VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
_______________________
LẠI ANH VÂN
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS ĐẶNG QUANG PHƯƠNG
Hà Nội – 2021
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, luận văn thạc sỹ “Áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là cơng trình nghiên cứu khoa
học độc lập của riêng tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của TS. Đặng Quang
Phương. Đề tài khơng trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Các số
liệu được sử dụng phân tích trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng. Những kết quả nêu trong luận văn chưa được sử dụng trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
Tác giả
Lại Anh Vân
MỤC LỤC
Nội dung
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH
Trang
1
8
PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội
8
1.2. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với người
14
dưới 18 tuổi phạm tội
1.3. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
23
phạm tội
Tiểu kết Chương 1
29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
31
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt
31
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
45
tại tỉnh Hải Dương
Tiểu kết Chương 2
59
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
61
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18
61
tuổi phạm tội
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người
63
dưới 18 tuổi phạm tội
Tiểu kết Chương 3
70
KẾT LUẬN
72
DANH MỤC THAM KHẢO
73
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ADPL
ADPLHS
BLHS
BLTTHS
PLHS
TAND
TNHS
TANDTC
Áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật hình sự
Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Pháp luật hình sự
Tịa án nhân dân
Trách nhiệm hình sự
Tòa án nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê số vụ án hình sự có bị cáo là dưới 18 tuổi thực
hiện đã thụ lý trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2016 đến năm 2020..
Bảng 2.2. Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội đã bị xét xử theo
nhóm tuổi trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2016 đến năm 2020
Bảng 2.3. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2016
Bảng 2.4. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2017
Bảng 2.5. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2018
Bảng 2.6. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2019
Bảng 2.7. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2020
Bảng 2.1. Thống kê số vụ án hình sự có bị cáo là dưới 18 tuổi thực
hiện đã thụ lý trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2016 đến năm 2020
Năm
Tội phạm nói chung Tội phạm do người
Tỷ lệ
dưới 18 tuổi thực
%
hiện
Số vụ
Số bị
Số vụ
cáo
Số bị
Số vụ
cáo
Số bị
cáo
2016
1030
1534
17
22
1.65
1,43
2017
1047
1574
45
67
5.29
4.25
2018
1146
1807
41
58
3.57
3.20
2019
1088
1742
33
41
3.03
2.35
2020
956
1700
24
31
2.51
1.82
Tổng
5267
8357
160
219
3.04
2.62
Nguồn: Phòng thống kê và công nghệ thông tin – TAND tỉnh Hải Dương
Bảng 2.2. Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội đã bị xét xử theo
nhóm tuổi trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2016 đến năm 2020
Năm
Tổng số
Độ tuổi từ đủ 14 đến
Độ tuổi từ đủ 16 đến
người dưới
dưới 16 tuổi
dươi 18 tuổi
18 tuổi
Tổng số
Tỷ lệ%
Tổng số
Tỷ lệ%
phạm tội
2016
22
4
18
18
82
2017
67
4
5,9
63
94.1
2018
58
7
12
51
88
2019
41
1
2,4
40
97.6
2020
31
0
0
31
100
Tổng
219
16
7.3
203
92,7
Nguồn: Phịng thống kê và cơng nghệ thơng tin – TAND tỉnh Hải Dương
Bảng 2.3. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2016
Số
Số bị
vụ
cáo là
án
người
dưới
Tội danh
18
tuổi
Tội cố ý gây thương
Hình phạt áp dụng
Cải
Hình
Hình
phạt tù phạt tù
Cảnh Phạt
không được không
cáo tiền
được
giam hưởng
hưởng
giữ
án treo
án treo
01
01
01
tạo
02
03
Tội hiếp dâm trẻ em
01
03
Tội cướp tài sản
01
02
01
Tội công nhiên chiếm
01
01
01
Tội trộm cắp tài sản
07
08
Tội
01
01
01
01
Đánh bạc
03
03
02
01
Tổng cộng
17
22
02
01
tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của
người khác
03
01
đoạt tài sản
tàng
trữ,
vận
04
02
02
01
chuyển, mua bán hoặc
chiếm đoạt ma túy
Tội vi phạm quy định
01
về tham gia giao thông
đường bộ
05
06
08
Nguồn: Phịng thống kê và cơng nghệ thơng tin – TAND tỉnh Hải Dương
Bảng 2.4. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2017
Số
Số bị
vụ
cáo là
án
người
Hình phạt áp dụng
dưới
Tội danh
18
tuổi
Tội cố ý gây thương tích 03
Cảnh Phạt
cáo
tiền
Cải
Hình
tạo
phạt tù
khơng
được
giam
hưởng
giữ
án treo
Hình
phạt tù
khơng
được
hưởng
án treo
03
02
01
02
03
01
02
hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Tội cướp tài sản
02
05
Tội cưỡng đoạt tài sản
04
04
Tội cướp giật tài sản
02
02
Tội trộm cắp tài sản
24
35
Tội lừa đảo chiếm đoạt 01
03
03
04
02
01
02
04
02
11
08
10
tài sản
Tội hủy hoại hoặc cố ý 01
02
làm hư hỏng tài sản
Tội
tàng
trữ,
vận 02
03
03
chuyển, mua bán hoặc
chiếm đoạt ma túy
Tội gây rối trật tự công 02
03
02
01
02
01
cộng
Đánh bạc
04
Tổng cộng
45
05
67
01
04
03
01
18
19
23
Nguồn: Phịng thống kê và cơng nghệ thơng tin – TAND tỉnh Hải Dương
Bảng 2.5. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2018
Số vụ
Số bị
án
cáo là
Hình phạt áp dụng
người
Cải tạo
dưới 18 Cảnh Phạt
Tội danh
tuổi
cáo
tiền
khơng
giam
giữ
Tội
cố
ý
gây
Hình
phạt tù
được
hưởng
án treo
Hình
phạt tù
khơng
được
hưởng
án treo
06
08
02
02
04
Tội cướp tài sản
05
08
01
02
05
Tội cướp giật tài
05
07
03
04
05
07
03
04
11
16
04
08
04
06
09
01
05
03
Đánh bạc
03
03
02
01
Tổng cộng
41
58
25
25
thương tích hoặc
gây tổn hại cho
sức
khỏe
của
người khác
sản
Tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt
ma túy
Tội Trộm cắp tài
sản
Tội
Lừa
đảo
chiếm đoạt tài sản
0
0
8
Nguồn: Phịng thống kê và cơng nghệ thơng tin – TAND tỉnh Hải Dương
Bảng 2.6. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2019
Số vụ
Số bị
án
cáo là
Hình phạt áp dụng
người
dưới
Tội danh
18 tuổi
Cải tạo
Cảnh Phạt
cáo
tiền
khơng
giam
giữ
Tội cố ý gây thương
02
Hình
phạt tù
được
hưởng
án treo
Hình
phạt tù
khơng
được
hưởng
án treo
04
04
02
Tội cướp tài sản
04
06
02
04
Tội cướp giật tài sản
02
02
01
01
Tội trộm cắp tài sản
14
20
10
08
Tội hủy hoại hoặc cố
01
01
01
04
04
04
02
02
02
02
33
41
tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của
người khác
02
ý làm hư hỏng tài sản
Tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt ma
túy
Tội vi phạm quy
01
01
định về tham gia
giao thông đường
bộ
Đánh bạc
Tổng cộng
0
0
01
01
05
17
19
Nguồn: Phịng thống kê và cơng nghệ thơng tin – TAND tỉnh Hải Dương
Bảng 2.7. Thống kê số vụ án đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt
áp dụng đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 2020
Số vụ
Số bị
án
cáo là
Hình phạt áp dụng
người
dưới
Tội danh
18 tuổi
Cải tạo
Cảnh Phạt
cáo
tiền
khơng
giam
giữ
Tội cố ý gây thương
Hình
phạt tù
được
hưởng
án treo
02
Hình
phạt tù
khơng
được
hưởng
án treo
03
03
01
Tội hiếp dâm trẻ em
01
01
01
Tội cướp tài sản
01
01
01
Tội cướp giật tài sản
01
01
Tội trộm cắp tài sản
09
13
Tội tàng trữ, vận
03
03
04
04
02
05
01
24
31
03
tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe
của người khác
01
02
03
04
04
03
chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt ma
túy
Tội vi phạm quy
01
03
định về tham gia
giao thông đường
bộ
Tội gây rối trật tự
03
01
công cộng
Tổng cộng
0
08
09
11
Nguồn: Phịng thống kê và cơng nghệ thơng tin – TAND tỉnh Hải Dương
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cùng với sự phát triển của xã hội thì tình hình tội phạm ngày càng gia
tăng và có diễn biến phức tạp. Các vụ án hình sự tăng về số lượng, tính chất,
quy mơ. Đặc biệt trong số đó, có nhiều vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện
đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của xã
hội. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã tích cực vào cuộc đấu tranh ngăn chặn,
hạn chế tội phạm nói chung, tội phạm do người dưới 18 tuổi nói riêng nhằm
đảm bảo trật tự cho cộng đồng và sự phát triển bền vững của xã hội. Tòa án
đã đưa nhiều vụ án đối với người dưới 18 tuổi ra xét xử để giáo dục riêng,
phòng ngừa chung và tuyên truyền rộng rãi pháp luật trong nhân dân. Tuy
nhiên, tội phạm do người dưới 18 tuổi vẫn chưa có chiều hướng thuyên giảm.
Trong khi đó, Bộ luật hình sự là một trong những cơng cụ hữu hiệu để phịng
chống tội phạm vẫn cịn có những bất cập, hạn chế về một số quy định đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trong đó có những quy định về áp dụng hình phạt
dẫn đến thực tế áp dụng cịn vướng mắc, khơng thống nhất như các quy định
về: Căn cứ áp dụng hình phạt, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm nhiều tội, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt… Bên cạnh đó, các chủ thể áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chưa mang tính riêng biệt, chưa được
trang bị đầy đủ những kiến thức về tâm lý, khoa học giáo dục … dẫn tới làm
giảm hiệu quả của cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung, tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng.
Tỉnh Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng sơng Hồng, có tốc độ tăng
trưởng kinh tế lớn, biến động dân cư, và xã hội khá phức tạp. Một mặt sự phát
triển kinh tế mang lại đời sống ngày càng tốt hơn cho người dân, nhưng ở một
khía cạnh tiêu cực thì nó cũng kéo theo những hệ quả nhất định về tình hình
1
đảm bảo trật tự, an ninh trên địa bàn. Đặc biệt sự phát triển của mạng internet,
mạng xã hội dẫn đến tình trạng trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi phạm tội ngày
một gia tăng. Trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong những năm vừa qua số vụ án
hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày một nhiều, với mức độ nghiêm
trọng đáng kể.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, các Tịa án nhân dân hai cấp tỉnh
Hải Dương đã đưa ra xét xử nhiều vụ án hình sự, trong đó có các vụ án do
người dưới 18 tuổi phạm tội bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, được nhân dân đồng tỉnh, ủng hộ. Thơng qua hoạt động xét xử, Tịa án
nhân dân hai cấp tỉnh Hải Dương đã góp phần vào cơng cuộc đấu tranh,
phịng chống tội phạm, giữa vững ổn định chính trị, trật tự trị an trên địa bàn,
tạo ra môi trường lành mạnh cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa… của tỉnh
nhà. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của Tòa án hai cấp tỉnh Hải Dương đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, nhất là việc áp dụng hình phạt đối với họ vẫn
cịn những hạn chế, bất cập như việc lựa chọn, quyết định loại hình phạt và
mức hình phạt cụ thể vẫn cịn mang tính tùy tiện, chưa có sự thống nhất giữa
các Tịa án trên địa bàn; áp dụng hình phạt khơng tương xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khơng bảo đảm chính
sách hình sự cũng như nguyên tắc xử lý đối với người ngưới 18 tuổi phạm
tội… có nguyên nhân từ những quy định chưa đầy đủ, rõ ràng, chi tiết của
pháp luật, việc hướng dẫn, giải thích pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền
cịn chưa đầy đủ, kịp thời; sự ảnh hưởng từ những yếu tố chủ quan như nhận
thức, trình độ chun mơn, kinh nghiệm, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp…
của những người áp dụng pháp luật đã làm giảm hiệu quả, khơng phát huy
được mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong q trình đấu tranh phịng chống tội phạm. Do vậy, việc
nghiên cứu các quy định của pháp luật về áp dụng hình phạt đối với người
2
dưới 18 tuổi phạm tội cũng như thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải
Dương, từ đó tìm ra được những tồn tại, hạn chế, đưa ra các giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội là một yêu cầu bức thiết, mang tính thời sự cao đồng thời có ý nghĩa
quan trọng về lý luận và thực tiễn.
Từ những sự phân tích trên, Học viên quyết định chọn đề tài “Áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Hải Dương”
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Áp dụng hình phạt trong luật hình sự nói chung và đối với người dưới 18
tuổi phạm tội nói riêng là một vấn đề khó khăn. Trong giới luật học cũng như
thực tiễn hiện xuất hiện khá nhiều công trình nghiên cứu ở 3 khía cạnh, một là
khía cạnh áp dụng hình phạt nói chung, hai là khía cạnh hình phạt nói chung,
ba là áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, có thể được chia
thành các nhóm sau:
* Nhóm thứ nhất: Tài liệu là giáo trình, sách chun khảo, tham khảo
có: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 2014 ( GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên); Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội năm 2017 ( Trường Đại học luật
Hà Nội); Giáo trình Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, năm 2019 ( PGS.TS Trần Văn Độ - TS. Hoàng Mạnh Hùng đồng
chủ biên). Đặng Thanh Nga, Trương Quang Vinh: Người chưa thành niên
phạm tội, đặc điểm tâm lý và chính sách xử lý (sách chuyên khảo), Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2014.
* Nhóm thứ hai: Các bài viết đăng trên các tạp chí: PGS.TS Dương
Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội,
Tạp chí luật học, số 4/2002; Ths. Đặng Thanh Sơn, Pháp luật Việt Nam về tư
3
pháp người chưa thành niên, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, tháng 12/2008; TS
Trịnh Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện
pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tịa
án nhân dân số 7,8/2010; Nguyễn Gia Viễn, Áp dụng hình phạt cải tạo khơng
giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và đề xuất, kiến nghị, Tạp chí
Kiểm sát, số 18/2018, tr.53 - 57; Vũ Hồng Thắng, Bàn về áp dụng hình phạt
tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tạp chí Tịa án nhân dân, số
20/2019, tr.38 - 40; Nguyễn Gia Viễn, Nguyên tắc áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, Tạp chí Kiểm sát, số 20/2018, tr 14 -19.
* Nhóm thứ ba: Các luận văn tiến sĩ, thạc sĩ luật học có liên quan: Luận
án tiến sỹ Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam của Nguyễn Sơn (
năm 2002); Luận án tiến sỹ Áp dụng hình phạt trong hoạt động xét xử của
Tịa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay của Lê Xuân Thân ( năm 2014); Luận
văn Thạc sỹ Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều
tội của Trịnh Thị Yến ( năm 2014); Luận văn Thạc sỹ Áp dụng hình phạt theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam của Đinh
Tấn Long ( năm 2017).
Mặc dù, các cơng trình trên đây đã nghiên cứu ở nhiều cấp độ và bình
diện khác nhau nhưng chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu và
tồn diện về áp dụng hình phạt đối với ngườ i phạm tôị dưới 18 tuổi, đặc
biệt là ở địa bàn tỉnh Hải Dương với cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Do
vậy trong luận văn này, tác giả nghiên cứu về áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Luật hình sự Việt Nam và
thực tiễn áp dụng hình phạt này để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn cũng như đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Hải Dương từ đó
luận văn đưa ra các kiến nghị, đề xuất bảo đảm quả áp dụng đúng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn triển khai các nhiệm
vụ để nghiên cứu sau đây:
Một là, phân tích khoa học và pháp lý về vấn đề mang tính lý luận dưới
góc độ luật hình sự về áp dụng hình phạt nói chung và áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội như: khái niệm áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi, đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi, nội dung của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi và ý nghĩa
của hoạt động này…
Hai là, nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng
hình phạt từ đó đánh giá được những ưu điểm và hạn chế của những quy định này.
Ba là, nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương, từ đó phân tích những hạn
chế, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của vấn đề này.
Bốn là, đề xuất các giải pháp để bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn lý luận, các quy định
của pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trên
địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian vừa qua.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về chuyên ngành: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận
và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Phạm vi về không gian và chủ thể áp dụng hình phạt: Thực tiễn áp
dụng hình phạt của Tịa án hai cấp trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Về thời gian: Luận văn nghiên thực tiễn áp dụng trong 05 năm, từ năm
2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu mang tính khoa học đó là
phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật cũng như quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về áp dụng hình phạt nói chung, áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội riêng.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Luận văn là: phương
pháp phân tích, phương pháp thống kê; phương pháp so sánh…Trong quá
trình nghiên cứu, chúng tôi cũng nghiên cứu một số bản án đã tuyên đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, nghiên cứu số liệu thống kê về áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và tham khảo ý kiến của các chuyên
gia làm công tác thực tiễn để đưa ra những kiến nghị khoa học nhằm bảo đảm
áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn được nghiên cứu từ tổng thể các vấn đề lý luận, các quy định
của pháp luật hình sự nước ta từ năm 1945 đến năm 2020 về áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như từ việc nghiên cứu thực
tiễn, luận văn đã nêu lên những bất cập, vướng mắc trong các quy định của
pháp luật hình sự cũng như trong quá trình áp dụng hình phạt đối vớ i ngườ i
6
phạm tội dưới 18 tuổi. Trên cơ sở này, luận văn nêu một số giải pháp đề xuất
nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, những khuyết điểm trong quá trình
xây dựng quy định của BLHS về áp dụng hình phạt và phòng ngừa tội phạm
dưới 18 tuổi.
- Về lý luận: luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý góp
phần làm sáng tỏ một một số vấn đề lý luận, pháp luật về áp dụng hình phạt
đối với ngườ i phạm tội dưới 18 tuổi và thực tiễn áp dụng hình phạt taị Tồ
án hai cấp tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở đó luận văn đề xuất giải pháp có
tính khả thi bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người phạm tội trên cả
khía cạnh lập pháp và việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
- Về thực tiễn: Kết quả đề tài nghiên cứu của tác giả có thể làm tài
liệu tham khảo để các Thẩm phán của Tòa án hai cấp tỉnh Hải Dương vận
dụng trong thực tiễn xét xử khi áp dung hình phạt áp dụng đối với người
phạm tội dưới 18 t̉i, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm tội dưới 18 tuổi
hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo để phục vụ công tác giảng dạy trong các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Với cấu trúc mở đầu, phần kết luận, phần tài liệu tham khảo được tạo
thành các mục rõ ràng thì phần chính của luận văn được bố cục thành 03
chương như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Chương II: Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương.
Chương III. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Xét trên phương diện xã hội, người dưới 18 tuổi (trước đây BLHS 1999
dùng thuật ngữ “người chưa thành niên”) là những người chưa hoàn toàn phát
triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, cũng như chưa phát triển toàn diện về
nhân cách. Xét trên phương diện pháp luật, đối tượng này chưa có đầy đủ
quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Trong pháp luật của mỗi quốc gia
đều quy định một độ tuổi cụ thể để một người được coi là đã có đủ năng lực
để tự mình tham gia vào các quan hệ xã hội cũng như quan hệ pháp luật.
Tại mỗi quốc gia, người phạm tội dưới 18 tuổi có những tên gọi khác
nhau: người chưa thành niên, trẻ vị thành niên và trẻ em. Pháp luật ở các quốc
gia cũng đều có quy định cụ thể về người phạm tội dưới 18 tuổi khác nhau, đa
số đều quy định trong hệ thống pháp luật về độ tuổi. Theo công ước quốc tế
về quyền trẻ em năm 1989 thì: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi..” [ 9]
Như vậy, có thể được hiểu như sau: độ tuổi của trẻ em được pháp luật
Quốc tế quy định là người dưới 18 tuổi.
Độ tuổi về người dưới 18 tuổi định trong các văn bản luật ở cấp độ cao
nhất của Việt Nam trong đó có thể kế đến như: Hiến pháp 2013, Bộ luật Hình
sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số
văn bản quy phạm pháp luật khác.
Cũng cần phải phân biệt khái niệm người dưới 18 tuổi với khái niệm trẻ
em. Theo Luật trẻ em được Quốc hội ban hành năm 2016: “Trẻ em là người
dưới 16 tuổi”. Như vậy, trẻ em trong pháp luật Việt Nam có phạm vi độ tuổi
8
thấp hơn so với người dưới 18 tuổi - đối tượng có các quy định điều chỉnh
riêng biệt hơn trong các văn bản pháp luật đã nêu ở trên.
Việc lấy độ tuổi 18 tuổi làm giới hạn để xây dựng các quy phạm pháp
luật nói chung và các quy phạm pháp luật hình sự nói riêng mang tính chất
riêng biệt hơn là dựa trên cơ sở thực tiễn về sự phát triển về mặt thể chất và
tinh thần của con người và cơ sở lý luận là chính sách pháp luật (hình sự) của
mỗi quốc gia. Theo đó, người dưới 18 tuổi khi tham gia vào quan hệ pháp luật
hình sự sẽ có những quy định riêng biệt hơn về quyền lợi và nghĩa vụ.
Theo quy định BLHS năm 2015 được Quốc hội sửa đổi, bổ sung năm
2017 thì tuổi chịu trách nhiệm hình sự được chia làm 2 mức, là trường hợp
người từ đủ 16 tuổi trở lên và người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Như vậy 2
mức tuổi chịu TNHS là điểm đặc thù của Việt Nam về vấn đề này. Quy định
này đã chỉ rõ phạm vi chịu TNHS của những người dưới 18 tuổi, theo đó đối với
“Người từ đủ 16 tuổi trở lên thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác”. [ 32, tr.14]. Phạm vi
chịu trách nhiệm hình sự của người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được chỉ rõ gồm
28 loại tội phạm. Về tính chất các tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phải chịu là “tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”
[32, tr.14] và trong 28 tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự nêu trên đều là các tội phạm có lỗi cố ý.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã hạn chế phạm vi chịu trách nhiệm hình sự
trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội của người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ còn
2 tội là tội Giết người (Điều 123) và tội Cướp tài sản (Điều 168) và dù thuộc
trường hợp nào trong Điều 123 và Điều 168 thì đều phải chịu trách nhiệm
hình sự.
* Việc xác định tuổi của người dưới 18 tuổi:
9
Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người dưới 18 tuổi là thời
điểm người đó được sinh ra, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào các
giấy tờ tùy thân có giá trị pháp lý như giấy khai sinh, giấy chứng sinh, căn
cước công dân (chứng minh nhân dân) và các văn bằng chứng chỉ.. Thực tiễn
có nhiều trường hợp bị can, bị cáo khơng cịn hoặc cịn nhưng khơng có đầy
đủ thơng tin, dữ liệu về ngày tháng năm sinh của họ, thì các cơ quan tiến hành
tố tụng sẽ áp dụng nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội
Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng mọi biện
pháp mà khơng thể xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị can,
bị cáo, thì BLTTHS năm 2015 đã quy định tại khoản 2 Điều 417 để xác định
tuổi trong các trường hợp sau: + Nếu xác định được tháng nhưng khơng xác
định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. + Nếu xác
định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày
cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. + Nếu xác định được q
nhưng khơng xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối
cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp xác định được năm
nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó
làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp khơng xác định được năm sinh thì phải
tiến hành giám định để xác định tuổi (tức là giám định ADN)
Về cách tính tuổi của người phạm tội làm căn cứ để truy cứu trách
nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt là thời điểm người đó thực hiện hành vi
phạm tội. Trong trường hợp người đó thực hiện hành vi phạm tội kéo dài
nhưng kế tiếp nhau về mặt thời gian, có hành vi người đó chưa đủ tuổi, có
hành vi thực hiện đã đủ tuổi thì phải lấy hành vi cuối cùng để xem xét trách
nhiệm hình sự.
Để xác định một người dưới 18 tuổi phạm tội phải có đầy đủ các căn cứ
sau:
10
- Người dưới 18 tuổi phải thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS.
- Người đó thực hiện một tội phạm mà Điều 12 BLHS quy định.
Trên cơ sở những yếu tố đã nêu trên đây, tác giả xin nêu ra khái niệm
về người phạm tội dưới 18 tuổi như sau: Người dưới 18 tuổi phạm tội là cá
nhân từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mà họ đã tiến hành thực hiện các hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm.
Các chính sách pháp luật tư pháp hình sự của Việt Nam đối với việc xử
lý trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội:
Chính sách hình sự của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
là những phương hướng cơ bản có tính chất chỉ đạo của Nhà nước trong hoạt
động lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội, đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp luật hình sự, tăng cường việc bảo
vệ các quyền và tự do của người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như các lợi ích
hợp pháp của xã hội và của Nhà nước bằng pháp luật hình sự, đồng thời góp
phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện.
Những nguyên tắc này xuất phát từ việc ghi nhận đầy đủ và thể hiện rõ
nét nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Công ước
về quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác có liên quan; đồng thời thể
hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ, giáo dục trẻ em
nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Nguyên tắc xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội được thể hiện thông qua một số nội dung sau:
Thứ nhất, Theo quy định thì việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
phải tính tốn đến yếu tố sao cho đạt được lợi ích tốt nhất của người dưới 18
tuổi. Nguyên tắc đảm bảo tốt nhất này đòi hỏi, các tổ chức tiến hành tố tụng
11
sẽ phải đáp ứng được lợi ích tốt nhất cho họ khi tiến hành tố tụng, đồng thời
đảm bảo hài hịa với lợi ích khác và sự nghiêm minh của pháp luật.
Thứ hai, người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS trong những
trường hợp cụ thể khi xét thấy việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ là
không cần thiết. Đây là nguyên tắc xác định vấn đề miễn TNHS đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Theo nguyên tắc, người dưới 18 tuổi phạm tội được
miễn TNHS ngoài những trường hợp áp dụng đối với người từ đủ 18 tuổi trở
lên phạm tội. Hay nói các khác, quy định này bổ sung thêm trường hợp miễn
TNHS được áp dụng riêng cho người dưới 18 tuổi phạm tội ngoài các trường
hợp được quy định áp dụng chung cho người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.
Thứ ba, Trong trường hợp cần thiết thì mới truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cịn khơng thì áp dụng các biện pháp
xử lý thay thế khác. Nguyên tắc này xác định TNHS đối với người dưới 18
tuổi phạm tội được thực hiện như sau: trước tiên Tịa án xem xét miễn trách
nhiệm hình sự và áp dụng một số biện pháp giám sát hoặc áp dụng biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng → nếu khơng đảm bảo hiệu quả giáo dục,
phịng ngừa → áp dụng hình phạt → áp dụng các hình phạt khơng tước tự do
→ nếu khơng có tác dụng răn đe, phịng ngừa → áp dụng hình phạt tù có thời
hạn.
Cũng theo nguyên tắc này, cách tiếp cận trong việc áp dụng chế tài đối
với người dưới 18 tuổi là ưu tiên áp dụng các biện pháp không tước đi tự do,
hình phạt nói chung và phạt tù nói riêng chỉ được áp dụng khi khơng cịn cách
nào khác.
1.1.2. Các đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội
Thứ nhất: Đặc điểm về trạng thái cảm xúc: Người từ đủ 14 đến dưới 18
tuổi có sự thay đổi rất lớn về tâm sinh lý, đang trong quá hoàn thiện dần về
nhận thức, hình thành nhân cách nên thường có những hành vi bồng bột, nông
12
nổi, do cảm xúc chi phối nhiều hơn là lý trí. Khả năng kiềm chế bản thân,
nhận thức đầy đủ vấn đề, lựa chọn những xử sự đúng đắn còn hạn chế so với
người trưởng thành. Do vậy, họ dễ có những hành vi lệch chuẩn, thậm chí là
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật [ 57, tr 40].
Thứ hai: Đặc điểm về nhận thức pháp luật: Ở lứa tuổi này, trí não phát
triển chưa hồn thiện, cịn đang tích lũy về kiến thức, kinh nghiệm sống nên
khả năng nhận thức nói chung, nhận thức về pháp luật nói riêng còn hạn chế.
Hành động của người dưới 18 tuổi có khi chỉ để thỏa mãn bản thân, nhu cầu,
hứng thú nhất thời mà ít quan tâm đến hậu quả sẽ xẩy ra đối với người khác
cũng như cho xã hội. Đối với những hành vi đúng đắn, họ thực hiện theo tiêu
chuẩn đạo đức hơn là chuẩn mực pháp luật [ 57, tr 41].
Thứ ba: Đặc điểm về nhu cầu độc lập: Người dưới 18 tuổi có nhu cầu
độc lập rất lớn. Họ muốn thể hiện, khẳng định, chứng minh mình là người
lớn. Nhưng do phơng nhận thức, phơng văn hóa… cịn hạn chế nên nhu cầu
độc lập thường thái quá biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như
ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ, bất chấp …dễ dẫn đến vi phạm pháp
luật [57, tr 42].
Thứ tư: Đặc điểm về nhu cầu khám phá cái mới: Ở độ tuổi này người
trẻ thường có xu hướng xác định, khám phá, phân tích những điều mới mẻ từ
tự nhiên và xã hội, nhu cầu này mang tính tất yếu, khơng có gì khó khăn hay
khác biệt cả, nếu như họ khơng tìm hiểu cái mới thì mới là đáng lo ngại. Nếu
khơng có sự định hướng, giám sát của gia đình, nhà trường và xã hội thì chính
sự tị mị khám phá cái mới cùng với những nhận thức sai lệch và không làm
chủ được bản thân sẽ là nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm pháp luật của
người dưới 18 tuổi [ 57, tr 42].
13