Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

(Luận văn thạc sĩ) VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.9 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THIÊN HỒNG

VAI TRỊ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN
TRONG PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THIÊN HỒNG

VAI TRỊ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN
TRONG PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, năm 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan luận văn: “Vai trị của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” là
cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực. Nội dung cơ bản và những kiến nghị, đề xuất của luận văn là chưa được
công bố trong bất kỳ một cơng trình nào khác. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn
học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Viện hàn lâm –
Viện khoa học và xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Viện hàn lâm – Viện Khoa học và xã
hội xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thiên Hoàng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHỊNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN .................................................................................... 6
1.1. Nhận thức về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản............................................... 6
1.2. Vai trị của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản ........................................................................................................................................ 17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
NHÂN DÂN TRONG PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ......................................................... 34
2.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 34

2.2. Thực trạng các hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 51
2.3. Nhận xét, đánh giá về vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng............................ 61
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LỰC
LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG....................... 66
3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến vai trị của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .................... 66
3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................ 70
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đà Nẵng là thành phố lớn nhất khu vực miền Trung - Tây Nguyên, nằm
trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, đóng vai trị hạt nhân, quan trọng
trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời cũng là một trong năm thành
phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại I, trung tâm cấp quốc gia, cùng với Hải
Phòng và Cần Thơ. Thành phố Đà Nẵng là thành phố tổng hợp đa ngành, đa lĩnh
vực; với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội, cơng nghiệp, tài chính, du
lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học - công nghệ,
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước;
trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, cùng với quá
trình phát triển và thành tựu đã đạt được, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng diễn biến hết sức phức
tạp, khó lường, ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình đảm bảo an ninh trật tự, an toàn

xã hội và đời sống của nhân dân.
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, từ năm
2016 đến năm 2020, trên địa bàn thành phố xảy ra 151 vụ án cướp giật tài sản, đã
điều tra, khám phá 92 vụ, với 120 đối tượng. Nhìn chung, số lượng các vụ án cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số vụ
phạm pháp hình sự nhưng lại có những diễn biến khá phức tạp, khó lường, tính chất,
mức độ phạm tội hết sức tinh vi, xảo quyệt, thành phần đối tượng phạm tội rất đa
dạng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an tịa xã hội, gây
căm phẫn, bất bình trong quần chúng nhân dân. Mặc dù trong thời gian qua, các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội có rất nhiều hoạt động phòng ngừa, đấu
tranh các loại tội phạm nhưng tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng vẫn đang là mối lo ngại lớn của tồn xã hội.
Có thể khẳng định, phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân bằng nhiều biện pháp làm
giảm, hạn chế và từng bước loại trừ, triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội cướp giật tài sản nhằm hướng đến mục đích ngăn chặn, loại trừ tội cướp
1


giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội. Như vậy, phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản là hoạt động rất đa dạng, phức tạp với sự tham gia của nhiều lực lượng, tổ chức
xã hội. Tuy nhiên, trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thì vai trị nịng
cốt, xung kích thuộc về lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng Cảnh
sát nhân dân. Những năm qua, vai trò của của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong
phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng được thể
hiện trên nhiều phương diện, lĩnh vực, hoạt động cụ thể, kết quả đạt được rất đáng
khích lệ. Mặc dù vậy, một số nội dung hoạt động thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh
sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như công tác tham mưu,
hướng dẫn; công tác tuyên truyền, vận động, tuần tra kiểm sốt; cơng tác điều tra,
khám phá, xử lý tội phạm cướp giật tài sản; công tác phối hợp giữa lực lượng Cảnh

sát nhân dân với các lực lượng khác trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định cần có sự nghiên cứu thấu đáo, khoa
học và hết sức thực hiện để từng bước nâng cao hiệu quả. Với mục đích nghiên cứu
để có những hiểu biết sâu sắc về lý luận cũng như thực tiễn thể hiện vai trò của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng những năm qua, đánh giá đúng đắn toàn diện về thực trạng, trên
cơ sở đó đề xuất các giải pháp, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Vai trò của lực lượng
Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành tội phạm học và
phịng ngừa tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phịng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản nói riêng, đến nay đã có một số cơng trình tiếp cận nghiên
cứu dưới những góc độ và khía cạnh khác nhau, tiêu biểu như:
- Nguyễn Văn Thái (2011), Điều tra tội phạm cướp giật tài sản người nước
ngoài của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Cơng an Thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân,
Thành phố Hồ Chí Minh [24];
- Đặng Thúy Quỳnh (2013), Đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản ở
2


nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [23];
- Phạm Văn Trung (2017), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đơng
Nam Bộ: Tình hình, ngun nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [26] …
Có thể nhận thấy, kết quả của các cơng trình liên quan đến vấn đề nghiên
cứu là tương đối phong phú. Mặc dù vậy, các cơng trình này chỉ mới dừng lại ở việc
nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa, điều tra, hoặc các chiến thuật được áp dụng
trong quá trình điều tra đối với một loại tội phạm nhất định hay tiếp cận nghiên cứu

dưới những góc độ, khía cạnh khơng giống nhau xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ đã
đặt ra. Đến nay chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về Vai trò của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, đây là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn áp
dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng, đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của
lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản;
- Nghiên cứu khảo sát làm rõ thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng;
- Dự báo tình hình và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng
Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
- Phạm vi chủ thể: Lực lượng Cảnh sát nhân dân.
- Phạm vi không gian: Thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi thời gian: Các số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập từ năm
2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn xã hội; dựa
trên những thành tựu của các ngành khoa học như: Triết học, Tội phạm học và Điều
tra tội phạm, Tâm lý học, Xã hội học, Luật học...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này dùng để thu thập, xử lý và phân
tích số liệu về tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm
2016 đến năm 2020.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết thực tiễn các hoạt động thể hiện
vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thông qua báo cáo tổng kết, các chun đề về
phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ các thông tin, tài liệu thu thập được,
tiến hành phân tích để làm rõ tình hình, đặc điểm đặc trưng của tội phạm cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2020. Đánh giá thực
trạng thể hiện vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu, đánh giá các tài liệu có liên
quan đến đề tài nghiên cứu, phục vụ cho việc xây dựng luận cứ lý thuyết và luận cứ

thực tiễn của đề tài sẽ được đề đề cập trong chương 1.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tập trung nghiên cứu 35 bản kết luận
điều tra và 35 bản án về tội cướp giật tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
từ năm 2016 đến năm 2020.
- Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến các nhà khoa học có chun mơn sâu
về lĩnh vực nghiên cứu để bổ sung, hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả Luận văn sẽ là tài liệu nghiên cứu của cán bộ, giáo viên, học viên
các cơ sở đào tạo về luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trong thực tế, kết quả Luận văn đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của lực
lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được cấu trúc làm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của lực lượng Cảnh
sát nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Chương 2: Thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phịng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA
LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN TRONG PHỊNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Nhận thức về phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm, nhiệm vụ, yêu cầu và nguyên tắc phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản
1.1.1.1. Khái niệm phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Có thể khẳng định, để xây dựng được khái niệm về phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản cần xuất phát và dựa trên nền tảng tri thức về phòng ngừa tội phạm
nói chung, gắn liền với đặc trưng về loại tội phạm cướp giật tài sản. Tiếp cận nghiên
cứu các công trình khoa học đã được cơng bố về lĩnh vực tội phạm học và phòng
ngừa tội phạm cho thấy, đến nay xung quanh khái niệm phòng ngừa tội phạm tồn tại
một số quan niệm điển hình, chẳng hạn:
Theo GS.TS Nguyễn Xn m thì: Phịng ngừa tội phạm là khơng để tội
phạm xảy ra và gây hậu quả cho xã hội, không để cho con người sống trong xã hội
phải đối mặt và gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của luật pháp. Nếu một
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải chịu hình phạt theo
quy định của Bộ Luật hình sự hiện hành thì phải được phát hiện kịp thời, điều tra
khám phá để truy tố, xét xử theo quy định, tiến hành các biện pháp quản lý, giáo
dục và cải tạo người phạm tội trở thành cơng dân có ích cho xã hội [32].
Theo Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học CSND năm 2008 thì:
Phịng ngừa tội phạm khơng chỉ bao gồm các hoạt động nhằm thủ tiêu nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra mà còn bao gồm cả những
hoạt động ngăn chặn tội phạm, phát hiện điều tra khám phá tội phạm, truy tố, xét xử
nghiêm minh các hành vi phạm tội nhằm trừng trị giáo dục người phạm tội trở
thành người công dân có ích cho xã hội. Truy cứu trách nhiệm hình sự cũng là một
hình thức phịng ngừa tội phạm chủ động và có hiệu quả. Việc trừng trị người phạm
tội và ngăn chặn không cho họ thực hiện hành vi phạm tội mới cịn có ý nghĩa tác
6


động đối với những người xung quanh, khiến cho họ từ bỏ ý định phạm tội, từ bỏ sự

chuẩn bị hay tiến hành một tội phạm nào đó. Việc truy tố, xét xử và buộc người
phạm tội phải chịu một hình phạt khơng những có ý nghĩa phịng ngừa cá biệt mà
cịn có ý nghĩa phịng ngừa chung.... Tuy nhiên, phòng ngừa tội phạm còn được thể
hiện ở việc cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, xóa bỏ các nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, hình thành các điều kiện tích cực cho sự phát triển, hồn thiện nhân
cách con người. Như vậy, phịng ngừa tội phạm khơng những ngăn ngừa tội phạm
xảy ra mà còn trừng trị người phạm tội và giáo dục cải tạo họ thành cơng dân có ích
cho xã hội.
Giáo trình Tội phạm học của GS.TS Đỗ Ngọc Quang chỉ ra phòng ngừa tội
phạm theo hai nghĩa: Nghĩa rộng, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời
phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải
tạo giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những cơng dân có ích cho xã hội.
Theo nghĩa hẹp, phịng ngừa tội phạm là khơng cho tội phạm xảy ra, không để cho
tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải chịu
hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong
cơng tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội [29]. Như vậy,
theo quan niệm này cơng tác phịng ngừa tội phạm khác với cơng tác điều tra khám
phá, xử lý tội phạm.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: Phịng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống
nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội
nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vơ hiệu hóa
(làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội
phạm[28]. Phịng ngừa tội phạm là hoạt động được tiến hành bằng nhiều biện pháp
để phát hiện nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, nhằm xóa bỏ, hạn chế hoặc làm
mất tác dụng của nó, khơng để tội phạm xảy ra, tiến tới thủ tiêu hiện tượng tội phạm
trong xã hội tương lai; đồng thời cũng tức là không để tội phạm xảy ra và gây nên
những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải
chịu hình phạt. Nếu tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát hiện xử lý để bảo đảm
cho người phạm tội không thể tránh khỏi hình phạt, khơng để lọt tội phạm, tiến
7



hành giáo dục và cải tạo những người phạm tội trở thành những cơng dân có ích cho
xã hội.
Từ việc tiếp thu những luận cứ khoa học nêu trên, xuất phát từ đặc điểm đặc
trưng của tình hình tội cướp giật tài sản, tác giả cho rằng: Phịng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và
mọi công dân bằng nhiều biện pháp khác nhau hướng đến loại trừ, triệt tiêu những
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản nhằm ngăn chặn, hạn
chế làm giảm và từng bước loại trừ tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.
1.1.1.2. Nhiệm vụ phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Có thể khẳng định, phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là nhiệm vụ
cấp bách, hết sức quan trọng và cần thiết, góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội và cuộc sống thường
ngày của người dân.
Phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động hết sức đặc thù, bởi lẽ
nó được tiến hành đối với một loại tội phạm đặc thù, với đối tượng đặc thù và trên
địa bàn rất đặc thù.
Nhiệm vụ phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản gồm:
+ Làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản, tức là
xác định cho được những hiện tượng xã hội tiêu cực làm hình thành nên động cơ
thúc đẩy một cá nhân thực hiện hành vi phạm tội và những yếu tố xã hội làm hình
thành nhu cầu lợi ích, định hướng giá trị xã hội lệch lạc cùng với những yếu tố tạo
thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản. Các hiện tượng xã
hội tiêu cực làm nảy sinh hoặc tạo thuận lợi cho tình hình tội cướp giật tài sản xảy
ra trong thực tế rất phức tạp, có sự đan xen vào nhau; mặt khác nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội cướp giật tài sản không thể tách rời nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm nói chung. Vì vậy, đề cập đến nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội cướp giật tài sản, có thể tiếp cận, nghiên cứu, phân tích, luận giải, xem
xét những hiện tượng xã hội tiêu cực đóng vai trị làm phát sinh tội phạm nói chung.

+ Đề xuất các phương pháp, giải pháp phịng ngừa cụ thể:
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp
8


giật tài sản thì nhiệm vụ tiếp theo của phịng ngừa tình hình tội phạm đó là soạn
thảo, đề xuất các phương pháp, giải pháp nhằm tác động làm mất đi các nguyên
nhân, điều kiện.
+ Tổ chức hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản:
Tiếp đến là tổ chức hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
bằng việc nghiên cứu nắm vững các đặc điểm, quy luật hình thành ý định, động cơ,
mục đích phạm tội, phương thức thủ đoạn hoạt động của đối tượng phạm tội; lập kế
hoạch phòng ngừa, đề xuất các biện pháp phịng ngừa gắn với xây dựng mơi trường
giáo dục nhân cách, trong việc quản lý con người, quản lý đối tượng có nguy cơ
phạm tội, trong ngăn chặn tội phạm, xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa
các cấp, các đơn vị cụ thể trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; đề xuất,
kiến nghị ban hành các chủ trương, các văn bản pháp luật để nâng cao hiệu quả
phòng ngừa. Ở phạm vi, cấp độ chung nhất, hoạt động phịng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản có thể bao gồm các biện pháp như: Tăng cường giáo dục, tuyên
truyền nếp sống lành mạnh; loại trừ ảnh hưởng tiêu cực của các tệ nạn xã hội; tăng
cường công tác quản lý an ninh trật tự, quản lý xã hội; giải quyết việc làm cho
những người trong độ tuổi lao động; phát động phong trào nâng cao ý thức trách
nhiệm đấu tranh phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản trong nhân dân; tăng
cường cơng tác đấu tranh phịng, chống tình hình tội cướp giật tài sản của các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
+ Xây dựng được chiến lược dài hạn, hoạch định kế hoạch hành động:
Phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là chủ đề nhận được sự quan tâm
của đơng đảo người dân, của tồn bộ hệ thống chính trị, chính quyền cơ sở thời gian
vừa qua, hiện tại và trong những năm sắp tới. Chính vì thế, cần phải xây dựng được
chiến lược dài hạn, hoạch định kế hoạch hành động cụ thể, chi tiết, huy động sức

mạnh của tồn xã hội, của mỗi nhà trường, gia đình trong việc thực hiện đồng bộ các
biện pháp nhằm ngăn chặn tình hình tội cướp giật tài sản trong thực tiễn đời sống xã
hội.
1.1.1.3. u cầu phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải đặt dưới sự lãnh
9


đạo trực tiếp, thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.
Hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành
dưới sự chủ trì của Cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát nhân dân, Tịa án nhân dân, là
lực lượng chủ cơng, chịu trách nhiệm chính trong xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt
động phòng ngừa, đầu mối gắn kết các chủ thể khác.
Hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành
một cách thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm.
Hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải có sự tham gia
phối hợp của tất cả các chủ thể, phát huy sức mạnh của tồn bộ hệ thống chính trị,
của tồn xã hội, đặc biệt là phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.
Hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cần được tiến hành toàn
diện, đồng bộ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp
vụ. Đồng thời, cần được đảm bảo về nhân sự và nguồn kinh phí cũng như cơ sở
pháp lý, cơ chế phối hợp cần thiết.
1.1.1.4. Nguyên tắc phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thơng thì, ngun tắc là những quy định, phép
tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, làm chỗ dựa để xem xét, làm việc [36]. Như vậy, nguyên
tắc là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo hoạt động của con người, chỉ đạo
mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với xã hội. Hoạt động
phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản muốn đạt kết quả tốt phải được tiến hành
trên cơ sở quán triệt và tuân thủ một số ngun tắc sau đây:
Phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải được tiến hành dựa trên cơ sở

quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền cơng dân, duy trì trật tự an tồn xã hội.
Phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải chú trọng làm tốt công tác
tham mưu cho các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong
việc huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và tồn xã hội, trong đó Cơng an
nhân dân, Viện Kiểm sát, Tòa án giữ vai trò nịng cốt, xung kích, đi đầu.
Phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải triệt để khai thác, phát huy
hiệu quả quan hệ phối hợp giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các
10


ban ngành đoàn thể trong đề xuất và tổ chức thực hiện các biện pháp phịng ngừa.
Phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải gắn liền với việc tăng cường
công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, vận động quyền chúng nhân dân cùng
tham gia.
Phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản phải gắn liền với việc nâng cao
hiệu quả công tác điều tra, khám phá và xử lý nghiêm khắc, nhanh chóng, kịp thời
mọi hành vi phạm tội cướp giật tài sản.
1.1.2. Chủ thể tiến hành phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản khơng chỉ do lực lượng
Công an nhân dân đảm nhận mà địi hỏi phải có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều
cấp, nhiều lực lượng, của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ
chức quần chúng và mọi công dân. Nhưng do chức năng, nhiệm vụ, vị trí hoạt động
của từng ngành, từng cấp, từng lực lượng khác nhau nên vai trò và việc thực hiện
nhiệm vụ của mỗi chủ thể trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản có sự khác nhau [35]. Cụ thể:
1.1.2.1. Chủ thể xây dựng chính sách, mục tiêu, định hướng phịng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân)
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện

quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Bên cạnh việc xây dựng và ban
hành chính sách, pháp luật về phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, Quốc hội
còn tiến hành giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về phịng chống
tội phạm.
Trong hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn cụ
thể, các cấp ủy Đảng giữ vai trò lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tội phạm, nghe báo
cáo của các ngành, các lực lượng về tình hình tình hình tội cướp giật tài sản xảy ra
trong phạm vi lĩnh vực, địa phương của mình, đề ra chủ trương, phương hướng hoạt
động phịng ngừa có hiệu quả. Đồng thời, kiểm tra, giám sát hoạt động phịng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản để có sự lãnh đạo kịp thời, sửa chữa, khắc phục những
11


sai lầm, thiếu sót trong quản lý xã hội, kinh doanh, sản xuất, sử dụng lao động, đảm
bảo cho hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đi đúng hướng, thiết
thực và đạt hiệu quả cao.
Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2020 và định
hướng đến năm 2030 đề ra các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
tạo tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp phịng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản. Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
các cấp tại từng địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn, thời kỳ chủ
động ban hành các văn bản pháp luật phục vụ có hiệu quả cơng tác phịng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản.
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có
thẩm quyền ra các nghị quyết chỉ đạo, tổ chức hoạt động phịng ngừa tội phạm nói
chung cũng như hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng. Vì
vậy, Hội đồng nhân dân được coi là chủ thể quan trọng trong hoạt động phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản. Hội đồng nhân dân tham gia vào chương trình quốc

gia phịng, chống tội phạm, tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm; chỉ đạo việc thực
hiện chương trình phịng ngừa tội phạm trong phạm vi địa phương mình quản lý.
Thành lập và lãnh đạo các tổ chuyên trách phòng ngừa tội phạm, hướng dẫn, tổ
chức các tập thể, quần chúng nhân dân tham gia vào các hoạt động giáo dục, giám
sát các đối tượng có biểu hiện tiêu cực, người có tiền án, tiền sự đang sinh sống
hoặc cư trú trên địa bàn mà địa phương quản lý, kịp thời giải quyết những mâu
thuẫn trong cuộc sống của cộng đồng dân cư, ngăn chặn được các hành vi tiêu cực
dễ dẫn đến việc nảy sinh tội phạm cướp giật tài sản.
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước nằm trong hệ
thống hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ quan
hành chính nhà nước địa phương, cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân các
cấp, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan nhà nước ở Trung ương.

12


1.1.2.2. Chủ thể có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp thực hiện hoạt động phịng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát, Tịa án)
Cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát, Tịa án là những thiết chế có nhiệm vụ trực
tiếp đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm cướp giật tài sản, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự và an tồn xã hội.
Điều 67 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: “Nhà nước xây dựng Cơng an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo
đảm trật tự, an tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống tội phạm” [19].
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Trong phạm vi trách nhiệm của
mình, cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp
với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm [20]. Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không

thông báo hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về hành vi phạm tội xảy ra trong cơ
quan và trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Tổ
chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm tạo điều kiện để cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tham gia đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và phòng ngừa.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp [22]. Tịa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, Tòa án nhân dân phối
hợp với cơ quan, tổ chức phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Tòa án nhân
dân cùng với cơ quan, tổ chức nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách, pháp
13


luật về phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội. Trong trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định,
Tòa án nhân dân kiến nghị yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng biện pháp khắc phục
nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại cơ quan, tổ
chức đó. Cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị có trách nhiệm thực hiện và trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị phải thơng báo cho Tịa án về kết
quả giải quyết kiến nghị.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: Viện kiểm sát
nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [23]. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo

vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Cơng an, Tịa án,
Thi hành án, Thanh tra, Kiểm toán, các cơ quan nhà nước khác, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để phịng, chống tội phạm có
hiệu quả; xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật; phổ
biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp
luật [18].
Luật Công an nhân dân năm 2018 quy định: Công an nhân dân là lực lượng
vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [24]. Cơng an nhân dân có chức
năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an
tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo đảm trật tự, an tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu,
hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
14


Xuất phát từ các cơ sở pháp lý đó, cụ thể trên thực tiễn:
+ Cơ quan Công an tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực mà mình có trách nhiệm quản lý thơng qua hoạt động kiểm tra, kiểm sốt nghề,
nhân khẩu, hộ khẩu, vũ khí, phịng, chống cháy nổ…, quản lý các đối tượng có nhân
thân xấu, đối tượng hình sự “khơng vững vàng” trong cuộc sống để có biện pháp
phịng ngừa riêng, phối hợp, phát hiện, điều tra tội phạm đảm bảo không để lọt tội
phạm; truy nã người phạm tội bỏ trốn nhằm trốn tránh pháp luật; giám sát, giáo dục

người đang chấp hành án tại địa phương nơi người bị kết án cư trú hay tại cơ quan
chuyên môn; hướng dẫn các tổ chức tự quản ở địa phương nắm bắt các thao tác
nghiệp vụ, phương pháp thực hiện các biện pháp phịng ngừa tội phạm…. Hoạt
động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản của cơ quan Công an thực hiện chủ
yếu thơng qua các hình thức cơ bản như: Tổ chức hoạt động và kế hoạch phịng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản tại khu vực mình phụ trách; quản lý chặt chẽ các
đối tượng hình sự, các đối tượng có tiền án, tiền sự; kịp thời truy nã các đối tượng
phạm tội còn lẩn trốn; phối hợp với các cơ quan hữu quan lên kế hoạch và thực hiện
kế hoạch phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; tổ chức và đào tạo hệ thống
chuyên gia phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản chun trách; phối hợp chặt
chẽ với Viện kiểm sát và Tòa án trong việc tuyên truyền, hướng dẫn và huy động
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và Nhân dân vào hoạt động phịng ngừa, ngăn
chặn tình hình tội cướp giật tài sản.
+ Viện kiểm sát nhân dân với chức năng của mình, bên cạnh việc thực hành
quyền cơng tố trong các vụ án cướp giật tài sản, Viện kiểm sát còn kiểm sát việc
tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp; giám sát việc thực hiện các biện
pháp và chương trình phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản; kiểm tra, giám sát
công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội; phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp
luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản. Thông qua kiểm sát hoạt động điều tra cũng như trực tiếp điều tra các vụ án
cướp giật tài sản, Viện kiểm sát nhân dân xác định được nguyên nhân, điều kiện của
tình hình tình hình tội cướp giật tài sản và các đặc điểm thuộc nhân thân người
phạm tội, kiến nghị các cơ quan hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
15


+ Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thơng qua hoạt động xét xử và một số hoạt động khác, Tịa án góp phần
to lớn vào hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Vai trị của Tịa án
nhân dân trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản thể hiện thông qua việc

xét xử các vụ án cướp giật tài sản, làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội từ đó
áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục hoặc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội đó, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật
của mọi người trong xã hội, tạo điều kiện để công dân và tổ chức thực hiện các biện
pháp phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đặc biệt, Tòa án nhân dân còn trực
tiếp đề xuất, kiến nghị với các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
các cấp về việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội liên quan đến phịng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
1.1.2.3. Chủ thể tham gia phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản (Mặt
trận, các ban ngành, đồn thể, gia đình, nhà trường)
Trong hoạt động phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, vai trị của Mặt
trận, các ban ngành, đồn thể, gia đình, nhà trường có ý nghĩa to lớn và là nhân tố,
tiền đề để triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp, giải pháp phịng ngừa.
Điều 46 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
quy định: “Cơng dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh
hoạt công cộng” [19, tr.11].
Điều 64 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà
nước củng cố và tăng cường nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân mà nịng
cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hịa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan,
tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” [19,
tr.14].
Xuất phát từ đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao mà mỗi
thiết chế trong hệ thống thực hiện những công việc, phần việc cụ thể tạo thành hoạt
16


động chung nhằm hướng đến phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ở phạm vi

và mức độ khác nhau. Có thể khẳng định, trong phịng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản điều quan trọng và cần thiết là phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, thường
xuyên, liên tục giữa các chủ thể nêu trên. Việc phối hợp giữa các chủ thể để phịng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Một mặt
nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp của tồn xã hội, tính tổ chức chặt chẽ trong
q trình áp dụng các biện pháp phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Mặt
khác, quá trình phối hợp cho phép tổng hợp, phân tích đánh giá tồn diện thơng tin
về tình hình tội cướp giật tài sản, kết quả phịng, chống tình hình tội cướp giật tài
sản, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời, sự phối
hợp giữa các chủ thể cịn hướng vào việc đẩy mạnh cơng tác tun truyền, giáo dục
sâu rộng cho quần chúng nhân dân về các quy định của Nhà nước liên quan đến
phòng, chống tình hình tội cướp giật tài sản để quần chúng khơng tham gia hoặc
tiếp tay, che giấu tình hình tội cướp giật tài sản, tích cực tham gia phịng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản góp phần tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước trên lĩnh
vực này.
1.2. Vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản
1.2.1. Khái niệm vai trò của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội là nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do tính
chất rộng rãi và quan trọng của công cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ
gìn trật tự an tồn xã hội, cho nên nó đã trở thành nhiệm vụ chính trị của tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn. Tuy nhiên, trong chức năng của Nhà nước còn phải thực hiện
nhiều nhiệm vụ khác nhau như phát triển kinh tế, xây dựng quốc phịng, đối ngoại,
văn hóa, thể thao v.v... mà mỗi mặt nhiệm vụ đó đều có liên quan với nhau và liên
hệ động chạm tới quyền lợi quốc gia và quyền lợi của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thành viên xã hội. Nhu cầu đó địi hỏi Nhà nước tất yếu xây dựng củng cố những cơ
17



quan chuyên trách (hay vẫn gọi là cơ quan chức năng) và xác định cho nó những
chức năng nhiệm vụ cụ thể để đại diện Nhà nước tham gia điều hành quản lý trong
từng lĩnh vực cụ thể (tạo thành bộ máy cơ quan chuyên trách). Đối với mỗi Nhà
nước khác nhau do đặc điểm phát triển các lĩnh vực chuyên môn khác nhau và đặc
điểm mỗi thời kỳ khác nhau có thể được thành lập những cơ quan chuyên trách
khác nhau phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước [18].
Ở nước ta, lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội là
một trong những lĩnh vực đặc biệt có những đặc trưng khác với các lĩnh vực quản lý
Nhà nước khác. Đó là một lĩnh vực tổng hợp bao hàm nhiều hoạt động khác nhau
như: hoạt động duy trì bảo vệ trật tự pháp luật (tuyên truyền pháp luật, kiểm tra
giám sát thực hiện pháp luật, điều tra xét xử các vụ án hình sự đã xảy ra...); là hoạt
động của các cơ quan tư pháp (Cơng an, Tịa án, Viện kiểm sát); tiến hành tổ chức
thực hiện những nhiệm vụ quản lý Nhà nước về an ninh trật tự (quản lý con người,
quản lý nghề nghiệp, phương tiện, trật tự an toàn xã hội...); là chức năng của cơ
quan hành pháp của Nhà nước, hoạt động đấu tranh chống tội phạm; trấn áp phản
cách mạng, bảo vệ biên giới v.v...; là hoạt động của cơ quan bạo lực chuyên chính
mang tính vũ trang (lực lượng vũ trang của Nhà nước). Từ những đặc trưng như
vậy, Nhà nước và Đảng ta ngay từ những ngày đầu thành lập đã giao phó trọng
trách cho lực lượng Cơng an nhân dân và các lực lượng chuyên chính khác thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội. Bác Hơ đã nêu
trong Hồ Chí Minh - Giữ gìn an ninh trật tự - 10/10/1954: “Giữ gìn an ninh trật tự
trước hết là cơng việc của Công an, Bộ đội, Cảnh sát...”. Để xác định phân cơng
trách nhiệm cụ thể hơn người cịn chỉ rõ trong Hồ Chí Minh- Nói chuyện tại Hội
nghị Cơng an tồn quốc Lần thứ 10- 1/1956: “Nhân dân ta có hai lực lượng: Một là
quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ tổ quốc, giữ gìn hịa bình. Một lực
lượng nữa là Công an, để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại. Có lúc
chiến tranh, có lúc hịa bình. Lúc chiến tranh thì qn đội đánh giặc, lúc hịa bình
thì tập luyện cịn cơng an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc có chiến tranh có

việc, lúc hịa bình lại càng nhiều việc. Cịn chủ nghĩa đế quốc, cịn giai cấp bóc lột
là cịn bọn phá hoại. Chúng nhằm phá hoại các nước Xã hội chủ nghĩa... Vì vậy,
18


cơng việc Cơng an phải thường xun, khơng phải có từng đợt từng lúc”. Như vậy,
Bác Hồ và Đảng ta đã xác định rõ ràng ranh giới trách nhiệm của mỗi công cụ bạo
lực: Quân đội và Công an. Khi xác định nhiệm vụ và phạm vi công tác của Cơng an
nhân dân Bác Hồ cịn chỉ rõ trong Hồ Chí Minh- Bài nói chuyện tại Hội nghị Cán
bộ ngành Công an 29/4/1963: “Công an cách mạng là một vũ khí sắc bén của
chun chính vơ sản. Cho nên nhiệm vụ Cơng an là cực kỳ quan trọng. Nó phải giữ
gìn trật tự trị an, bảo vệ cho Nhân dân ta an cư lạc nghiệp, để xây dựng thắng lợi
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà”.
Những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm của
Người về bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội và vai trị vị trí của
ngành Cơng an nhân dân đã được Đảng ta quán triệt tiếp tục trong đường lối của
mình. Khi nói về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội,
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Lần thứ V (1982), Đảng ta chú trọng đến
việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân: “Để làm được nhiệm vụ đó, phải xây
dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, thật sự là
công cụ sắc bén của chun chính vơ sản, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, với Nhà nước và nhân dân, có lực lượng chuyên trách, chính qui hiện đại,
vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học kỹ thuật khá, được trang
bị chun mơn cần thiết, có cơ sở quần chúng rộng khắp đảm bảo hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ… phối hợp tốt giữa các ngành Công an, Viện kiểm sát, Tư pháp
trong việc tăng cường pháp chế; phối hợp tốt giữa lực lượng Công an nhân dân với
quân đội nhân dân, dân quân tự vệ và lực lượng quần chúng trong việc giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội”. Từ những vấn đề đã nêu ra và phân tích trên
đây, có thể rút ra những kết luận như sau:

Thứ nhất: Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội ln ln
là một lĩnh vực hoạt động quan trọng mang tính tất yếu của Đảng và Nhà nước ta,
nhằm góp phần đảm bảo thắng lợi cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc của
cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội đã trở thành
19


một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong mỗi
giai đoạn phát triển của cách mạng, vì vậy nó địi hỏi trách nhiệm tham gia của mọi
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân.
Thứ ba: Nhiệm vụ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội do đặc
điểm riêng của nó là phải đấu tranh trấn áp đối với một số đối tượng ngoan cố nguy
hiểm là bọn phản cách mạng trong nước, các thế lực thù địch chống phá cách mạng
từ bên ngoài và các loại tội phạm xâm phạm đến an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội, vì vậy cần phải sử dụng đến các cơ quan bạo lực chuyên chính như: Cơng an,
Tịa án, Viện kiểm sát, Qn đội… Những cơ quan này là công cụ đặc biệt của
Đảng và Nhà nước trong đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn
xã hội.
Thứ tư: Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội tham gia đấu
tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội, thì cơ quan Công an
được Đảng và Nhà nước ta xác định là lực lượng nịng cốt xung kích, có trách
nhiệm tham mưu, hướng dẫn các lực lượng Nhà nước xã hội khác tham gia. Để thực
hiện được trọng trách đó, cơ quan Cơng an nhân dân phải xây dựng cho mình có lực
lượng mạnh mẽ đủ sức bảo vệ an ninh trật tự của đất nước, đồng thời cần phải phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác đặc biệt là với hệ thống
cơ quan chun chính như: Tịa án, Viện kiểm sát và Qn đội nhân dân.
Công an nhân dân Việt Nam là một lực lượng trong hệ thống chun chính
vơ sản, cơng cụ bạo lực trọng yếu của Nhà nước để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính
quyền nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân đã được hình

thành và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Xuất
thân từ những tổ chức “tự vệ đỏ”, “đội danh dự trừ gian” trước cách mạng do các tổ
chức Đảng cộng sản thành lập tổ chức, sau khi cách mạng thành công những tổ
chức này được xây dựng và củng cố ngày càng trưởng thành, hồn thiện với q
trình như sau: Ngày 21/02/1946 chủ tịch nước ra Sắc lệnh 23/SL thành lập Việt
Nam Công an vụ; ngày 16/02/1953 Sắc lệnh 141/SL đổi tên thành Thứ Bộ Cơng an;
đến tháng 8/1953 Chính phủ ra Nghị quyết thành lập Bộ Cơng an. Từ đó đến nay
ngành Cơng an luôn luôn được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về việc
20


hồn thiện bộ máy Cơng an nhân dân, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
phù hợp với tình hình thực tế của mỗi giai đoạn cách mạng. Sự quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với cơng tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội và xây dựng lực lượng Cơng an thể hiện, trước hết trong việc tổng kết
công tác đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
đề ra các chủ trương, nguyên tắc, biện pháp đấu tranh trong lĩnh vực này. Những
quan điểm đó được thể hiện tập trung trong các Nghị quyết của Đảng như: Nghị
quyết 39/NQ/TW ngày 20/01/1962 về tăng cường đấu tranh chống phản cách mạng;
Nghị quyết 31/NQ/TW ngày 02/12/1980 về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội trong tình hình mới và các chỉ thị về từng mặt công tác đấu tranh
bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khác như chỉ thị về đấu tranh chống
tham nhũng, chỉ thị về đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội… Về mặt Nhà nước đã thông
qua và ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng để quy định về tổ chức, xây dựng
cơ cấu bộ máy Công an nhân dân, phân công chức năng, nhiệm vụ của ngành Cơng
an nhân dân. Đó là các văn bản như: Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân, pháp lệnh phòng
cháy, chữa cháy, pháp lệnh tình báo, Nghị định 32/CP, Nghị định 250/HĐBT, Nghị
định 37/1998/NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ
Công an, Luật Công an nhân dân. Từ nội dung những văn bản trên đã tạo ra các cơ
sở lý luận và cơ sở pháp lý chỉ đạo hoạt động của ngành Công an nhân dân.

Như đã phân tích ở phần trên, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức xã hội và mọi cơng dân bằng nhiều biện pháp phịng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản. Đây là hoạt động đa dạng, phức tạp với sự tham gia đông đảo của các
lực lượng, tổ chức xã hội. Vì vậy, để phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, cần
phải nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm cướp giật
tài sản; đề ra biện pháp phòng chống và tổ chức tiến hành các hoạt động phòng
chống tội phạm cướp giật tài sản. Bên cạnh đó, phịng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản là việc sử dụng đồng bộ nhiều lực lượng, nhiều biện pháp nhằm khắc phục
những sơ hở, thiếu sót khơng để đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có thể lợi
dụng hoạt động phạm tội. Cần phải nghiên cứu những đặc điểm đặc trưng của tội
phạm cướp giật tài sản để thấy được những nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh,
21


×