tội phạm về ma túy”, cũng như việc xem xét áp
dụng quy định này trong thực tiễn. Qua đó làm sáng tỏ những mặt đã làm được,
những hạn chế và đưa ra phương hướng góp phần hồn thiện các quy định về
“Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy”, từ đó nâng cao hiêu quả công
tác thực thi pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng. Để đạt được những mục
đích đó trong q trình nghiên cứu đề tài cần hồn thiện nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu sâu hơn để làm rõ khái niệm, đặc trưng, mục đích
và cơ sở của việc định tội danh, cũng như những vấn đề đảm bảo cho việc định
tội danh đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hai là, khi định tội danh đối với các tội phạm về ma túy chúng ta cần
phải đánh giá một cách khách quan những vấn đề đã phân tích cũng như các
căn cứ pháp lý được quy định tại Chương XX của BLHS này.
Ba là, trên cơ sở kết quả thu thập từ thực tiễn việc các cơ quan tiến
hành tố tụng và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ có thẩm quyền trong
việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong những năm gần đây, khi
9


thực hiện định tội danh đối với các tội phạm về ma túy của chỉ ra những hạn
chế, vướng mắc và nguyên nhân.
Bốn là, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền trong việc xây dựng

pháp luật một số giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật hình sự, để việc định tội
danh nói chung và định tội danh đối với các tội phạm về ma túy nói riêng được
hồn chỉnh hơn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp luận.
Để giải quyết những vấn đề trên, việc nghiên cứu đề tài được thực hiện
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những
chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh, phịng chống tội
phạm nói chung, đấu tranh phịng chống tội phạm ma t nói riêng về quan
điểm áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội về ma tuý.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý luận: thu thập, hệ thống, nghiên cứu các
văn bản pháp lý, các cơng trình khoa học, tài liệu đã công bố, các báo cáo sơ
kết, tổng kết, các bản án, số liệu thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các
ngành chức năng có liên quan đến đề tài áp dụng pháp luật các tội về ma tuý để
làm nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.
Phương pháp lịch sử: là phương pháp nghiên cứu bằng cách đi tìm
nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hoá của các tội về ma tuý, từ
đó làm căn cứ trong việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt cho tội
phạm này khi xét xử tại địa bàn huyện Hoa Lư, Tỉnh Ninh Bình
Phương pháp so sánh: chủ yếu được sử dụng để đánh giá những biến
động của tình hình các tội về ma tuý; so sánh tình hình các tội về ma tuý và các
tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình để làm căn cứ
đánh giá hiệu quả đạt được trong việc áp dụng, triển khai thực hiện các quy
định pháp luật.
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: dựa trên việc thống kê,
tổng hợp, phân tích số liệu thu thập từ các cơ quan chức năng. Từ đó phân tích,
10



đánh giá tình hình, nguyên nhân, điều kiện và thực trạng công tác áp dụng pháp
luật các tội về ma tuý để đưa ra các giải pháp hữu hiệu
Phương pháp thống kê xã hội học: dựa trên kết quả điều tra, khảo sát,
thăm dò đối với các cơ quan ban ngành có liên quan để tiến hành phân tích xã
hội học về tội phạm ma tuý trên địa bàn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình nhằm
nghiên cứu, đánh giá, làm rõ thực trạng nhận thức việc áp dụng pháp luật cũng
như những hạn chế, thiếu sót trong q trình thực thi pháp luật đối với các tội
về ma tuý.
Phương pháp chuyên gia: tham gia các chương trình phỏng vấn, trao
đổi, tọa đàm với các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn có kinh nghiệm trong khi
q trình thi hành, thực thi công tác áp dụng pháp luật đối với các tội về ma
tuý, từ đó đúc kết được những hạn chế, khó khăn và tìm ra ngun nhân của
những hạn chế đó.
Trong q trình hồn thành luận văn các phương pháp được sử dụng
đan xen trong một tổng thể tạo ra cái nhìn đa chiều để tạo ra kết quả nghiên
cứu, rút ra những kết luận và những ý kiến, kiến nghị hồn thiện pháp luật hình
sự có tính khả thi.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
trong quá trình định tội danh khi điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự về
ma tuý trên địa bàn huyện Hoa Lư nói riêng.
- Luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm khắc
phục tình trạng án oan sai, nâng cao chất lượng điều tra, truy tố và xét xử các
vụ án hình sự về ma tuý của các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Hoa Lư, góp
phần tích cực vào cơng cuộc cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn tốt nghiệp đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện lý
luận, cũng như thực tiễn về các quy định trong khi định tội danh đối với các tội
phạm liên quan đến ma túy. Đồng thời đi sâu vào nghiên cứu vấn đề chung về
định tội danh, phân tích, đánh giá cụ thể các căn cứ pháp lý làm cơ sở trong

11


việc định tội danh đối với các tôi phạm liên quan đến ma túy, từ kết quả công
tác giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn huyện
Hoa Lư trong những năm gần đây để đánh giá tồn tại, hạn. Từ đó tìm ra nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế này để có phương hướng khắc phục, nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Ngồi ra, cịn có ý nghĩa
làm tài liệu tham khảo, có thể vận dụng trong học tập và sử dụng trong thực
tiễn công tác, nhất là trong mặt trận đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma
túy.
8. Cấu trúc của luận văn
Gồm phần mở đầu, lời cảm ơn, lời cam đoan, danh mục chữ viết tắt và
danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lí luận và pháp luận về định tội danh đối với
các tội phạm về ma túy.
Chương 2. Thực tiễn định tội danh đối với các tội phạm về ma túy trên
địa bàn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng việc định tội danh đối
với các tội phạm về ma túy.

12


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh đối với
các tội về ma túy
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh

1.1.1.1. Khái niệm về định tội danh:
Định tội danh có thể được xem là hoạt động nhận thức, áp dụng pháp
luật hình sự trên cơ sở xác định một cách chính xác, khách quan, tồn diện các
tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được quy định trong pháp luật hình sự và
các yếu tố cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp với các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể với các tình tiết của hành vi phạm tội bằng
các phương pháp và thông qua các bước nhất định.
Định tội danh là khâu đầu tiên của việc áp dụng pháp luật hình sự.
Định tội danh chính xác có ý nghĩa khơng chỉ về mặt pháp lý, mà cịn có ý
nghĩa về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và dư luận xã hội. Nó khơng chỉ đánh
giá về mặt chính trị - xã hội và pháp lí đối với những hành vi cụ thể; tránh oan
sai; là căn cứ quan trọng cho việc quyết định hình phạt; tạo tiền đề cho việc xác
định các bước tố tụng tiếp theo và giúp cho việc đánh giá chính xác tình hình
tội phạm để có phương hướng ngăn chặn, phịng ngừa phù hợp có hiệu quả.
Có hai hình thức định tội danh:
- Định tội danh chính thức do người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng có liên quan thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện
việc buộc tội, bào chữa hay xét xử vụ án và làm phát sinh hậu quả pháp lí;
- Định tội danh khơng chính thức do các nhà nghiên cứu thực hiện
nhằm thể hiện quan điểm khoa học, nhận thức của người định tội và khơng làm
phát sinh hậu quả pháp lí.
Khi định tội danh đúng có ý nghĩa trong việc khẳng định hành vi vi
phạm pháp luật đã diễn ra có cấu thành tội phạm hay không; xác định tội danh
và quyết định hình phạt tương xứng cho hành vi phạm tội đó.
13


Chỉ có Bộ luật hình sự mới được phép quy định tội phạm và hình phạt.
Vì vậy, Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lí duy nhất trong việc định tội danh, quá
trình định tội danh, người định tội căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể quy

định về tội phạm để xác định hành vi trái pháp luật được thực hiện có cấu
thành tội phạm hay khơng, nếu cấu thành thì phạm vào tội gì được quy định
trong bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, trong khoa học hình sự Việt Nam có nhiều quan điểm về
định tội danh, như một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Định tội danh là việc xác định và ghi
nhận về mặt pháp lý, sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi
phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã
được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự [28] ;
Quan điểm thứ hai: Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý, sự
phù hợp của các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể được thực
hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể, tương ứng quy định trong BLHS
[28] ;

Quan điểm thứ ba: Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự, nhằm đối
chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu
hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả trong Bộ luật hình sự, để giải
quyết vụ án hình sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật [28];
Quan điểm thứ tư: Định tội danh là q trình nhận thức lý luận có tính
logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như
pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài
liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định nhằm
đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về
mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm
hình sự một cách cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật [28];
14



Quan điểm thứ năm: Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ
quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một số
cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một
người có phạm tội khơng, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của
BLHS, hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy
hiểm đã được thực hiện [28] .
Từ những phân tích nêu trên em xin đưa ra quan điểm của mình về:
“Định tội danh nói chung hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và
pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Tòa án) và một số cơ quan khác được giao một số nhiệm vụ
trong việc định tội danh theo quy định của pháp luật trên cơ sở các tài liệu,
chứng cứ thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự
thật khách quan giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm
cụ thể được quy định trong BLHS, từ đó xác định một người có phạm tội hay
khơng, và phạm tội theo điều luật nào của BLHS”.
1.1.1.2. Đặc điểm của việc định tội danh
Thứ nhất, định tội danh được thực hiện bởi cơ quan tiến hành tố tụng
(Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án) và một số cơ quan khác được giao
một số hoạt động tố tụng như lực lượng Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng...
Thứ hai, việc định tội danh phải dựa trên cơ sở luật hình thức và luật
nội dung của hình sự. Người định tội danh phải cân nhắc, xem xét các quy định
của pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể
đã diễn ra trong thực tế khách quan.
Thứ ba, định tội danh là hoạt động đối chiếu tính phù hợp giữa các dấu
hiệu pháp lí với dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm đã được miêu tả trong
BLHS của người tiến hành định tội danh.
Thứ tư, trên cơ sở đối chiếu sự phù hợp giữa dấu hiệu pháp lý và dấu
hiệu thực tiễn của cấu thành tội phạm được mơ tả trong luật hình sự thì các cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền sẽ đưa ra kết luận người đó phạm tội gì

được quy định tại điều luật nào của BLHS bằng một quyết định cụ thể.
15


1.1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh
Thứ nhất, việc định tội danh đúng sẽ là cơ sở cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công bằng và đúng pháp luật.
Thứ hai, định tội danh đúng khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can giúp cho
các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở để áp dụng chính xác các biện pháp
ngăn chặn phù hợp … , định tội danh đúng chính là bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân [28] .
Thứ ba, định tội danh đúng là sự thể hiện ý thức trách nhiệm trong hoạt
động nghề nghiệp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Thứ tư, định tội danh sai không những không thuyết phục được người
phạm tội mà cịn vi phạm đến nhân quyền, tính mạng và sinh mệnh chính trị
của người bị định tội danh sai; ngồi ra còn gây dư luận xấu trong quần chúng
nhân dân, cũng như sự hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh đối
với các tội về ma túy
1.1.2.1. Khái niệm của việc định tội danh đối với các tội về ma túy
Là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án) và một số cơ quan khác được giao một số thẩm quyền tiến hành tố
tụng theo quy định của pháp luật trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được
và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự thật khách quan giữa hành
vi thực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm cụ thể để xác định một
người có phạm tội về ma túy hay khơng, và phạm tội gì được quy định tại điều
luật nào trong Chương XX của BLHS năm 2015 [27] .
1.1.2.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma

túy
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy có những đặc điểm đặc
trưng như dựa vào cấu thành vật chất (định lượng, khối lượng tối thiểu) cho
nên định tội danh đối với tội phạm về ma túy phải được tiến hành trước hay
16


còn gọi giai đoạn tiền tố tụng, như giám định hình sự các chất ma túy, giám
định tiền chất..., trên cơ sở đó mới có thể tiến hành được việc quyết định hình
phạt.
1.1.2.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy
Thứ nhất, việc định tội danh đúng là cơ sở cho việc xác định khung
hình phạt và hình phạt được chính xác tương xứng với hành vi phạm tội.
Thứ hai, việc xác định tội danh đúng đối với tội phạm về ma tuý là sự
thể hiện ý thức trách nhiệm trong quá trình giải quyết án ma tuý của cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, từ đó góp phần vào cơng cuộc đấu
tranh và phịng chống ma túy.
Thứ ba, việc định tội danh sai sẽ dẫn đến hậu quả vơ cùng nghiêm
trọng như quyết định hình phạt sai, khơng tương xứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội về ma tuý; đồng thời việc định tội
danh sai không những không thuyết phục được người phạm tội mà còn vi phạm
đến nhân quyền, tính mạng và sinh mệnh chính trị của người bị định tội danh
sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Ngồi ra, cịn gây dư luận xấu trong
quần chúng nhân dân, cũng như sự hợp tác quốc tế trong cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm về ma túy trong khu vực cũng như trên thế giới.
1.2. Cơ sở và những yếu tố đảm bảo cho việc định tội danh đúng
đối với các tội phạm về ma túy
1.2.1. Những cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh
đối với các tội phạm về ma túy
1.2.1.1. Những cơ sở pháp lý của việc định tội danh đối với các tội

phạm về ma túy
Cơ sở pháp lý trong việc định tội danh đối với các tội phạm liên quan
đến ma túy là những quy phạm pháp luật hình sự được quy định trong Chương
XX của BLHS với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất cho tồn bộ q trình xác
định dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm ma
túy. Các văn bản hướng dẫn khác chỉ là văn bản dưới luật làm nhiệm vụ hướng
dẫn, giải thích nhận thức chung, thống nhất về Chương XX của BLHS.
17


1.2.1.2. Cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với các tội phạm về
ma túy
Dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm nói chung, thì các yếu tố cấu
thành đối với các tội phạm về ma túy được đánh giá như sau:
Khách thể của các tội phạm về ma tuý: Các tội phạm ma tuý đã xâm
phạm tới chính là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước ở tất cả các khâu
của quá trình quản lý các chất ma túy, tiền chất ma túy, các vật dụng phục vụ
sản xuất và sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến xâm phạm trật tự, an tồn xã
hội và xâm phạm tính mạng, sức khoẻ ....
Khách quan của các tội phạm về ma tuý: Hành vi khách quan của các
tội phạm về ma túy cũng có điểm giống và khác nhau về hình thức thể hiện cụ
thể như về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội. Song giống nhau ở chỗ đều
là những hành vi vi phạm các quy định về chế độ độc quyền quản lý các chất
ma túy, tiền chất, các vật dụng, công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động về
ma túy của Nhà nước. đồng thời cũng có những hành vi của những người có
trách nhiệm được Nhà nước giao nhiệm vụ nhưng lại không thực hiện, thực
hiện không đầy đủ hoặc làm những việc ngoài phạm vi cho phép, đây là những
người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý, sử dụng chất ma túy.
Căn cứ vào các hành vi thực hiện của các tội phạm về ma túy thì
Khách quan của tội phạm thể hiện ở sáu nhóm hành vi sau:

- Các hành vi gieo, trồng, thu hoạch cây thuốc phiện hoặc các loại cây
khác có chứa chất ma tuý trái pháp luật;
- Các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma tuý; chiếm đoạt chất ma tuý;
- Các hành vi tổ chức sử dụng, chứa chấp việc sử dụng, cưỡng bức, lôi
kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý;
- Các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua, bán hoặc chiếm đoạt tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý;
- Các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các phương tiện,
dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý;
18


- Các hành vi vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây
nghiện hoặc các chất ma tuý khác.
Chủ thể của các tội phạm về ma tuý: chủ thể của các tội phạm này là
những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của
Bộ luật hình sự và đã thực hiện hành vi phạm tội. Đối với điều 259 thì chủ thể
của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, phải là người có trách nhiệm trong việc
nghiên cứu, giám định, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, mua bán, vận
chuyển, bảo quản, tàng trữ, phân phối, cấp phát, sử dụng, xử lý, trao đổi thuốc
gây nghiện và các chất ma túy khác, như được giao nhiệm vụ trực tiếp hoặc do
chức vụ quản lí trong các lĩnh vực đó.
Chủ quan của các tội phạm về ma tuý: tội phạm được thực hiện theo lỗi
“cố ý trực tiếp”, một số trường hợp theo lỗi “vô ý” (Điều 259).
1.2.2. Những yếu tố đảm bảo cho việc định tội danh đối với các tội
phạm về ma túy
1.2.2.1. Năng lực chuyên môn của người định tội danh
Để có năng lực chun mơn vững vàng, thì ngồi kiến thức cơ bản đã
được đào trong q trình học tập, mà cịn phải tự mình nghiên cứu học tập và

phải thường xuyên trau dồi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, đồng
thời phải thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới hướng dẫn về giải
quyết các loại án về ma túy, chịu khó học hỏi kinh nghiệm của đồng chí, đồng
nghiệp và các thế hệ đi trước.
1.2.2.2. Lương tâm trong hoạt động nghề nghiệp của người định tội
danh
Đạo đức, lương tâm nghề nghiệp của người định tội danh thể hiện ở
chỗ: “trước tiên phải là người có ý thức tuân thủ pháp luật luôn gương mẫu
trong việc chấp hành pháp luật, là người có trách nhiệm và lương tâm trong
hoạt động nghề nghiệp; là người chiến sỹ kiên cường, là người cán bộ dũng
cảm trên mặt trận phòng chống tội phạm, bảo vệ cơng bằng, bình n cho xã
hội và là người có thái độ làm việc khách quan, vô tư trong công việc nhằm
bảo vệ công lý”.
19


1.2.2.3. Hệ thống pháp luật hình sự hồn chỉnh
Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta quy định về tội phạm ma túy,
chính là BLHS 1985 được sửa đổi, bổ sung năm 1997 đã quy định 14 điều
tương ứng với 14 tội danh về ma túy. Sau khi BLHS 1985 được sửa đổi, bổ
sung, TANDTC-VKSNDTC-BNV đã kịp thời ban hành Thông tư liên tịch số
01 ngày 02/01/1998 của và Thông tư liên tịch số 02 ngày 05/08/1998 hướng
dẫn áp dụng Chương VII A qui định các tội phạm về ma túy. Việc ban hành
các Thông tư hướng dẫn này bước đầu đã đáp ứng được phần nào trong công
tác giải quyết đối với các tội phạm về ma túy. Cho đến nay những văn bản trên
có nhiều nội dung vẫn còn giá trị tham. Đứng trước những thay đổi về tình
hình tội phạm, cũng như các chính sách hình sự, thì ngày 21/12/1999 Quốc hội
đã thơng qua BLHS mới, BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành ngày
01/07/2000, đây là BLHS thay thế BLHS 1985. Theo BLHS năm 1999 các tội
phạm về ma túy có 13 tội danh khác nhau, nhưng chỉ có 10 điều, đó là nhập 4

tội phạm qui định các Điều 185c,185đ và 185e thành một tội danh qui định tại
Điều 194 với đầy đủ các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt
chất trái phép chất ma túy; theo đó hình phạt bổ sung ngay trong từng điều này
mà không qui định thành một điều luật riêng; điều chỉnh lại mức hình phạt
trong từng khung hình phạt cho phù hợp với thực tiễn xét xử. Đến Bộ luật hình
sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009, cũng có những thay đổi nhất định, bỏ tội
sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 199) và bỏ hình phạt tử hình đối với tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197) cho nên có 9 tội danh với 19
hành vi.
Tuy nhiên, đến Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
nhóm tội phạm về ma túy quy định tại Chương XX của gồm 13 điều luật, so
với BLHS 1999 tăng thêm (được quy định từ Điều 247 - Điều 259).
Điểm mới đáng chú ý đầu tiên của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) là đã tách Điều 194 BLHS 1999 quy định về Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thành 4 tội riêng biệt đó là;
- Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249;
20


- Tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 250;
- Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 251;
- Tội “Chiếm đoạt chất ma túy” được quy định tại Điều 252.
Thực tế, quá trình điều tra, xét xử cho thấy việc gộp chung các tội danh
trong cùng một điều luật gặp khơng ít khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố
tụng, trong việc xác định tội danh và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
Về định lượng các chất ma túy BLHS 2015 đã quy định cụ thể, rõ ràng
mức tối thiểu đến mức tối đa định lượng các chất ma túy để truy cứu trách
nhiệm hình sự trong từng điều luật, đó là các Điều 249, Điều 250, Điều 252;
quy định cụ thể việc định lượng các tiền chất, các phương tiện, dụng cụ dùng

vào việc sản xuất trái phép chất ma túy tại các Điều 253 và Điều 254.
Đồng thời BLHS 2015 đã quy định thêm một số chất ma túy nằm trong
danh mục các chất ma túy đã được Chính phủ quy định vào các Điều luật cụ
thể như chất ma túy Methamphetamine, Amphetamine, MDMA… và bổ sung
việc xử lý vi phạm (hình sự) đối với việc bn bán, vận chuyển các chất ma túy
mới như chất XLR-11 (được tẩm ướp trong cỏ Mỹ) và lá cây Khat (có chứa
chất ma túy Cathinone) vào cấu thành các tội phạm về ma túy (các Điều 248,
249, 250, 251, 252).
Ngoài ra, BLHS 2015 đã có sự thay đổi về đơn vị tính từ “trọng lượng”
thành “khối lượng” trong các điều luật để đảm bảo tính chính xác của đơn vị
tính. Các vụ án ma túy từ trước đến nay khi thu giữ được vật chứng đều được
xác định bằng gam, kilogam… đây chính là đơn vị tính khối lượng chứ khơng
phải trọng lượng.
Điểm nhấn trong BLHS 2015 về hình phạt đối với nhóm tội phạm về
ma túy. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giảm hình
phạt tử hình, BLHS 2015 đã bỏ hình phạt tử hình về tội “Tàng trữ trái phép
chất ma túy” quy định tại Điều 249 và tội “Chiếm đoạt chất ma túy” Điều 252,
khung hình phạt nhẹ hơn so với Bộ luật hình sự 1999, theo đó, khung hình phạt
cao nhất là tù chung thân.
21


Hiện nay, chúng ta vẫn dựa vào Thông tư 17/2007/TTLT ngày
24/12/2007 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các
tội phạm về ma tuý” của BLHS năm 1999, được sửa đổi năm 2009 trong quá trình
giải quyết án ma tuý. Trước những bất cập giữa văn bản hướng dẫn và BLHS, nên
phải thay Thông tư này bằng một Thông tư khác sao cho phù hợp với luật hiện
hành.
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự về tội danh đối với các tội về ma
tuý

Theo BLHS hiện hành, trong phần quy định về các tội phạm, thì phần
tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XX gồm 13 điều từ điều 247
đến điều 259, các tội phạm cụ thể của chương này như sau:
1.3.1. Tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại
cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247)
Khách thể của tội phạm: là các hành vi xâm phạm đến chế độ độc
quyền về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Cụ thể đối với tội này là xâm
phạm đến việc trồng cây thuốc phiện, cây cần sa, cây cơca và các loại cây khác
có chứa chất ma tuý.
Khách quan của tội phạm: thể hiện ở hành vi trực tiếp gieo trồng,
chăm bón hoặc thu hoạch các bộ phận của cây (lá, hoa, quả, thân cây) có chứa
chất ma túy.... để tạo ra sản phẩm cuối cùng là cây thuốc phiện, cây côca, cây
cần sa hoặc các cây khác có chất ma túy. Do vậy, hành vi khách quan của tội
này có thể thực hiện ở bất cứ nơi nào, nhưng cơ bản đối tượng thực hiện hành
vi nói trên lại do một số ít đồng bào dân tộc thiểu số sống ở một số vùng cao
của nước ta thực hiện, vì đây là thói quen và là nguồn thu nhập chính của một
bộ phận người dân vùng cao. Chính vì điều đó mà Đảng và Nhà nước ta có
những chính sách riêng đối với loại tội này, đó là lấy giáo dục làm chính và chỉ
truy cứu trách nhiệm hình sự khi người vi phạm đáp ứng đầy đủ ba điều kiện
“đã được giáo dục nhiều lần, đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống và đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này mà vẫn tiếp tục vi phạm”:
22


Điều kiện đầu tiên là “Đã được giáo dục nhiều lần” là việc người đó ít
nhất từ hai lần trở lên đã được cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm ở địa
phương vận động, thuyết phục, nhắc nhở phổ biến đường lối chính sách, quy
định của pháp luật và cả biện pháp xử phạt hành chính; các biện pháp giáo dục
này phải được lập bằng văn bản là trồng cây có chứa chất ma túy hoặc cây có
chứa chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng họ vẫn vi phạm thì sẽ bị truy cứu

trách nhiệm hình sự.
Điều kiện tiếp theo là “Đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống”.
Có nghĩa là họ đã được cơ quan chức năng, cũng như chính quyền địa phương
hỗ trợ về tiền vốn, kỹ thuật để sản xuất, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi khác
thay thế cây thuốc phiện để có thu nhập ổn định cuộc sống.
Điều kiện cuối cùng là “Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà
vẫn còn vi phạm”. Điều kiện này được hiểu là trước đó người này đã có hành vi
trồng cây có chứa chất ma túy và đã bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền theo
quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời
hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật, mà lại tiếp tục có hành vi trồng cây có chứa chất ma túy và bị phát hiện.
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi
trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi phạm tội.
Chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện là lỗi cố ý trực tiếp.
Bởi vì chính bản thân họ sau mỗi lần giáo dục, nhắc nhở và xử lý hành chính
phải thừa biết hành vi tiếp tục trồng cây có chứa chất ma tuý là nguy hiểm cho
xã hội nhưng họ vẫn cố tình thực hiện việc đó. Mục đích, động cơ phạm tội này
như thế nào không quan trọng trong việc định tội danh.
Một số điểm lưu ý: Người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm
hình sự bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm về tội này nếu
biết người khác gieo trồng, chăm bón hoặc thu hoạch cây có chứa chất ma túy,
đã được áp dụng đầy đủ cả ba biện pháp theo quy định của pháp luật mà vẫn
giúp họ thực hiện một trong các hành vi đó.
23


Người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự trồng cây
có chứa chất ma túy, đã được áp dụng đầy đủ cả ba biện pháp nhưng không
chịu phá bỏ mà bán lại cho người khác thì người đó vẫn bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về này.

Ngược lại người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo
quy định của pháp luật mua lại cây có chứa chất ma túy để tiếp tục chăm sóc
hoặc các bộ phận của cây có chứa chất ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội này nếu thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm.
Tóm lại, để xác định tội danh này đúng thì phải căn cứ vào hành vi
“gieo trồng, chăm bón hoặc thu hoạch các bộ phận của cây có chứa chất ma
túy” và đáp ứng đủ ba điều kiện đã nêu trên, còn nếu thiếu một trong các điều
kiện trên thì họ khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Đó là chính
sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước.
1.3.2. Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248)
Khách thể của tội phạm: Tội sản xuất trái phép chất ma tuý cũng như
khách thể của các tội phạm về ma túy nói chung là xâm phạm sự độc quyền của
Nhà nước về quản lý các chất ma tuý. Cụ thể của tội này là hoạt động sản xuất
chất ma tuý, vì theo quy định đây là ngành nghề có điều kiện đặc biệt nên chỉ
có một số cơ quan Nhà nước mới được phép điều chế, sản xuất ma tuý để sử
dụng trong lĩnh vực y tế, công nghiệp và nghiên cứu khoa học. Đây là chủ thể
đặc biệt để qua đó Nhà nước có ự thống nhất về quản lý các và ngăn chặn tội
phạm về ma t. Ngồi ra, nó cịn xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội.
Khách quan của tội phạm: là hành vi chế biến, điều chế, chiết suất ra
chất ma túy hoặc tiền chất ma túy dưới mọi hình thức để làm ra chất ma túy
này sang chất ma túy khác trái pháp luật hoặc không đúng với nội dung cho
phép của cơ quan có thẩm quyền.
Trong thực tế, từ thảo dược có sẵn trong tự nhiên, chất hóa học hoặc từ
hỗn hợp các loại ma túy thông qua các hình thức như chiết xuất, điều chế, pha
chế... người ta có thể tạo ra được chất ma túy dưới lỏng, thể rắn hoặc thành các
loại viên nén, thành bánh hoặc thuốc tiêm có chứa chất ma túy. Do đó, chỉ bị
24


truy cứu trách nhiệm hình sự khi sản xuất trái với quy định của Nhà nước hoặc

sản xuất không đúng với giấy phép đã được cấp của cơ quan có thẩm quyền.
Để sản xuất, điều chế, chiết suất các chất ma túy phục vụ cho nghiên
cứu, công nghiệp hoặc phục vụ y tế một cách hợp pháp thì Nhà nước ta có các
quy định rất nghiêm ngặt và chỉ giao cho những cơ sở nhất định được phép chế
biến các chất ma tuý.
Chủ thể của tội phạm: là người đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật
và có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ
nhưng làm trái quy định đã được Nhà nước giao và đã thực hiện hành vi phạm
tội.
Chủ quan của tội phạm: Người phạm tội biết rõ hành vi sản xuất chất
ma tuý là hành vi trái phép và nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện với
lỗi cố ý trực tiếp.
Một số điểm lưu ý: Người nào đạt độ tuổi theo quy định và có năng lực
trách nhiệm hình sự nhưng có các hành vi như pha chế thuốc phiện thành dung
dịch để tiêm chích, nghiền hêrơin từ bánh thành bột để hút hít thỏa mãn nhu
cầu của bản thân… thì khơng coi là hành vi sản xuất trái phép chất ma túy, có
thể bị truy cứu về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, nếu đủ yếu tố cấu thành
của tội này. Còn những trường hợp chiết suất các loại khác mà khi thực hiện
vẫn ý thức đó là ma túy trong trường hợp bị phát hiện, bắt giữ và sau khi giám
định xác định loại, hàm lượng, khối lượng chất ma túy, tiền chất mà không
phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì tùy hành vi
phạm tội cụ thể mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội
danh tương ứng quy định đối với tội phạm về ma túy.
Nếu các hành vi sản xuất, sau đó vận chuyển đến một nơi nào đó để cất
giấu, các hành vi đó liên hệ trực tiếp với nhau thành một chuỗi thì chỉ bị truy
cứu về tội sản xuất trái phép chất ma túy; ngược lại các hành vi đó độc lập với
nhau, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh độc lập.

25



×