Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Ảnh hưởng của liều lượng đạm bón thúc vào thời kỳ 3 5 lá đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN99 vụ dông 2011 tại trường ĐHNL thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.98 KB, 55 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1.Đặt vấn đề
Cây ngô (Zea mays L.) thuộc chi Maydea, họ hòa thảo Gramineae là một trong
ba cây ngũ cốc quan trọng nhất cung cấp lương thực cho con người và là cây thức ăn
gia súc quan trọng nhất. Ngô là nguyên liệu cho các nhà máy chế biến lương thực,
thực phẩm, dược phẩm và là nguyên liệu lý tưởng để tạo ra năng lượng sinh học. Ngô
là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị, thu về nhiều ngoại tệ cho nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ.
Với giá trị kinh tế cao và khả năng thích nghi rộng nên ngô được trồng hầu hết ở
các vùng trên thế giới: trải dài trên 90 vĩ tuyến (từ 40
0
vĩ Nam tới gần 55
0
vĩ Bắc), từ
độ cao 1 - 2m đến gần 4000m so với mặt nước biển. Năm 2010, diện tích trồng ngô
trên thế giới là 161,91 triệu ha, năng suất đạt 5,12 tấn/ha, và sản lượng là 844,41 triệu
tấn. Trong đó, Mỹ là nước có diện tích lớn nhất với 32,96 triệu ha, năng suất đạt 9,59
tấn/ha, sản lượng đạt 316,17 triệu tấn. Trung Quốc đứng thứ hai với diện tích 32,52
triệu ha, năng suất đạt 5,46 tấn/ha và sản lượng đạt 177,54 triệu tấn. (FAOSTAT,
2012) [30].
Ngô là thức ăn giàu năng lượng, là thành phần quan trọng trong hỗn hợp thức ăn
chăn nuôi gia súc, gia cầm vì thành phần chính của ngô là tinh bột và đường chiếm
tới 90% trọng lượng chất khô. Ở các nước phát triển, có nền chăn nuôi công nghiệp
hiện đại thì ngô đã trở thành thức ăn lý tưởng, họ sử dụng 70 - 90% lượng ngô cho
chăn nuôi như: Mỹ 89%, Rumani 69%, Hungari 90 %… Ngô có thể sử dụng dưới
dạng thức ăn xanh, ủ chua, thức ăn tinh hay tổng hợp đều rất tốt cho các loại gia súc
gia cầm đặc biệt là chăn nuôi lấy thịt, sữa, trứng…
Ở Việt Nam,Ngô được đưa vào Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 (Ngô Hữu Tình,
1997) [22], là cây lương thực quan trọng đứng thứ hai sau lúa, được trồng cách đây


khoảng 300 năm ở nhiều vùng sinh thái khác nhau, đa dạng về mùa vụ gieo trồng và
hệ thống canh tác. Sản xuất ngô của nước ta qua các năm không ngừng tăng về diện
tích năng suất, và sản lượng. Năng suất trong những năm 1960 chỉ đạt 1 tấn/ha, với
diện tích hơn 200 nghìn ha. Từ năm 1990, Việt Nam ứng dụng các giống ngô lai, các
biện pháp kĩ thuật tiên tiến vào sản xuất nên năng suất và sản lượng ngô tăng nhanh
qua các năm. Năm 1991 diện tích ngô lai chỉ đạt 1%, năm 2010 đạt 90% diện tích.
Đây là một tốc độ phát triển nhanh so với các nước có nghề trồng ngô trên thế giới.
Năm 2001 tổng diện tích ngô là 730,2 nghìn ha, đến năm 2005 đã tăng trên 1 triệu ha;
1
2
năm 2010, diện tích ngô cả nước 1126,9 nghìn ha, năng suất 40,9 tạ/ha, sản lượng đạt
4,6 triệu tấn (Tổng cục thống kê, 2012) [15]. Tuy vậy, cho đến nay sản xuất ngô ở
nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng trong nước, hàng năm nước ta vẫn phải nhập khẩu từ trên dưới 1 triệu tấn ngô
hạt.
Để đáp ứng nhu cầu về ngô ngày càng tăng và tiến tới xuất khẩu, cần thiết phải
đưa thêm vào sản xuất các giống ngô lai mới có năng suất cao. Đồng thời cần nghiên
cứu và áp dụng những biện pháp kĩ thuật tiên tiến như mật độ, thời vụ gieo trồng,
phân bón, phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc… Trong đó việc bón phân cho ngô ở các
thời kì phát triển của ngô có tác dụng tăng năng suất rõ rệt. Theo Berzeni và Gyorff
(1966) [2] thì bón phân ảnh hưởng tới 30,7% năng suất ngô, còn các yếu tố khác như
mật độ, phòng trừ cỏ dại, đất trồng có ảnh hưởng ít hơn. Trong các nguyên tố dinh
dưỡng thiết yếu của cây ngô thì đạm là nguyên tố quan trọng nhất đối với cây. Đạm
làm cho lá cây thêm xanh, cây sinh trưởng mạnh. Thiếu đạm cây còi cọc, lá vàng,
trọng lượng hoa quả giảm nên năng suất có thể giảm 50%. Sự hút các chất dinh
dưỡng thay đổi theo các giai đoạn sinh trưởng phát triển của ngô.
Ngoài ra, cây ngô còn được sự dụng làm lương thực với nhiều mức độ khác
nhau. Hàng năm, khoảng 21% sản lương ngô làm lương thực cho 6 tỷ người trên
hành tinh, trong đó tâp chung chủ yếu ở các nước Trung Mỹ, Nam Á, Châu Phi. Ngô
được sử dụng lám lương thực với nhiều phương thức khác nhau như: Sản suất bánh

mì dẹt gọi la Asihmerha có thể bảo quản được từ 5-7 ngày trong thùng kín ở Ai Cập,
ở Mexico người ta dùng bột ngô nấu với nước vôi loãng để tạo thành đồ uống quen
thuộc như Atole Tâmlitos ngô còn được sử dụng làm nguyên liệu của ngành công
nghiệp lương thực- thực phẩm, công nghệ y dược và công nghiệp nhẹ để sản xuất
rượu, cồn, tinh bột, dầu, glucozơ, bánh kẹo Còn ở nước ta đồng bào miền núi
thường dùng ngô làm lương thực như mèn mén, bánh ngô, ngô bung, rượu ngô, ngô
luộc, xôi ngô
Với đặc tính thích ứng rộng trong các điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai nên
cây ngô được trồng ở tất cả các vùng miền trong cả nước. Trong 10 năm gần đây, nhờ
có các chính sách khuyến khích của Nhà nước, nhiều tiến bộ kỹ thuật được áp dụng,
đặc biệt là cuộc cách mạng trong lĩnh vực giống ngô lai. Nhiều giống ngô lai cho
năng suất cao, phẩm chất tốt như Bioseed9681, Bioseed9999, ĐK888, Pioneer,
CP888, CP999, C919, G49, P11, B06, LVN10, LVN25, LVN4, LVN99… đã được
đưa vào sản xuất. Trong đó, có nhiều giống ngô có ưu thế lai cao được phát triển ở
2
3
nhiều vùng miền đã làm cải thiện đáng kể năng suất và sản lượng ngô trong nhiều
năm gần đây. Tuy nhiên, do nhu cầu sử dụng ngô của nước ta ngày càng tăng nên
việc sản xuất ngô trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nên hàng năm nước ta vẫn phải
nhập khẩu một lượng lớn ngô cho tiêu dùng
Việc đưa các giống mới vào sản xuất là điểm mấu chốt để làm tăng năng suất
ngô ở nước ta nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Tuy nhiên, đối với mỗi loại
giống mới thì việc xác định biện pháp kỹ thuật trồng trọt hợp lý là rất cần thiết cho
mỗi điều kiện sinh thái khác nhau
Giống ngô lai LVN99 là giống lai đơn do Viện Nghiên cứu ngô lai tạo năm
1995 theo phương pháp lai đỉnh và luân giao. Giống bắt đầu được đưa vào mạng lưới
khảo nghiệm ngô quốc gia từ năm 2000 và đưa vào sản xuất thử năm 2002. Giống
được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận giống chính thức năm 2004 cho vụ xuân,
thu và đông ở đồng bằng Bắc bộ; vụ hè - thu, thu - đông ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Ở nước ta đây là giống ngô mới, qua kết quả khảo nghiệm cơ bản từ năm 2004

cho thấy đây là giống ngô có nhiều tiềm năng cho năng suất cao và phẩm chất tốt.
Đặc biệt, giống ngô LVN99 có hình thái cây đẹp, góc lá nhỏ nên rất phù hợp cho hoạt
động quang hợp, là giống có triển vọng nhất trong tập đoàn các giống ngô khảo
nghiệm sơ bộ tại Việt Nam theo hướng chịu hạn và rất phù hợp trồng dày để tăng
năng suất trên một đơn vị diện tích.
Kết quả sản xuất thử tại các vùng trồng ngô trong nước rất tốt, cho năng suất
cao, ổn định tại các vùng và các mùa vụ khác nhau. Diện tích sản xuất được mở rộng
rất nhanh, từ 189 ha ở vụ đầu (Thu- Đông 2006), đến vụ Đông và Hè- Thu 2007 đã
tăng lên 4.177 ha. Hiện nay, giống LVN99 đang được trồng phổ biến tại một số địa
phương như Hoà Bình, Sơn La, Lào cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Vĩnh Phúc,
Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hoá,
Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, An Giang, Lâm Đồng, Đắc Lắc,… Tuy nhiên,
tại các địa phương trồng giống ngô LVN99 vẫn chỉ áp dụng quy trình kỹ thuật chung
cho các giống ngô lai nhưng chua xác định được kỹ thuật bón thúc đầu cho ngô vào
thới kỳ ra 3-5 lá, nên chưa khai thác một cách tốt nhất tiềm năng của giống ngô đặc
điểm hình thái cây ngô LVN99 có góc lá hẹp nên rất phù hợp cho việc gia tăng mật
3
4
độ cây trên một đơn vị diện tích trồng trọt. Vì vậy, nghiên cứu xác định lượng phân
đạm thích hợp bón thúc vào giai đoạn 3-5 lá cho giống ngô LVN99 đạt năng suất,
chất lượng cao nhất tương xứng với tiềm năng của nó là rất cần thiết.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Ảnh hưởng của liều
lượng đạm bón thúc vào thời kỳ 3 - 5 lá đến sinh trưởng và năng suất của giống
ngô LVN99 vụ dông 2011 tại trường ĐHNL Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
Xác định ảnh hưởng của liều lượng N khác nhau bón thúc cho ngô LVN99 vào
thời kỳ (3– 5 lá) đến sinh trưởng và năng suất hiệu quả kinh tế đối với giống ngô
LVN99
Trên cơ sở đó đề xuất mức phân bón thúc thích hợp nhằm tăng năng suất, hiệu

quả kinh tế đối với giống ngô LVN99 tại Thái Nguyên cũng như một số tỉnh ở miền
núi phía Bắc
1.2.2. Yêu cầu
-Nghiên cứu ảnh hưởng của mức đạm bón thúc khác nhau ở thời kỳ 3-5 lá đến
sinh trưởng, phát triển và đặc điểm hình thái cũng như khả năng chống chịu của
giống ngô lai đơn LVN99
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm bón khác nhau ở thời kỳ 3-5 lá
đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất cũng như hiệu quả kinh tế của giông
ngô LVN99
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Đối với học tập : giúp các học viên củng cố kiến thức, có điều kiện tiếp cận
với phương pháp nghiên cứu khoa học và áp dụng được những kiến thức lý thuyết đã
học vào thực tiễn sản xuất.
- Đối với nghiên cứu khoa học : Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp dẫn liệu khoa học
về ảnh hưởng của mức đạm bón thúc vào thời kỳ 3-5 lá đến sinh trưởng, phát triển, năng
suất và hiệu quả kinh tế đối với giống ngô lai đơn LVN99
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
4
5
- Từ kết quả nghiên cứu đề xuất mức phân đạm khác nhau bón thúc thích hợp
nhằm tăng năng suất, hiệu quả kinh tế đối với giống ngô LVN99 trên một đơn vị diện
tích.
- Kết quả nghiên cứu góp phần từng bước xây dựng quy trình kỹ thuật thâm
canh giống ngô lai đơn LVN99 tại trường Thái Nguyên và một số tỉnh ở miền núi
phía Bắc với lượng phân đạm bón thúc thích hơp để giống ngô LVN99 đạt hiệu quả
kinh tế cao nhất.
5
6
PHẦN 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong công cuộc nâng cao năng suất cây trồng nông nghiệp nói chung và cây
ngô nói riêng mục tiêu của các nhà khoa học là khai thác tính đa dạng di truyền hay
những biến dị có lợi của vốn gen hiện có, nghiên cứu mật độ trồng thích hợp, cân đối
hợp lý lượng phân bón (phân chuồng, phân đạm, lân, kali) để đạt năng suất cao nhất,
chất lượng tốt nhất.
Trong các nguyên tố dinh dưỡng thiết yếu cho cây ngô thì đạm (N) là nguyên
tố quan trọng bậc nhất. Bón đạm thúc đẩy quá trình tăng trưởng của cây, làm cho lá
cây có kích thước to, màu xanh, lá quang hợp mạnh, do đó làm tăng năng suất cây vì
vậy người ta gọi đạm là “động cơ sinh trưởng của ngô”. Đạm là chất dinh dưỡng rất
cần thiết và rất quan trọng đối với cây. Đạm là nguyên tố tham gia vào thành phần
chính của clorophin, prôtit, các axit amin, các enzym và nhiều loại vitamin trong cây.
Phân đạm cần cho cây trong suốt quá trình sinh trưởng, đặc biệt là giai đoạn
cây sinh trưởng mạnh.
Thiếu đạm cây sinh trưởng kém còi cọc, lá cây màu vàng, diện tích lá, năng suất đều
giảm. Thiếu đạm cò thể làm giảm 50% năng suất của ngô. Vì vậy đạm có ảnh hưởng
nhanh và rất rõ rệt đến khả năng phát triển và khả năng cho năng suất của cây ngô.
Cây ngô cần đạm ngay từ đầu tức là ngay từ khi nảy mầm lúc này cây ngô cần
lượng nhỏ nhưng lại rất quan trọng. Nhịp độ hút đạm lớn dần và cao nhất là lúc cây
trổ cờ, sự hút đạm của cây ngô kéo dài đến khi hạt chín. Có thể phân tích lượng đạm
trong lá để đánh giá hiệu quả cung cấp đạm và khả năng cho năng suất của ngô.
Chính vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của lượng phân bón vào sản
xuất là rất cần thiết để đưa ra lượng phân bón hợp lý góp phần làm tăng năng suất và
sản lượng ngô của tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam
6
7
2.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Có thể nói rằng,

trong 3 cây ngũ cốc chính của loài người: lúa nước, lúa mỳ và ngô thì không có cây
nào sánh kịp với cây ngô về tiềm năng năng suất, về quy mô và hiệu quả của ưu thế
lai. Từ những năm cuối thế kỷ 20, nghề trồng ngô trên thế giới đã có những bước
phát triển kỳ diệu nhờ ứng dụng rộng rãi ưu thế lai, kỹ thuật nông học tiên tiến và
những thành tựu của công nghệ sinh học, công nghệ chế biến và bảo quản…đã đưa
sản lượng ngô thế giới vượt lên trên lúa mỳ và lúa nước.Hiện nay trên thế giới có
khoảng 140 nước trồng ngô, trong đó có 38 nước là các nước phát triển còn lại là các
nước đang phát triển (Báo cáo tổng kết 29 của ISAAA) [20].
Trong vòng 40 năm trở lại đây, ngành sản xuất ngô đã có những tiến bộ vượt
bậc: Năng suất ngô trung bình của thế giới vào năm 1961 chỉ chưa đạt đến 20 tạ/ha,
đến năm 2004 đã đạt hơn 49 tạ/ha. Sản lượng ngô đã tăng từ 204 triệu tấn lên đến
729,21 triệu tấn, trong khi diện tích chỉ tăng từ 104 triệu lên 147,47 triệu ha. So với
lúa nước năm 1961 có diện tích là 115,26 triệu ha, năng suất 18,7 tạ/ha và sản lượng
là 215,27 triệu tấn: năm 2004 diện tích là 150,78 triệu ha, năng suất 40 tạ/ha, sản
lượng 607,77 triệu tấn. Còn lúa mỳ năm 1961 có diện tích là 200,88 triệu ha, năng
suất 10,9 tạ/ha, sản lượng 219,22 triệu tấn và năm 2004 thì các số liệu tương ứng là
211,95 triệu ha, 30 tạ/ha và 625,05 triệu tấn (FAO 2011)[30]
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô, lúa mỳ và lúa nước của thế giới
năm 2010
Loại
Cây trồng
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Ngô 162,3 50,6 820,6
Lúa mỳ 222,39 29,1 648,21
7

8
Lúa nước 158,32 43,0 680,7
(Nguồn: FAOSTAT, 2011USDA, 2012;)[30]
Ngành sản xuất ngô trên thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Năm
2010, diện tích ngô đã vượt qua lúa nước, với 162,3 triệu ha, năng suất 50,6 tạ/ha và
sản lượng đạt kỷ lục 820,6 triệu tấn. Trong hơn 40 năm qua, ngô là cây trồng có tốc
độ tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các cây lương thực chủ yếu. So với năm
1961, năm 2010 năng suất ngô trung bình của thế giới tăng thêm 31,6 tạ/ha( từ hơn
19,0 tạ/ha lên 50,6 tạ/ha), lúa nước tăng 24 tạ/ha ( từ 19,0 lên 43 tạ/ha), còn lúa mỳ
thêm 19 tạ/ha ( từ 10,9 lên 29,1 tạ/ha) (FAOSTAT, 2010; USDA, 2011)[30]
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất ngô của thế giới giai đoạn 2000- 2010
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2000 137,00 43,25 592,48
2001 137,49 44,77 615,48
2002 137,29 44,06 640,92
2003 144,67 44,60 645,23
2004 145,0 49,0 714,8
2005 1456,0 48,0 696,3
2006 148,6 47,0 704,2
2007 159,9 49,5 791,6
2008 156,4 50,3 787,3
2009 155,7 51,9 809,0
2010 162,3 50,6 820,6
(Nguồn FAOSTAT, 2011 và USDA, 2012)[30]

Qua số liệu bảng 2.2 cho thấy diện tích trồng ngô tăng liên tục từ năm 2000
đến năm 2008, từ 137 triệu ha ( năm 2000) tăng lên 156,4 triệu ha (năm 2008). Đến
năm 2009 thì cả diện tích, sản lượng đều giảm nhưng năng suất lại đạt cao nhất từ
trước đến nay với 809,0 triệu tấn. Đến năm 2010 cả diện tích, sản lượng đều tăng. Có
được kết quả trên, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế lai trong chọn
8
9
tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác. Đặc biệt
từ năm 1996 đến nay cùng với những thành tựu mới trong chọn giống ngô lai nhờ kết
hợp phương pháp truyền thống với công nghệ sinh học thì việc ứng dụng công nghệ
cao trong canh tác cây ngô đã góp phần đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên trên lúa
mỳ và lúa nước, năng suất ngô trên thế giới đã tăng 1,83 lần trong vòng 30 năm (1960-
1990), nhất là các nước có điều kiện thâm canh như Mỹ, Trung Quốc, Brazil. Tình hình
sản xuất ngô của một số nước trên thế giới được trình bày ở bảng 2.3.
Bảng 2.3: Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2010
Nước
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Mỹ 32,96 95,92 316,16
Trung Quốc 32,51 54,59 177,54
Brazil 12,81 43,74 56,06
Mexico 7,14 32,59 23,3
Ấn Độ 7,18 19,58 14,06
Italia 0,92 95,33 8,82
Đức 0,46 87,85 4,07
Hy Lạp 0,18 117,26 2,19

Israel 0,0029 283,91 0,084
(Nguồn FAOSTAT, 2012) [30]
Mỹ là một nước phát triển có năng suất ngô tăng từ 2-3 lần trong thời kỳ trên.
Hiện nay Mỹ là nước sản xuất ngô lớn nhất thế giới, chiếm hơn 40% tổng sản lượng
ngô thế giới. Theo Rinke.E (1979) [36] việc sử dụng các giống ngô lai ở Mỹ bắt đầu
từ năm 1930. Hiện nay 100% diện tích ngô của Mỹ là trồng các giống ngô lai trong
đó hơn 90% là giống ngô lai đơn (Ngô Hữu Tình, 2009) [21]. Nhiều thí nghiệm ở Mỹ
về các giống ngô lai đơn đã cho năng suất đạt 25 tấn/ha/vụ. Người ta đã tính được
mức độ tăng năng suất ngô ở Mỹ trong giai đoạn 1930-1986 là 103 kg/ha/năm, trong
đó sự đóng góp do cải tiến nền di truyền là 63 kg/ha/năm vào cuối thế kỷ 19, Mỹ đã
có 770 giống ngô cải lượng (Duvick D.N, 1990) [28]. Trong thời gian gần đây, nếu
như phần lớn các nước phát triển năng suất ngô tăng không đáng kể, thì năng suất
ngô ở Mỹ lại có sự tăng đột biến.
Kết quả đó có được là nhờ ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất. Theo
Ming Tang Chang và cộng sự (Minh Tang Chang et al, 2005) [33] cho biết: Ở Mỹ chỉ
còn 48% giống ngô được chọn tạo theo công nghệ truyền thống, 52% là bằng công
nghệ sinh học. Năng suất ngô ở Mỹ đã tăng từ 1,5 tấn/ha vào năm 1930 đến 7 tấn/ha
9
10
vào những năm 1990 (SK.Vasal et al, 1990) [39]. Năm 2010 tổng sản lượng ngô của
Mỹ là 316,16 triệu tấn/ha, trên diện tích 32,96 triệu ha.
Trung Quốc là nước đứng thứ 2 trên thế giới về diện tích trồng ngô, sản lượng
ngô năm 2010 - 2011 của Trung Quốc tăng 7,1% so với năm 2009, và vượt kỷ lục
177,54 triệu tấn năm 2010, tuy nhiên diện tích ngô tăng không nhiều (tăng 1%). Do
có trình độ khoa học kỹ thuật và thâm canh cao nên Israel là nước đứng đầu về năng
suất với 283,91 tạ/ha, năng suất ngô thấp nhất là Ấn Độ (19,58 tạ/ha). Trong sản xuất
hiện nay có sự khác biệt rõ ràng về năng suất giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển. Năng suất ngô trung bình của các nước phát triển là 7,8 tấn/ha, các
nước đang phát triển là 2,7 tấn/ha. Hai nguyên nhân chính dẫn đến sự chênh lệch này
là:

- Tỷ lệ sử dụng giống ngô lai khác nhau trong sản xuất. Ở các nước phát triển
90-100% diện tích ngô được trồng bằng các giống lai có ưu thế lai cao, trong khi đó
các nước đang phát triển diện tích trồng giống ngô lai rất thấp (37% diện tích) chủ
yếu là trồng các giống thụ phấn tự do (63% diện tích) (CIMMYT, 1991-1992) [25].
Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình Lương thực thế giới (IPRI,
2003) [32] vào năm 2020 tổng nhu cầu ngô thế giới là 852 triệu tấn, trong đó 15%
dùng làm lương thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16% dùng làm nguyên liệu
cho công nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ dùng 5% ngô làm lương thực nhưng ở các
nước đang phát triển tỷ lệ này là 22%, dự báo nhu cầu ngô trên thế giới năm 2020
được trình bày ở bảng 2.4
Bảng 2.4: Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020
Vùng
Năm 1997
(triệu tấn)
Năm 2020
(triệu tấn)
Tăng so với
năm 1997 (%)
Thế giới 586 852 45
Các nước đang phát triển 295 508 72
Đông Á 136 252 85
Nam Á 14 19 36
Cận Sahara - Châu Phi 29 52 79
Mỹ Latinh 75 118 57
Tây và Bắc Phi 18 28 56
(Nguồn: IPRI 2003) [32]
Như vậy đến năm 2020, nhu cầu ngô thế giới tăng 45% so với nhu cầu năm
1997, chủ yếu tăng cao ở các nước đang phát triển (72%), riêng Đông Á nhu cầu tăng
85% so với năm 1997.
10

11
2.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ở nước ta ngô là cây trồng nhập nội và mới được đưa vào trồng khoảng hơn 300
năm nhưng đã nhanh chóng trở thành một trong những cây trồng quan trọng trong hệ
thống cây lương thực của Việt Nam. Do có khả năng thích ứng rộng với các điều kiện
sinh thái khác nhau, bên cạnh đó điều kiện ở nước ta rất thuận lợi cho cây ngô sinh
trưởng và phát triển, nên cây ngô đã được mở rộng ra sản xuất và khẳng định được vị
trí của mình trong sản xuất nông nghiệp. Cây ngô đã trở thành cây lương thực quan
trọng thứ hai sau lúa, đồng thời là cây màu số một, góp phần đáng kể trong việc giải
quyết lương thực tại chỗ cho người dân Việt Nam.
Tình hình sản xuất ngô ở nước ta qua các giai đoạn lịch sử phát triển không
đồng đều. Quá trình phát triển của cây ngô ở Việt Nam được chia thành ba giai đoạn
chính, đó là:
Giai đoạn từ 1960 – 1980: Giai đoạn này chủ yếu sử dụng các giống ngô địa
phương với kỹ thuật canh tác lạc hậu nên năng suất và sản lượng ngô rất thấp. Theo
thống kê năng suất ngô ở Việt Nam những năm 1960 chỉ đạt trên 10 tạ/ha, với diện
tích hơn 200 nghìn ha; đến đầu những năm 1980, năng suất cũng chỉ đạt 11 tạ/ha và
sản lượng hơn 400 nghìn tấn.
Giai đoạn từ 1981 – 1992: diện tích tăng chậm, năng suất ngô tăng không đáng
kể, từ 11 tạ/ha (1980) lên 15 tạ/ha (1992), bình quân mỗi năm tăng 3,5%. Mặc dù giai
đoạn này đã sử dụng các giống thụ phấn tự do nhưng chủ yếu là giống tổng hợp, hỗn
hợp nên năng suất vẫn còn thấp.
Giai đoạn từ 1993 đến nay: đây là giai đoạn sản xuất ngô ở Việt Nam thực sự
có những bước tiến nhảy vọt, gắn liền với việc không ngừng mở rộng giống ngô lai ra
sản xuất, đồng thời cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác theo đòi hỏi của giống
mới. Ngô lai là nguồn động lực mới, một nhân tố mới, một định hướng chiến lược
trong chương trình nghiên cứu và phát triển ngô ở Việt Nam. Năm 1990 chúng ta mới
bắt đầu trồng ngô lai với diện tích thử nghiệm 5 ha, năm 2006 diện tích ngô lai đã đạt
84%, đưa năng suất ngô từ 15,5 tạ/ha lên 37,3 tạ/ha. Việt Nam có tốc độ phát triển
ngô rất nhanh chóng trong lịch sử ngô lai thế giới. Đây là bước tiến vượt bậc so với

một số nước trong vùng đã được CIMMYT đánh giá cao. Tình hình sản xuất ngô ở
Việt Nam trong những năm gần đây được thể hiện ở bảng 2.5:
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam giai đoạn 2000- 2010
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
11
12
2000 730,2 27,5 2005,9
2001 729,5 29,6 2161,7
2002 816,0 30,8 2511,2
2003 912,7 34,4 3136,3
2004 991,1 34,6 3430,9
2005 1052,6 36,0 3787,1
2006 1033,1 37,3 3854,6
2007 1096,1 38,5 4303,2
2008 1125,9 39,7 4531,2
2009 1086,8 40,8 4431,8
2010 1126,9 40,9 4606,8
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2012 )[18]
Trong 9 năm trở lại đây Việt Nam đã phát triển mạnh cây ngô trên cả 3 mặt:
diện tích, năng suất, sản lượng. Diện tích trồng ngô được mở rộng từ 730,2 nghìn ha
(năm 2000) lên đến 1126,9 nghìn ha (năm 2010), năng suất từ 27,5 tạ/ha (năm 2000)
tới 40,9 tạ/ha (năm 2010), do đó kéo theo sản lượng năm 2010 tăng gấp 2,3 lần so với
năm 2000. Từ năm 2000 – 2010 tốc độ tăng trưởng về diện tích là 39,67 nghìn

ha/năm, năng suất là 1,34 tạ/ha/năm, sản lượng là 260,09 nghìn tấn/năm.Tổ chức
lương thực thế giới FAO và Trung tâm Ngô quốc tế (CIMMYT) đã đánh giá: chương
trình phát triển cây ngô của Việt Nam là một trong ba chương trình ngô lai mạnh nhất
ở Châu Á (Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan), đó là kết quả rất đáng khích lệ.
Ở Việt Nam cây ngô được trồng khắp hai miền Nam- Bắc, song do yếu tố đất
đai, thời tiết, khí hậu nên năng suất và sản lượng ở các vùng có sự khác biệt rõ rệt.
Bảng 2.6: Diện tích, năng suât, sản lượng ngô ở các vùng ngô chính của Việt
Nam năm 2010
Vùng
Diện tích
(1000ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
Cả nước 1126,9 40,9 4606,8
Đồng bằng sông Hồng 97,6 45,2 441,0
Trung du và miền núi phía Bắc 460,0 33,2 1527,1
Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam
Trung Bộ
213,6 39,9 851,7
Tây Nguyên 236,6 49,2 1164,6
12
13
Đông nam bộ 81,3 52,0 422,7
Đồng Bằng sông Cửu Long 37,8 52,9 199,7
(Nguồn Tổng cục thống kê, 2012)[18]
Qua số liệu bảng 2.6 cho thấy: vùng có diện tích trồng ngô lớn nhất nước ta đó
là vùng Trung du và miền núi phía bắc với diện tích trồng ngô năm 2010 là 460,0
ngàn ha, chiếm 40,8% diện tích ngô cả nước. Diện tích trồng ngô ở đây lớn nhưng lại

phân bố rải rác, địa hình phức tạp, khí hậu khắc nghiệt, hạn và rét thường kéo dài,
lượng mưa không phân bố đều trong năm nên năng suất không cao, năm 2010 năng
suất là 33,2 tạ/ha thấp nhất so với các vùng trong cả nước. Nhưng đây vẫn là vùng có
sản lượng ngô lớn nhất nước ta, năm 2010 với sản lượng là 1527,1 nghìn tấn, chiếm
33,15% sản lượng toàn quốc. Các vùng cũng sản xuất nhiều ngô là vùng Tây Nguyên,
Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích trồng ngô nhỏ nhất nhưng lại
có năng suát cao nhất trong cả nước, năm 2010 năng suất ngô ở vùng này là 52,9
tạ/ha bằng 129,34% năng suất ngô cả nước.
Từ những kết quả đạt được chứng tỏ vị thế của cây ngô trong nền sản xuất
nông nghiệp nước ta. Tuy vậy so với thế giới thì năng suất ngô ở nước ta còn thấp
hơn nhiều, do đó sản xuất ngô ở nước ta rất cần có những bước phát triển nhảy vọt
với những bước đi cụ thể để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cả nướcũng như theo kịp thế
giới và bè bạn năm châu.
*Khó khăn trong sản xuất ngô của Việt Nam
Năng suất ngô của nước ta còn thấp so với năng suất ngô trung bình của thế
giới (năm 2008 năng suất ngô của Việt Nam đạt 40,2 tạ/ha, bằng 78,7% năng suất
ngô thế giới), năng suất thực tế thấp hơn nhiều so với tiềm năng, giá thành sản xuất
ngô còn cao, cạnh tranh gay gắt giữa ngô và các cây trồng khác.
Khí hậu toàn cầu đang biến đổi phức tạp, đặc biệt là hạn hán, lũ lụt ngày càng
nặng nề hơn, nhiều sâu bệnh hại mới xuất hiện, sản xuất ngô ở nhiều nơi đang gây
nên tình trạng xói mòn, rửa trôi đất.
Các giống ngô thực sự chịu hạn và các điệu kiện bất thuận khác như đất xấu,
chua phèn, kháng sâu bệnh, có thời gian sinh trưởng ngắn đồng thời cho năng xuất
cao và ổn định… nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả canh tác cho người sản xuất
vẫn chưa nhiều. Đặc biệt các biện pháp kỹ thuật canh tác, mặc dù đã được cải thiện
nhiều song vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của giống mới.
13
14
*Thách thức đối với sản xuất ngô ở Việt Nam

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng sản xuất ngô nước ta
vẫn còn nhiều hạn chế. Năng suất có sự tăng trưởng đáng kể nhưng so với thế giới
năng suất ngô của Việt Nam vẫn còn thấp.
Giá thành ngô cao do giá giống và vật tư cao. Điều đó làm cho giá ngô trong
nước luôn cao hơn so với giá ngô thế giới từ 30-40%. Giá ngô cao cũng làm cho giá
thành sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam cao hơn các nước và giảm khả năng cạnh
tranh của sản phẩm.
Mặc dù sản xuất ngô trong nước phát triển mạnh song do nhu cầu nguyên liệu
để chế biến thức ăn gia súc ngày càng tăng nên hàng năm nước ta vẫn phải nhập một
khối lượng đáng kể ngô làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thức ăn gia súc.
Năm 2007 nhập 585.221 tấn ngô hạt để làm thức ăn chăn nuôi (Tổng cục thống kê,
2009) [17].
Công nghệ sau thu hoạch chưa được quan tâm đúng mức. Năng suất và hiệu
quả sản xuất ngô có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng.
Bộ giống ngô còn hạn chế. Các giống ngắn ngày, chịu hạn, ít sâu bệnh, năng
suất cao chất lượng tốt vẫn còn thiếu, đặc biệt là phía Nam.
Một số biện pháp kỹ thuật canh tác như mật độ, thời vụ, phân bón vẫn chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống. Quy trình canh tác giống mới vẫn còn chung
chung chưa cụ thể cho từng giống, từng vùng.
Chính vì vậy để phát triển sản xuất ngô ở Việt Nam phải nhanh chóng tạo ra
được những giống ngô lai có năng suất cao, chất lượng tốt và quan trọng là phù hợp
với điều kiện sinh thái Việt Nam. Đây là vấn đề khó, đòi hỏi đầu tư nhiều công sức,
tiền của, thời gian và muốn thành công phải có được những yếu tố công nghệ cao, hệ
thống sản xuất hạt giống chất lượng tốt như làm khô, chế biến, đóng gói công nghiệp
để đảm bảo chất lượng ngang tầm hạt giống của các công ty nước ngoài. Ngoài ra
phải có chiến lược để giành lại thị trường dựa vào tiêu chí chất lượng cao, giá thành
hạ.
2.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là tỉnh miền núi Trung du Bắc Bộ, có diện tích tự nhiên 3.562.82
km

2
, dân số hiện nay khoảng 1.046.000 người chiếm 1,13% diện tích và 1,41% dân
số so với cả nước [5].
Với điều kiện đất đai phức tạp gây cản trở lớn trong việc sản xuất ngô của tỉnh. Đại
đa số các huyện còn nghèo nàn, cơ sở vật chất, trình độ thâm canh còn thấp. Điều
14
15
kiện tự nhiên phức tạp, hệ thống thuỷ lợi còn chưa đáp ứng được nhu cầu nước tưới
cho nên sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất ngô nói riêng còn nhiều hạn chế.
Bảng 2.7: Tình hình sản xuất ngô tại Thái Nguyên giai đoạn 2001 – 2010
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2001 9,7 30,6 29,7
2002 11,6 32,8 38
2003 13,4 32,6 43,7
2004 15,9 34,3 54,6
2005 15,9 34,7 55,1
2006 15,3 35,2 53,9
2007 17,8 42,0 74,8
2008 20,6 41,1 84,6
2009 17,4 38,6 67,2
2010 17,9 42,1 75,4
Nguồn: Tổng cục thống kê, năm 2012 [18]
Từ 1995 trở về trước, sản xuất ngô ở Thái Nguyên chủ yếu dùng các giống cũ,
giống địa phương có thời gian sinh trưởng dài, năng suất thấp. Sau một thời gian với

sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương, có sự tham gia tích cực
của đội ngũ các nhà khoa học, diện tích trồng ngô lai ngày càng tăng, thay thế dần
các giống ngô địa phương. Đến nay diện tích trồng ngô lai tăng mạnh, chiếm trên
90% diện tích mang lại năng suất, sản lượng vượt trội trong sản xuất.
Qua số liệu bảng 2.7 cho thấy diện tích, năng suất, sản lượng ngô đều tăng
đáng kể. Diện tích trong giai đoạn này tăng khá nhanh từ 9,7 lên 17,9 nghìn ha. Nhìn
chung, năng suất ngô của tỉnh trong 10 năm gần đây đều tăng. Năng suất ngô tăng
0,77 tạ/ha/năm. Sản lượng ngô tăng từ 29,7 nghìn tấn năm 2001 lên 75,4 nghìn tấn
năm 2010 (tăng 45,7 nghìn tấn/năm). Sản lượng ngô tăng chậm là do diện tích đất
trồng ngô ở nhiều vùng ở Thái Nguyên bị thu hẹp, một số nơi chuyển sang trồng các
cây công nghiệp khác, năng suất lại tăng chậm. Năm 2008 diện tích, năng suất và sản
lượng đều tăng lên đáng kể.
Từ những kết quả thống kê trên cho thấy những năm tiếp theo diện tích trồng
ngô của tỉnh có xu hướng ổn định. Tuy nhiên năng suất ngô vẫn tiếp tục tăng lên
không ngừng.
2.3. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới
15
16
Cây ngô là một cây ngũ cốc quang hợp theo chu trình C4, là cây ưa nhiệt, có hệ
thống rễ chùm phát triển (FAO, 1995) [29], nên việc bón phân cho ngô có tác dụng
tăng năng suất rất rõ rệt. Theo Berzenny và Gyorff (1996) [2] phân bón ảnh hưởng tới
30,7% năng suất ngô còn các yếu tố khác như mật độ, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại,
đất trồng có ảnh hưởng nhưng ít hơn. Sự hút các chất dinh dưỡng cho ngô thay đổi
theo các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của ngô. Dựa vào biến đổi hình thái của ngô
để xác định nhu cầu dinh dưỡng từng thời kì cho ngô.
Để đạt năng suất cao và ổn định ngô cần được bón phân cân đối, đặc biệt là
giữa các yếu tố NPK. Theo Johnson và cs (dẫn theo De. Geus, 1973) [27], năng suất
trung bình của các giống ngô lai là 6.838 kg/ha, với liều lượng phân bón: 95 N - 67
P

2
O
5
– 20 K
2
O kg/ha. Mức bón phân khuyến cáo cho ngô ở Đài Loan là 175 kg N +
95 kg P
2
O
5
+ 70 kg K
2
O kg/ha (Shan, 1994) [37].
Nhu cầu dinh dưỡng của ngô tùy thuộc vào giống và tiềm năng cho năng suất.
Ngô lai năng suất 4,5 tấn/ha tổng lượng hút 115 kg N, 20 kg P
2
O
5
, 75 kg K
2
O, 9 kg
Ca, 16 kg Mg, 12 kg S/ha. Ngô địa phương năng suất 2,5 tấn/ha tổng lượng hút 65 kg
N, 11 kg P
2
O
5
,42 kg K
2
O, 5 kg Ca, 16 kg Mg, 12 kg S/ha (Thomas Dieroff và cs,
2001) [40]

Đối với ngô, đạm là nguyên tố quan trọng bậc nhất. Đạm làm cho lá thêm
xanh, cây sinh trưởng mạnh, vì vậy người ta gọi đạm là “động cơ sinh trưởng” của
ngô. Đạm là yếu tố cấu thành nên tất cả các bộ phận sống, là thành phần của nhiễm
sắc thể, gen, anbumin, amino axit… Đạm cũng là thành phần cấu trúc của vách tế
bào. Đạm là yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng của cây và là thành phần của tất cả
protein. Đạm là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất để xác định năng suất ngô. Khi
thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào ở đỉnh sinh
trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước cây và năng suất giảm.
Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu quả ngay từ đầu vụ và duy trì một
diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá trình đồng hóa quang hợp đạt cực đại
(Patrick, 2001 [34]; Wolfe và CS, 1988 [43]). Các giống ngô lai khác nhau có thể sử
dụng phân đạm ở mức khác nhau, năng suất cây trồng cao cần phải cung cấp một
lượng lớn phân bón, đặc biệt là đạm (Debreczeni, 2000) [26].
Theo Uhart và Andrade (1995) [41], [42], thiếu đạm làm chậm sinh trưởng của
hai giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực, hạn chế hiệu quả sử
dụng bức xạ, nhất là thời kì ra hoa có tính quyết định số lượng hạt ngô, thiếu N trong
thời kì này làm giảm khả năng đồng hóa C của cây, làm giảm năng suất hạt. Dự trữ
16
17
đạm ở cây ngô có ảnh hưởng rất lớn đối với sự sinh trưởng và phát triển lá, sự tích
lũy sinh khối và sự tăng trưởng của hạt, ảnh hưởng về sau của đạm là quan trọng khi
đánh giá phản ứng của cây trồng đối với phân N.
Kết quả nghiên cứu của Sinclair và Muchow (1995) [38] cho biết, hàng thập
kỷ gần đây, năng suất ngô tăng lên có liên quan chặt chẽ với mức cung cấp N cho
ngô. Đạm được cây ngô hút với một lượng lớn và đạm có ảnh hưởng khác nhau rõ rệt
đến sự cân bằng anion và cation ở trong cây. Khi cây hút N - NH
4
+
thì sự hút các
cation khác chẳng hạn như K

+
, Ca
2
+
, Mg
2
+
sẽ giảm trong khi sự hút anion, đặc biệt là
Phophorus sẽ thuận lợi. Xảy ra theo chiều hướng ngược lại, khi cây hút Nitrat, tùy
thuộc vào tuổi của cây, với cây ngô non sự hút amonium - N nhanh hơn sự hút đạm
nitrat, trái lại các cây ngô già dạng đạm hút chủ yếu là đạm nitrat và có thể chiếm tới
hơn 90% tổng lượng đạm cây hút (dẫn theo Arnon, 1974) [24].
Rhoads (1984)[35] thực hiện thí nghiệm ngô tưới nước theo rãnh cho thấy:
Năng suất ngô 1.200 kg/ha khi không bón đạm và 6.300 kg/ha khi bón 224 kg/ha N
trên đất chưa bao giờ trồng ngô và năm trước đó không bón đạm. Ở năm tiếp theo
năng suất ngô là 4.400 kg/ha khi không bón đạm và 7.000 ka/ha khi bón ở mức 224
kg/ha.
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng vai trò của phân đạm và S đến sự sinh trưởng,
năng suất và chất lượng của giống ngô lai (Cargill 707), tác giả Hussain và CS (1999)
[31] cho rằng sự cung cấp phân bón ở các mức 150N + 30S và 150N + 20S (kg/ha)
làm tăng một cách tương ứng khối lượng chất khô/cây, số hạt/bắp và khối lượng
hạt/bắp so với các xử lý khác. Năng suất ngô đạt cao nhất (5,59 tấn/ha) ở công thức
bón 150N + 30S (kg/ha).
Theo Velly và cộng sự (dẫn theo De.Geus, 1973) [27], khi bón cho ngô với liều
lượng: 40 kg N/ha năng suất thu được 12,11 tạ/ha; 80 kg N/ha năng suất thu được
15,61 tạ/ha; 120 kg N/ha năng suất thu được 32,12 tạ/ha; 160 kg N/ha năng suất thu
được là 41,47 tạ/ha; 200 kg N/ha năng suất thu được là 52,18 tạ/ha.
2.4.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô ở Việt Nam
Trong phạm vi nghiên cứu thuộc chương trình phát triển lương thực, Tạ Văn
Sơn (1995) [10] đã nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cây ngô ở vùng Đồng bằng sông

Hồng, thu được kết quả: Để tạo ra 1 tấn hạt, ngô lấy đi từ đất trung bình một lượng
đạm, lân, kali là: N = 22,3 kg; P
2
O
5
= 8,2 kg; K
2
O = 12,2 kg. Tỉ lệ nhu cầu dinh
dưỡng NPK là: 1: 0,35: 0,45. Tỉ lệ N: P: K thay đổi trong quá trình sinh trưởng phát
triển như sau:
17
18
Bảng 2.8: Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng
ĐVT: %
Nguyên tố 6-7 lá Trỗ cờ Thu hoạch
N 51,7 47,4 52,2
P
2
O
5
8,3 9,8 19,1
K
2
O 40,0 42,7 28,7
Nguồn: Tạ Văn Sơn (1995) [10]
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của nước ngoài và thể hiện rõ là hút
kali được hoàn thành sớm trước phun râu, còn các chất dinh dưỡng khác như đạm và
lân còn tiếp tục đến lúc ngô chín.
Theo Đường Hồng Dật (2003) [4] trung bình với năng suất 60 tạ/ha ngô hạt,
cây ngô lấy từ đất 155 kg N, 60 kg P

2
O
5
, 115 kg K
2
O (tương đương 337 kg urê, 360
kg supe lân, 192 kg clorua kali).
Nhu cầu dinh dưỡng của ngô phụ thuộc vào loại đất. Trên đất phù sa sông
Hồng lượng phân bón phù hợp là: 120 N - 90 P
2
O
5
- 60 K
2
O cho năng suất 40 - 50
tạ/ha; 150N - 90P
2
O
5
- 100 K
2
O cho năng suất 50 - 55 tạ/ha; 180 N - 90 P
2
O
5
- 100
K
2
O cho năng suất 65 - 75 tạ/ha (Trần Hữu Miện,1987) [7]. Ngô vụ Đông trên đất
phù sa sông Hồng liều lượng phân bón thích hợp là: 150 - 180 kg N; 90 kg P

2
O
5
; 50 -
60 kg K
2
O/ha (Phạm Kim Môn, 1991) [9].
Kết quả nghiên cứu của Ngô Hữu Tình, (1995) [17] cho rằng: Trên đất phù sa
sông Hồng tỷ lệ nhu cầu dinh dưỡng của N, P, K cho cây ngô đạt năng suất cao là 1:
0,35: 0,45 và liều lượng bón phân cho năng suất cao là: 180 N - 60 P
2
O
5
- 120 K
2
O;
ở Duyên hải miền Trung: 120 N - 90 P
2
O
5
- 60 K
2
O; miền Đông Nam bộ: 90 N - 90
P
2
O
5
- 30 K
2
O; Đồng bằng sông Cửu Long: 150N - 50P

2
O
5
- 0 K
2
O.
Tác giả Vũ Cao Thái thì khuyến cáo: trên đất phù sa nên bón 120 kg N - 60 kg
P
2
O
5
- 90 kg K
2
O/ha, tỷ lệ N:P:K là 1:0,5:0,75. Trên đất xám bạc màu bón 100 kg N -
100 kg P
2
O
5
- 150 kg K
2
O/ha với tỷ lệ là 1:1:1,5 (dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2003) [13].
Trên đất bạc màu vùng Đông Anh - Hà Nội, giống ngô LVN10 có phản ứng rất rõ với
phân bón ở công thức bón 120 N - 120 P
2
O
5
- 120 K
2
O/ha và cho năng suất hạt gấp 2
lần so với công thức đối chứng không bón phân. Hiệu suất của 1 kg NPK là 8,7 kg; 1

kg N là 11,3 kg; 1 kg P
2
O
5
là 4,9 kg; 1 kg K
2
O là 8,5 kg (Nguyễn Thế Hùng, 1996)
[7].
18
19
Lượng phân bón khuyến cáo cho ngô không chỉ tuỳ thuộc vào đất mà còn phụ
thuộc giống ngô và thời vụ (Nguyễn Văn Bộ, 2007)[3]. Giống có thời gian sinh
trưởng dài hơn, có năng suất cao hơn cần phải bón lượng phân cao hơn. Đất chua
phải bón nhiều lân hơn, đất nhẹ và vụ gieo trồng có nhiệt độ thấp cần bón nhiều kali
hơn. Liều lượng khuyến cáo chung cho ngô là:
- Đối với giống chín sớm:
+ Trên đất phù sa: 8 - 10 tấn phân chuồng; 120 - 150 kg N; 70 - 90 kg P
2
O
5
; 60
- 90 kg K
2
O/ha.
+ Trên đất bạc màu: 8 - 10 tấn phân chuồng; 120 - 150 kg N; 70 - 90 kg P
2
O
5
;
100 - 120 kg K

2
O/ha.
- Đối với giống chín trung bình và chín muộn:
+ Trên đất phù sa: 8 - 10 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 70 - 90 kg P
2
O
5
; 80
- 100 kg K
2
O/ha.
+ Trên đất bạc màu: 8 - 10 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 70 - 90 kg P
2
O
5
;
120 - 150 kg K
2
O/ha.
Lượng phân bón thích hợp cho ngô lai trên đất phù sa cổ ở duyên hải Trung bộ
trong vụ Đông Xuân là 10 tấn phân chuồng + 150-180 kg N + 90 kg P
2
O
5
+ 60 kg
K
2
O/ha (tỷ lệ NPK là 1,7:1:0,7 hoặc 2:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 22,6 - 28,8 kgN/1 tấn
ngô hạt; vụ Hè Thu bón 10 tấn phân chuồng + 150 kg N + 90 kg P
2

O
5
+ 60 kg K
2
O/ha (tỷ
lệ NPK là 1,7:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 27,9 - 28,4 kgN/1 tấn ngô hạt (dẫn theo Trần
Văn Minh, 2004) [8].
Lượng phân bón cho ngô còn tùy thuộc vào vùng sinh thái. Ở các tỉnh miền núi
phía Bắc (Hà Giang) liều lượng phân bón thích hợp cho ngô là: 120 kg N - 60 kg
P
2
O
5
- 50 kg K
2
O/ha cho các giống thụ phấn tự do và 150 kg N - 60 kg P
2
O
5
- 50 kg
K
2
O/ha cho các giống lai (Nguyễn Văn Bào, 1996) [1]. Liều lượng phân bón cho 1 ha
ngô ở vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên là: 120 kg N - 90 kg P
2
O
5
- 60 kg K
2
O cho

vụ Hè Thu, còn vụ Thu Đông (vụ 2) có thể tăng lượng K
2
O lên 90 kg. Trên đất xám
của vùng Đông Nam bộ, liều lượng phân bón cho ngô có hiệu quả kinh tế cao nhất là
180 kg N - 80 kg P
2
O
5
- 100 kg K
2
O/ha (giống LVN99) (dẫn theo Ngô Hữu Tình,
2003) [13].
Các loại phân khác nhau với mức bón khác nhau có ảnh hưởng lớn đến sự
sinh trưởng và năng suất ngô LVN10 vụ Xuân 2000, vì vậy việc sử dụng loại phân và
lượng phân cần được xác định trên cơ sở lợi nhuận ở cả 3 loại phân mức bón kinh tế là
200 kg NPK/ha. Phân NPK Lâm Thao loại 5-10-3 là rất phù hợp với cây ngô với lượng
19
20
bón tối đa là 350 kg NPK/ha, sử dụng ở mức bón N-P-K: 100-50-50 là kinh tế nhất (Ngô
Hữu Tình và CS, 2001) [12].
Bón phân vô cơ kết hợp phân hữu cơ cho ngô đã làm tăng năng suất ngô và
giúp cải thiện độ phì trong đất, theo Bùi Đình Dinh (1988, 1994) để đảm bảo cho cây
trồng có năng suất cao, ổn định, bón phân hữu cơ chiếm 25% tổng số dinh dưỡng,
còn 75% phân hoá học (dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [8].
Hiệu quả của phân bón chỉ có thể phát huy đầy đủ khi có chế độ phân bón hợp
lý, bón cân đối giữa các nguyên tố. Bón phân cho ngô để đạt hiệu quả kinh tế cao
phải căn cứ vào đặc tính của loại giống ngô, yêu cầu sinh lý của cây ngô qua các thời
kỳ sinh trưởng, tình trạng của cây trên đồng ruộng, tính chất đất, đặc điểm loại phân
bón, kỹ thuật trồng trọt và điều kiện khí hậu thời tiết.
Bón cân đối đạm - kali có hiệu lực cao hơn nhiều so với lúa. Bội thu do bón

cân đối (trung bình của nhiều liều lượng đạm) có thể đạt 33 tạ/ha trên đất phù sa sông
Hồng; 37,7 tạ/ha trên đất bạc màu; 11,7 tạ/ha trên đất xám và 3,9 tạ/ha trên đất đỏ
vàng. Xét về hiệu quả kinh tế thì bón phân cân đối cho ngô trên đất bạc màu, đất xám
có lãi hơn nhiều so với đất phù sa và đất đỏ vàng (Nguyễn Văn Bộ, 2007) [3].
Theo tác giả Bùi Huy Hiền (2002)[23], từ năm 1985 đến nay tình hình sử dụng
phân đạm ở nước ta tăng trung bình là 7,2%/năm, phân lân là 13,9%/năm, phân kali
là 23,9%/năm. Tổng lượng N + P
2
O
5
+ K
2
O trong 15 năm qua tăng trung bình
9,0%/năm. Tỷ lệ N: P
2
O
5
: K
2
O trong 10 năm qua đã cân đối hơn với tỷ lệ tương ứng
qua các năm 1990, 1995 và 2000 là 1: 0,12: 0,05; 1: 0,46: 0,12 và 1: 0,44: 0,37.
Lượng phân bón/ha cũng đã tăng lên qua các năm 1990, 1995, 2000 với tổng lượng N
: P
2
O
5
: K
2
O tương ứng là 58,7; 117,7 và 170,8 kg/ha, tỷ lệ này còn thấp so với các
nước phát triển như Mỹ, Hàn Quốc, Pháp, Nhật với tổng lượng N: P

2
O
5
: K
2
O khoảng
240 - 400 kg/ha.
Phân đạm ảnh hưởng có tính chất quyết định đến sinh trưởng và năng suất ngô.
Không bón năng suất đạt 40 tạ/ha; bón 40 kg N năng suất đạt 56,5 tạ/ha; bón 80 kg N
năng suất đạt 70,8 tạ/ha; bón 120 kg N năng suất đạt 76,2 tạ/ha; bón 160 kg N năng
suất đạt 79,9 tạ/ha (Vũ Hữu Yêm, 1995) [19].
Để tạo ra 1 tấn ngô hạt trong vụ ngô Đông miền Bắc cần 25 - 28 kg N, vụ
Xuân 28 - 32 kg N, vụ Hè Thu 32 - 35 kg N, Thu Đông 30 - 32 kg N (Trần Hữu
Miện, 1987) [7]
Trên đất phù sa cổ, đối với giống ngô lai LVN4 bón đạm ở các liều lượng nền
1 + 150N, nền 1 + 180N, nền 1 + 210N đều làm năng suất hơn đối chứng 1 (không
20
21
bón phân) từ 26,64 - 32,48 tạ/ha trong vụ Đông Xuân và 28,43 - 30,98 tạ/ha trong vụ
Hè Thu. Lượng đạm tăng từ 120 - 210N thì năng suất ngô cũng tăng theo, nhưng hiệu
quả kinh tế cao nhất là bón 10 tấn phân chuồng + 150N + 90P
2
O
5
+ 60K
2
O/ha (Lê
Quý Tường và CS, 2001) [16]. Trên đất bạc màu, phân N có tác dụng rất rõ song
lượng bón tối đa là 225 kg/ha, ngưỡng bón N kinh tế là 150 kg/ha trên nền cân đối P -
K (Nguyễn Thế Hùng, 1996) [6].

Kết quả nghiên cứu bón đạm cho ngô của Đào Thế Tuấn cho thấy ở Đồng bằng
sông Hồng với mức bón đạm 90 kgN/ha, hiệu suất bón đạm đối với ngô địa phương
là 13 kg ngô hạt/1 kg N và ngô lai là 18 kg ngô hạt/1 kgN. Bón đến mức 180 kg N/ha
đã đạt 9 - 14 kg ngô hạt/1 kg N (dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [8].
21
22
Phần 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Liều lượng đạm bón cho ngô ở thời kỳ 3 -5 lá cho giống ngô LVN99.
- Phân đạm Ure (46%).
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: thí nghiệm được tiến hành tại khu thí nghiệm cây trồng cạn, Viện
Khoa học Sự sống, trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
- Thời gian: thí nghiệm tiến hành trong vụ Đông năm 2011 từ tháng 9/2011 đến
tháng 2/2012.
3.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm bón thúc thích hợp đến thời kỳ sinh
trưởng và phát triển của giống ngô LVN99( thời gian gieo đến trỗ cờ, tung phấn,
phun râu, chín sinh lý và chín sáp).
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm bón thúc khác nhau đến một số đặc
điểm hình thái của giống ngô LVN99 (chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, số lá/cây,
chỉ số diện tích lá).
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm bón thúc đến khả năng chống chịu của
giống ngô LVN99 (khả năng chống đổ, chống sâu, bệnh).
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm bón thúc khác nhau đến các yếu tố
cấu thành năng suất giống ngô LVN99 (chiều dài bắp, đường kính bắp, số hàng/bắp,
số hạt/hàng, khối lượng 1000 hạt, năng suất ngô).
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm bón thúc khác nhau đến hiệu quả kinh

tế của giống ngô LVN99.
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Công thức thí nghiệm :
Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng đạm bón thúc vào thời kỳ 3-5 lá đến sinh
trưởng và năng suất giống ngô LVN99 với 5 công thức bón đạm.
Bảng 3.1: Các công thức thí nghiệm
22
23
Công thức
Lượng đạm bón vào thời kỳ… (kgN/ha) Tổng lượng
đạm bón
(kg/ha)
3 - 5 lá 7 - 9 lá Trước trỗ 10
ngày
1 (đ/c) 0 50 50 100
2 25 50 50 125
3 50 50 50 150
4 75 50 50 175
5 100 50 50 200
- Phương pháp bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu
nhiên hoàn chỉnh (RCBD-Randomized Complete Block Design), 5 công thức, 3 lần
nhắc lại, xung quanh có dải bảo vệ.
- Số ô thí nghiệm: 3 x 5 = 15 (ô) mỗi ô 10 hàng
- Diện tích 1 ô thí nghiệm: 4.9 x 5 =24.5 m
2
- Diện tích toàn ô thí nghiệm: 24.5 x 15 =367.5 m
2
- Giữa các lần nhắc lại cách nhau 1m
Sơ đồ bố trí thí nghiệm
I 1 5 3 2 4

II 3 2 4 5 1
III 4 1 5 3 2
Dải bảo vệ
Dải bảo vệ
3.3.3. Quy trình kỹ thuật trồng trọt áp dụng trong thí nghiệm
Tiến hành theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo nghiệm giá trị canh tác và
sử dụng giống ngô QCVN 01-56 : 2011/BNNPTNT của Bộ NN&PTNT
* Mật độ, khoảng cách:
- Mật độ: 57.000 cây/ ha.
- Khoảng cách: 70 x 25cm x 1 cây/hốc.
* Thời gian gieo: ngày 19/09/2011.
* Phân bón:
Tổng lượng phân bón cho 1 ha:
- 3 tấn phân vi sinh, 90 kg P
2
O
5
+ 90 kg K
2
O + tổng lượng đạm bón theo như
bảng 3.1.
23
24
Phương pháp bón phân:
- Bón lót: 100% phân vi sinh + 100% P
2
O
5
, ở tất cả các công thức, bón theo
hàng rach sâu 10 - 12cm.

- Bón thúc: Chia làm 3 lần
+ Bón thúc lần 1 khi cây con 3 - 5 lá : lượng đạm bón cho mỗi công thức như
bảng 3.1 và ½ K
2
O . Rạch rãnh cách gốc 5 - 7cm, rắc phân vào gốc và vun đá chân
cho ngô.
+ Bón thúc lần 2 khi cây có 7 - 9 lá: lượng đạm bón cho mỗi công thức như bảng
3.1 va` ½ K
2
O. Rắc phân cách gốc 10-12cm, vun gốc ngô tạo thành luống.
+ Bón thúc lần 3 trước trỗ cờ 10 -15 ngày: Bón hết số lượng phân đạm còn lại
(rạch hàng cách gốc 13 - 15cm, sâu 7-10cm rồi bón và lấp phân kết hợp vun cao
chống đổ).
* Chăm sóc
- Giai đoạn sau khi gieo đến khi ngô 3 lá: khi cây mọc dặm kịp thời những chỗ
mất khoảng.
+ Nếu trời mưa, đất bị nén chặt cần xới xáo, phá váng. Yêu cầu: xới nhẹ nhàng,
xới nông tay vì cây còn nhỏ hệ rễ chưa phát triển.
+ Chú ý phòng trừ sâu xám.
- Giai đoạn 3 - 5 lá:
+ Tỉa định cây, chỉ một cây/hốc theo mật độ đã định.
+ Xới xáo làm đất tơi xốp tạo điều kiện cho rễ phát triển, làm sạch cỏ dại.
+ Bón thúc lần 1 kết hợp vun đá chân.
+ Phòng trừ sâu xám.
+ Duy trì độ ẩm 60-80%, nếu úng phải thoát nước kịp thời.
- Giai đoạn 7 – 9 lá:
+ Xới xáo, tiêu diệt cỏ dại.
+ Bón thúc lần 2 và vun cao thành luống.
+ Chú ý phòng trừ sâu cắn lá, sâu đục thân.
+ Giữ độ ẩm đất 60-80%.

- Giai đoạn trước trỗ 10 ngày:
Bón thúc lần cuối. giữ đủ ẩm. phòng trừ sâu đục thân và rệp hại cờ.
* Thu hoạch
Khi thân lá và lá bi chuyển sang khô vàng, chân hạt ngô xuất hiện vết đen.
24
25
3.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi
3.4.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng
- Ngày gieo 19/9/2011
Ngày mọc: là ngày có > 50% số cây/ô mọc
- Ngày trổ cờ: là ngày có > 50% số cây/ô xuất hiện nhánh cuối cùng của bông
cờ.
- Ngày tung phấn: là ngày có > 50% số cây/ô có hoa nở được 1/3 trục chính.
- Ngày phun râu: là ngày co > 50% số cây/ô phun râu (bắp có râu dài 2-3cm
ngoài lá bi).
- Ngày chín sinh lý: là ngày có trên 75% cây/ô có lá bi khô hoặc chân hạt có
chấm đen.
- Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây: đo 10 cây liên tục/hàng giữa ô.
- Thời gian đo: 10 ngày/lần tính từ 20 ngày sau trồng, các lần sau đó cách nhau
10 ngày. Đo đến khi cây trổ cờ đạt chiều cao cuối cùng.
- Phương pháp: đo từ sát mặt đất đến mút lá
+ Tốc độ tăng trưởng sau trồng 20 ngày
( )( )
ngàycmngàyt
t
h
/20
1
1
=

+ Tốc độ tăng trưởng sau 30 ngày
( )
ngàycm
tt
hh
/
12
12


+ Tốc độ tăng trưởng sau 40, 50, 60 ngày tính như sau 30 ngày
Trong đó: h
1
: Chiều cao cây sau trồng 20 ngày
h
2
: Chiều cao cây sau trồng 30 ngày
t
1
: Thời gian sau trồng 20 ngày
t
2
: Thời gian sau trồng 30 ngày
3.4.2. Chỉ tiêu về hình thái
- Chiều cao cây (cm): chọn 10 cây (trừ các cây đầu hàng),đo từ sát mặt đất đến
điểm phân nhánh đầu tiên của bông cờ vào giai đoạn chín sữa.
- Chiều cao đóng bắp (cm): trên 10 cây đã đo chiều cao cây, xác định chiều cao
đóng bắp bằng cách đo từ gốc sát mặt đất đến đốt đóng bắp trên cùng (bắp thứ nhất).
- Số lá/cây: đếm tổng số lá/cây theo phương pháp đánh dấu lá từ 3, 6, 9,
12

25

×