Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.37 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MINH CHÂU

NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 643 CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2005

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MINH CHÂU

NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 643 CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2005
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phùng Trung Tập

HÀ NỘI - 2013

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Châu

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU


Chương 1:

1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƢỜI THỪA KẾ VÀ NGƢỜI

5

KHÔNG ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN

1.1.

Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế

5

1.1.1.

Khái niệm thừa kế

5

1.1.2.

Quyền thừa kế

6

1.1.3.

Khái niệm chung về người thừa kế


7

1.1.3.1. Người thừa kế theo di chúc

10

1.1.3.2. Người thừa kế theo quy định của pháp luật

10

1.2.

Khái niệm về người thừa kế không được quyền hưởng di sản

11

1.2.1.

Người không được quyền hưởng di sản theo quy định của

11

pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ
1.2.1.1. Thời kỳ phong kiến

11

1.2.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc


13

1.2.1.3. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1990

15

1.2.1.4. Thời kỳ từ năm 1990 đến nay

16

1.2.2.

Người thừa kế có quyền hưởng di sản và người thừa kế

18

khơng được quyền hưởng di sản
1.2.2.1. Người thừa kế có quyền hưởng di sản

4

18


1.2.2.2. Người thừa kế không được quyền hưởng di sản

19

1.2.3.


Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản

21

1.2.4.

Người khơng có quyền hưởng di sản trong mối quan hệ với

23

quyền tự định đoạt của người lập di chúc
Chương 2:

NHỮNG TRƢỜNG HỢP NGƢỜI THỪA KẾ KHÔNG

27

ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN

2.1.

Những trường hợp người thừa kế không được quyền hưởng

27

di sản
2.1.1.

Người bị kết án có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức


27

khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ
người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân
phẩm của người đó
2.1.2.

Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để

32

lại di sản
2.1.3.

Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của

37

người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc tồn bộ di
sản của người thừa kế đó có quyền được hưởng
2.1.4.

Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người có
di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di
chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di
sản trái với ý chí người để lại di sản

40

2.2.


Những người không được quyền hưởng di sản theo khoản 1
Điều 643 nhưng vẫn được hưởng di sản theo di chúc

50

2.2.1.

Người không được hưởng di sản theo pháp luật nhưng vẫn
được hưởng theo di chúc tại khoản 2 Điều 643

50

2.2.2.

Phân biệt trường hợp người không được quyền hưởng di sản
do chết trước hoặc chết cùng thời điểm và người bị truất
quyền thừa kế

51

5


Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NGƢỜI KHÔNG

58

ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN VÀ HƢỚNG HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT


3.1.

Thực trạng áp dụng pháp luật về người không được quyền
hưởng di sản

58

3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp
luật về người không được quyền hưởng di sản

65

3.2.1.

Về vấn đề hướng dẫn thêm để giải thích rõ một số thuật ngữ

66

3.2.2.

Về vấn đề bổ sung những thiếu sót - những trường hợp "bất
xứng" mà pháp luật chưa điều chỉnh

67

3.2.3.


Một vài ý kiến hoàn thiện các qui định về người thừa kế
khơng có quyền hưởng di sản

70

KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75

6


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa kế và xác định người được quyền hưởng di sản là một việc cần
thiết trước khi phân chia di sản, phân chia hàng thừa kế của cá nhân qua đời
để lại. Pháp luật đã xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật theo
các hàng thừa kế khác nhau và quyền hưởng di sản theo trình tự ưu tiên: hàng
gần loại trừ hàng xa, do vậy khơng phải tồn bộ những người có tên trong các
hàng thừa kế đều được hưởng di sản cùng một lúc vì Luật đã quy định thừa kế
theo pháp luật là việc phân chia di sản theo điều kiện và trình tự hàng thừa kế,
nhưng với đề tài "Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại
Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm 2005", học viên nghiên cứu ở một khía
cạnh rất đặc thù là người không được quyền hưởng di sản do có các hành vi
được quy định tại Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005 là những

người theo quy định của pháp luật được hưởng di sản nhưng do hành vi trái
pháp luật của người này đã làm triệt tiêu quyền do Luật quy định.
Trong xã hội hiện đại đã có rất nhiều trường hợp người thừa kế có các
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự của người để lại di sản, hành
vi giết người thừa kế khác nhằm chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà
người thừa kế bị giết được hưởng hoặc vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng hoặc vì lợi ích cá nhân muốn chiếm đoạt di sản riêng cho mình do vậy
đã có hành vi hủy di chúc, bịa di chúc...
Những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thừa kế ngày một gia
tăng vì giá trị di sản có tính chất đặc biệt là bất động sản ngày một có giá trị
quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài
này mang tính cấp thiết đáp ứng nhu cầu của xã hội.

7


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về khoa học
pháp lý nói chung và đặc biệt là nghiên cứu về các vấn đề trong lĩnh vực thừa
kế nói riêng. Trong đó có những cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực thừa kế có
nội dung nghiên cứu về lĩnh vực thừa kế như: Luật sư Lê Kim Quế có cuốn
sách "Câu hỏi và giải đáp pháp luật về thừa kế"; Tiến sĩ Đinh Văn Thanh và
Luật sư Trần Hữu Biền có cuốn sách "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế"; Tiến sĩ
Phùng Trung Tập có hai cuốn sách "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt
Nam từ năm 1945 từ trước đến nay" và "Luật thừa kế Việt Nam"; Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Điện có cuốn sách "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam"; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hồng Bắc về "Vấn đề
thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Tuấn
về "Những qui định chung về quyền thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam",
luận văn thạc sĩ của Đinh Thị Duy Thanh về "Chế định thừa kế trong Bộ luật

Dân sự Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Chế Mỹ Phương Đài về "Thừa kế theo
pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ của Lê Đức Bền
"Thừa kế theo pháp luật của cháu, chắt theo quy định của pháp luật Việt
Nam"... Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết được đăng tải trên các báo, tạp chí
chuyên ngành như: Tiến sỹ Phùng Trung Tập có bài "Về việc cháu, chắt nội,
ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo hàng của ông, bà nội ngoại,
các cụ nội, ngoại"- Tạp chí Tồ án số 24/2005; tác giả Thái Cơng Khanh có
bài "Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện điều 679 Bộ luật Dân
sự về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế", Tạp chí Tịa án
nhân dân, số 16 năm 2006… Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu và các
bài viết của các tác giả nêu trên chủ yếu mới dừng lại ở phạm vi phân tích một
số quy định về thừa kế trong Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 hay trong Bộ luật
Dân sự năm 2005. Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng,
mang tính tồn diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra
những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế.

8


Về quy định của pháp luật liên quan đến người thừa kế khơng có
quyền hưởng di sản, trong một số đề tài nghiên cứu, bài viết có đề cập đến nội
dung trên nhưng chủ yếu được nghiên cứu trên phạm vi rộng, chưa đi sâu
phân tích và làm rõ những nội dung quy định tại điều luật. Với đề tài "Người
không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 của Bộ luật
Dân sự năm 2005", tác giả chỉ đi sâu phân tích, làm sáng tỏ bản chất và các
quy định của pháp luật về vấn đề trên với mục đích làm rõ và đưa ra hướng
hồn thiện quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005.
3. Phạm vi đề tài
- Tập trung nghiên cứu một số vấn đề về người thừa kế và người
không được quyền hưởng di sản.

- Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643
Bộ luật Dân sự năm 2005.
- Thực trạng áp dụng pháp luật xác định người khơng được quyền
hưởng di sản và hướng hồn thiện pháp luật.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quy định pháp luật về người
không được quyền hưởng di sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005, có so sánh
với các quy phạm pháp luật liên quan đến với đề này qua các giai đoạn lịch sử,
đặc biệt tập trung nghiên cứu các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư
nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập.
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngồi ra, tác giả cịn sử

9


dụng một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp...
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Đề tài liên quan đến lĩnh vực thừa kế từ trước đến nay có rất nhiều các
cơng trình mang tính chất toàn diện. Luận văn thạc sĩ Luật học "Người không
được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 của Bộ luật Dân sự
năm 2005" của nghiên cứu vấn đề về thừa kế trong phạm vi hẹp sẽ có giá trị
trong việc nhìn nhận và đề xuất những vướng mắc mà pháp luật về thừa kế
còn bỏ ngỏ, hoặc đã có quy định nhưng khơng phù hợp với tình hình thực tế,
với phạm vi một đề tài tốt nghiệp, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sâu vào
người thừa kế khơng có quyền hưởng di sản, sự khác nhau giữa người được

hưởng và khơng có quyền hưởng di sản và phân biệt với các trường hợp
không được hưởng di sản khác. Từ việc phân tích điều luật trên và nêu lên
những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đưa ra một vài ý kiến đóng góp
hồn thiện với quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luật văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về người thừa kế và người không được
quyền hưởng di sản.
Chương 2: Những trường hợp người thừa kế không được quyền hưởng
di sản.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật người không được quyền hưởng
di sản và hướng hoàn thiện pháp luật.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƢỜI THỪA KẾ
VÀ NGƢỜI KHÔNG ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN

1.1. KHÁI NIỆM VỀ THỪA KẾ VÀ QUYỀN THỪA KẾ

1.1.1. Khái niệm thừa kế
Thừa kế là một quan hệ xã hội, là việc chuyển dịch tài sản của người
đã chết cho người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong thời kỳ
đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy những điều kiện về kinh tế, xã hội và
hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc. Chế độ
mẫu hệ với địa vị chủ đạo của người phụ nữ đã tạo ra tiền đề cho việc thừa kế
tài sản của các con và những người thân thuộc của người mẹ.

Tài sản của thị tộc do người mẹ quản lý, khi người mẹ chết đi thì di
sản được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc và tài sản của thị
tộc được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đây chính là hình thức thừa kế
đầu tiên của xã hội loài người về tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục duy trì cuộc
sống chung cho thị tộc.
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã làm thay đổi địa vị của người
phụ nữ. Sự ra đời của nhiều ngành nghề mới như: nông nghiệp, chăn ni,
trồng trọt địi hỏi sức khỏe và trí tuệ của người đàn ông, sản phẩm lao động
mà người đàn ông làm ra khơng những đủ ni sống gia đình mà còn tạo ra
của cải dư thừa. Địa vị của người đàn ơng trong gia đình và trong từng bộ lạc
dần dần được thiết lập. Đặc biệt khi nhà nước ra đời và quy định chế độ hôn
nhân một vợ một chồng đã làm cho con cái biết rõ cha, mẹ của mình. Từ đó
trong quan hệ gia đình đã xác lập huyết thống theo họ cha và chế độ gia đình
phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ. Các con trong gia đình có huyết thống với
người cha sẽ mang họ cha và được thừa kế tài sản của cha.

11


Qua mỗi một thời kỳ, qua mỗi một sự phát triển của xã hội loài người
tương ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia đình thì
việc điều chỉnh quan hệ sở hữu có thay đổi dẫn theo sự thay đổi của các quan
hệ thừa kế đó là do các nguyên nhân về kinh tế, quan hệ huyết thống, quan hệ
hôn nhân trong xã hội quyết định.
Ở Việt Nam, việc thừa kế di sản đã hình thành theo tập quán của từng
dân tộc, từng vùng miền, thậm chí việc chia di sản thừa kế cịn theo truyền
thống của dịng tộc. Con cháu trong gia đình được hưởng di sản từ ông bà,
cha mẹ và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng tổ tiên nhắc nhở
con cháu nhớ công ơn của người đã chết. Đây là một trong những truyền
thống tốt đẹp của người Việt Nam được lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Có thể nói, thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người đã chết cho
người còn sống theo truyền thống, phong tục tập quán của từng dân tộc.
Người được hưởng tài sản có nghĩa vụ duy trì, phát triển những giá trị vật
chất, tinh thần và những truyền thống, tập quán do thế hệ trước để lại.
1.1.2. Quyền thừa kế
Quyền thừa kế là một bộ phận của chế định thừa kế do vậy nó chứa
đựng những yếu tố, đặc điểm của một chế định pháp luật. Nếu chế định thừa
kế điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực thừa kế thì quyền thừa kế là chế
định được pháp luật bảo hộ quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc sở hữu
của họ trong việc dịch chuyển tài sản sau khi họ chết cho những người thừa
kế có quyền hưởng thừa kế theo hình thức nhất định do pháp luật quy định.
Căn cứ vào các quy định pháp luật thừa kế, có thể hiểu quyền thừa kế theo hai
nghĩa sau đây:
Thứ nhất: theo quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2005 "Cá
nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của
mình cho những người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc
theo pháp luật" [30]. Như vậy, có thể khái quát quyền thừa kế là tổng hợp các

12


quy định của pháp luật, quy định những trình tự để lại di sản, nhận thừa kế và
quyền khởi kiện dân sự yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền lợi của người
để lại di sản và quyền của người người hưởng thừa kế di sản.
Thứ hai: Quyền thừa kế được hiểu là quyền của mỗi cá nhân trong
việc để lại di sản của mình cho những người thừa kế, quyền trong việc nhận
di sản thừa kế do người khác để lại và quyền trong việc khởi kiện để yêu cầu
bảo vệ quyền thừa kế của mình trong thời hạn và thời hiệu khởi kiện phù hợp
với các quy định của pháp luật.
1.1.3. Khái niệm chung về ngƣời thừa kế

Người thừa kế là một khái niệm đã xuất hiện từ khi xuất hiện chế định
pháp luật thừa kế, vì khi chế định này xuất hiện thì vần đề cần thiết đó là phải
có người thừa kế. Vậy, khái niệm người thừa kế xuất hiện trong lịch sử loài
người từ khi có bộ luật đầu tiên, trong pháp luật Việt Nam nó cũng đã được
xuất hiện trong Bộ luật cổ của nước ta.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay, pháp luật thừa kế Việt Nam
chưa có quy định thế nào là người thừa kế. Về người thừa kế, qua các chế độ
xã hội khác nhau nhưng cùng theo quan điểm chung là những người đó được
hưởng di sản do người chết để lại theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Trong đó, người thừa kế theo di chúc là người được hưởng di sản của
người chết để lại theo di chúc do người lập di chúc chỉ định, định đoạt trước
khi họ chết. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức tùy
theo sự định đoạt của người để lại di chúc. Người thừa kế có thể là người có
mối quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng với người chết hoặc
khơng có các mối quan hệ này, không nhất thiết phải đáp ứng điều kiện về
quan hệ này.
Mặt khác, phạm vi những người thừa kế theo pháp luật còn phụ thuộc
vào quan điểm lập pháp của từng thời kỳ lịch sử của một quốc gia nhất định.

13


Ở Việt Nam trước năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến với ý
thức hệ bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột, giai cấp thống trị
thường đề cao quyền sở hữu và xem nó là quyền thiêng liêng, ln được quan
tâm nhằm duy trì gia đình nội tộc. Do đó, quan hệ huyết thống luôn được đề
cao và quan trọng nhất trong việc xác định những người có quyền thừa kế.
Dưới chế độ dân chủ, nhân dân ta kể từ năm 1945 đến nay, người thừa
kế theo pháp luật đã được mở rộng (nếu xét theo quan hệ huyết thống). Pháp
luật thừa kế nước ta, đã dần xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến

trong việc xác định người thừa kế. Quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng, giữa
các con trong gia đình đã được pháp luật quy định, loại bỏ tư tưởng gia
trưởng, tư tưởng trọng năm khinh nữ, bảo vệ quyền thừa kế của vợ góa và con
gái đã kết hôn với người khác nhưng vẫn thuộc diện thừa kế của người chồng
đã chết. Đây là một quy định có tính chất cách mạng, nó khơng những làm
thay đổi quan hệ trong xã hội mà còn thay đổi tận gốc tư tưởng "xuất giá tòng
phu", đồng thời bảo vệ trực tiếp quyền thừa kế của người vợ góa, mà trước đó
người vợ góa đã kết hơn khơng thể có quyền này.
Hiện nay, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và là
người thừa kế theo hàng thừa kế, khi đó trình tự thừa kế sẽ do pháp luật quy
định. Người thừa kế theo pháp luật là người có mối quan hệ thân thích, gần
gũi nhất với người để lại di sản. Đó là những người có một trong ba mối quan
hệ hơn nhân hoặc huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý làm chủ biên, Nxb Văn
hóa thơng tin, Hà Nội năm 1998 thì chỉ có chế định thừa kế là "được hưởng
tài sản của cải do người chết để lại cho" [45] và Từ điển tiếng Việt của Viện
ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2003 quy định thừa kế là "hưởng của người
chết để lại cho" [42] chứ khơng có định nghĩa thế nào là người thừa kế. Khái
niệm người thừa kế đã được giải thích trong Từ điển giải thích thuật ngữ
Luật học, Nxb Công an nhân dân, 1999 của Trường Đại học Luật Hà Nội có

14


giải thích về người thừa kế là "Người được hưởng di sản theo di chúc hoặc
theo pháp luật" [38].
Hiện nay, trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 635 có quy định về
Người thừa kế:
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế

nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường
hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ
quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [30].
Nhưng điều luật trên không phải là một khái niệm mà đó là quy định
về điều kiện của người thừa kế. Để có thể được hưởng thừa kế thì những
người thừa kế phải đáp ứng một số điều kiện theo quy định của pháp luật, các
điều kiện đó có nội dung sau:
Điều kiện đặt ra đối với người thừa kế là cá nhân: Khi một người chết
đi thì có nghĩa là người đó khơng cịn có năng lực chủ thể để tham gia vào các
quan hệ pháp luật của Việt Nam. Các chủ thể luôn luôn phải đáp ứng điều
kiện về năng lực chủ thể có nghĩa người đó phải cịn sống vào thời điểm phát
sinh quan hệ đó. Trong quan hệ thừa kế cũng vậy, để được hưởng thừa thì
người đó phải có năng lực chủ thể tức người đó phải cịn sống vào thời điểm
mở thừa kế. Người cịn sống tức người đó đã được sinh ra và chưa chết vào
thời điểm mở thừa kế, theo Nghị định 158/2005 NĐ-CP của Chính phủ ngày
27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch Điều 23 có quy định: "Trẻ em sinh
ra sống được từ 24 giờ trở lên rồi mới chết cũng phải đăng ký khai sinh và
đăng ký khai tử" [7]. Như vậy, một đứa trẻ được xem như sinh và còn sống là
sau 24 giờ. Trong trường hợp một người sinh ra vào thời điểm mở thừa kế thì
người đó phải là người đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế và phải sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế.

15


Điều kiện đặt ra đối với người thừa kế là tổ chức: Để một cơ quan, tổ
chức được hưởng thừa kế theo di chúc thì cơ quan, tổ chức đó phải tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế. Tức là với thời điểm người để lại di sản chết, cơ quan,
tổ chức đã được thành lập và chưa chấm dứt hoạt động.
Từ những lý luận về người thừa kế như đã trình bày, theo quan điểm

tác giả, người thừa kế có thể được định nghĩa như sau: Người thừa kế là người
được hưởng di sản do người chết để lại theo di chúc hoặc theo pháp luật.
1.1.3.1. Người thừa kế theo di chúc
Người thừa kế theo di chúc là người được xác định do ý chí của người
có di sản nên phạm vi những người được hưởng di sản theo di chúc rộng hơn
rất nhiều so với người được hưởng di sản theo pháp luật. Người thừa kế theo
di chúc có thể là cá nhân bất kỳ, nếu được chỉ định mà không cần xét đến
những quan hệ khác của họ đối với người để lại di sản. Người thừa kế theo di
chúc có thể là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản
hoặc không thuộc diện thừa kế theo luật của người để lại di sản, pháp luật
không quy định phạm vi những người được hưởng thừa kế theo di chúc mà
việc được hưởng di sản của người chết theo di chúc hoàn tồn phụ thuộc vào
ý chí của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của họ để lại cho
những người thừa kế.
1.1.3.2. Người thừa kế theo quy định của pháp luật
Nếu người thừa kế theo di chúc là cá nhân bất kỳ ai là người thuộc diện
hay không thuộc diện thừa kế theo luật của người để lại di sản kể cả cơ quan, tổ
chức được hưởng di sản do ý chí của người để di sản quyết định. Thì người
thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và là người có quan hệ hơn nhân,
huyết thống và nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thuộc diện
thừa kế theo pháp luật được hưởng quyền hưởng di sản một cách bình đẳng,
ngang nhau giữa những người cùng hàng thừa kế. Điều 676 Bộ luật Dân sự
năm 2005 quy định người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau:

16


- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh

ruột, chị ruột, em ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, di ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
1.2. KHÁI NIỆM VỀ NGƢỜI THỪA KẾ KHƠNG ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG
DI SẢN

1.2.1. Ngƣời khơng đƣợc quyền hƣởng di sản theo quy định của
pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ
Sự phát triển của pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói chung và pháp luật
về người khơng được quyền hưởng di sản nói riêng gắn liền với lịch sử truyền
thống, với chiều dài phát triển kinh tế, văn hoá của dân tộc Việt sử. Từ đó, có
thể chia làm các giai đoạn phát triển của các quy định pháp luật về người
không được quyền hưởng di sản qua các thời kỳ sau đây.
1.2.1.1. Thời kỳ phong kiến
Ở Việt Nam, thời kỳ phong kiến để điều chỉnh các vấn đề phát sinh
trong đời sống xã hội, Nhà nước đã sử dụng phương tiện hữu hiệu là pháp
luật. Bởi pháp luật phụ thuộc một cách trực tiếp đến chế độ sở hữu, đến sự
phát triển về kinh tế, văn hóa đến tư tưởng, tơn giáo đang thịnh hành ở thời kỳ
này. Những quy định pháp luật qua các thời kỳ luôn thể hiện một bản sắc dân
tộc, một tâm linh truyền thống đặc thù của con người Việt Nam.
Thời kỳ phong kiến ở Việt Nam còn chịu nhiều tác động của những tư
tưởng phong kiến lạc hậu nên pháp luật thời kỳ này cịn mang đậm tính phong

17


kiến, trọng nam kinh nữ. Những quy định của pháp luật về người không được

quyền hưởng di sản cũng phải chịu những tác động nhất định. Pháp luật về
người không được quyền hưởng di sản được quy định trong các Bộ luật cổ như
Quốc triều Hình Luật, Hồng Việt luật lệ… Những quy định thời này hầu hết
do các con phạm tội bất hiếu (Đoạn 295 Quốc triều hình luật) hoặc khơng
nghe lệnh của ơng bà, cha mẹ thì sẽ bị tước quyền hưởng di sản thừa kế.
Theo Điều 506, Quốc triều Hình Luật như con cháu trái lời dạy bảo và
không phụng dưỡng bề trên, mà bị ông bà, cha mẹ trình lên quan thì xử tội đồ
làm khao dinh; con nuôi, con kế tự mà thất hiếu với cha ni, cha kế thì xử
giảm tội trên một bậc; và mất những tài sản được chia. Tại Đoạn 272, Quốc
triều hình luật quy định:
Dân gian có đứa con bất hiếu, lúc cha mẹ còn sống làm ra
chúc thư chia toàn phần cho đứa con hiếu thảo, một nửa phần cho
con nuôi, mà không cho đứa con bất hiếu kia. Tờ di chúc tay viết ra,
nhưng chưa chia hẳn, và lại nhờ chúc thư đó thể thức có chỗ thất
cách, đến lúc chết đi đứa con bất hiếu kia mới về chịu tang, cùng là
sửa phần mộ và làm cỗ bàn tế lễ; thế rồi không theo lời di ngôn của
cha mẹ mà ngầm bàn tính đi kiện để tranh giành gia tài, lấy cớ là
mình là đứa con đã báo hiếu.Vậy là nha môn thụ lý việc này, không
được căn cứ vào việc hắn có đến dự tang tế mà phải phán cho hắn
trái lệnh cha mẹ kiện gian trái phép; tòa cứ y di mệnh của cha mẹ
trong chúc thư rồi giao cho họ hàng thân thích và hương trưởng
chứng kiến tờ di chúc đó, chứ khơng y cứ vào sự làm sai thể thức
(trong chúc thư) [44].
Như vậy, việc tước quyền hưởng di sản của thời kỳ này khơng những
mang tính pháp lý mà cịn mang tính đạo đức, giáo dục con cháu phải biết
vâng lời bố mẹ, ông bà không được tranh giành của cải làm mất đồn kết gia
đình, và phải có hiếu với ơng bà, cha mẹ. Những tư tưởng đạo đức thống trị

18



trong từng thời kỳ đã ảnh hưởng tới việc xác định những trường hợp không
được quyền hưởng di sản thừa kế.
1.2.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Ở Việt Nam, pháp luật của chế độ thực dân phong kiến cũng đã có
những quy định về người thừa kế không được quyền hưởng di sản của người
chết để lại (họ được gọi là những người thừa kế bất xứng). Và vấn đề này đã
được quy định trong Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 và Bộ luật Dân sự Trung
Kỳ 1936. Đây là những bộ luật được ban hành trong thời ký mà nhà nước
phong kiến Việt Nam đang nằm dưới sự cai trị của thực dân Pháp (chế độ
thực dân nửa phong kiến). Vì vậy, trong quy định về thừa kế nói chung và
quy định về người không được quyền hưởng di sản nói riêng, các bộ luật này
vừa mang tư tưởng ý thức hệ phong kiến vừa du nhập tư tưởng của Bộ luật
Dân sự Cộng hịa Pháp năm 1804. Ví dụ:
Người đã trưởng thành biết được hành vi cố ý giết người mà
khơng tố giác với tịa án nhưng nếu kẻ sát nhân là cha, mẹ, anh, em,
vợ, chồng hoặc thân thuộc gần gũi với người thừa kế thì khơng bị
coi là có lỗi vì khơng tố giác; Người có hành vi vu khống người để
lại di sản hoặc vu khống ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị
vu khống đã bị phạt về trọng tội hay thường tội [16].
Tuy nhiên, với tư cách là pháp luật của nước phong kiến nên mọi quy
định thừa kế nói chung và các quy định về người không được quyền hưởng di
sản nói riêng trong hai bộ luật đều chú trọng và duy trì, củng cố chế độ sở hữu
phong kiến, bảo vệ quyền lợi của giai cấp bóc lột. Cụ thể, tại Điều 313 Dân
luật Bắc Kỳ và Điều 306 Dân luật Trung Kỳ đều dự liệu những trường hợp
người thừa kế khơng có quyền hưởng di sản:
Người đã bị người lập di chúc tuyên bố không xứng đáng
được hưởng di sản của người lập di chúc; Người có hành vi xâm
phạm đến tính mạng của người để lại di sản hoặc với danh nghĩa


19


chính phạm hoặc đồng phạm hoặc tịng phạm; Người đã trưởng
thành biết được hành vi cố ý giết người mà khơng tố giác với tịa án
nhưng nếu kẻ sát nhân là cha, mẹ, anh, em, vợ, chồng hoặc thân
thuộc gần với người thừa kế thì khơng bị coi là có lỗi vì khơng tố
giác; Người có hành vi vu khống người để lại di sản hoặc vu khống
ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị vu khống đã bị phạt về
trọng tội hay thường tội [1], [2].
Mặt khác, do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, vấn đề trọng nam
kinh nữ như là một ý thức hệ bao trùm toàn xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến
tư tưởng lập pháp. Pháp luật ở thời ký này thừa nhận chế độ gia đình phụ
quyền và cơng nhận cho người chồng (người cha) có tất cả các quyền lực cần
thiết để họ thực hiện chức năng chủ gia đình của mình. Vì vậy, vấn đề người
khơng được quyền hưởng di sản ở thời kỳ này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng
giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ. Ví dụ, cũng về vần đề nêu trên, theo án lệ
ở miền Nam nước ta năm 1945 thì căn cứ vào từng vụ việc cụ thể mà quyết
định tước quyền thừa kế của vợ góa nếu:
Khơng để tang chồng; Sống thiếu đạo đức và đã công khai
gây tai tiếng cho gia đình nhà chồng; Đã có tình nhân hoặc đã lạm
dụng quyền hưởng di sản mà khơng có biên bản kê khai; Người vợ
góa bị coi là bất xứng khơng có quyền thừa kế, phần di sản đó sẽ do
con hoặc cháu của người đó hưởng [15].
Tuy nhiên, khơng có xảy ra những trường hợp ngược lại.
Có thể nói, pháp luật trong thời kỳ này là phương tiện pháp lý để bảo
vệ quyền lợi cho giai cấp địa chủ, phong kiến là chủ yếu nhưng trong đó, chế
độ thừa kế nói chung và các quy định về người khơng được quyền hưởng di
sản nói riêng vẫn được xây dựng trên cơ sở tơn trọng và giữ gìn các truyền
thống của dân tộc. Và vấn đề về người khơng có quyền hưởng di sản đã được

đặt ra một cách phù hợp với chính sách thời kỳ đó.

20


1.2.1.3. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1990
Thời gian đầu mới thành lập sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã gặp phải rất nhiều khó khăn về chính trị,
văn hóa, kinh tế xã hội. Việc ban hành những văn bản pháp luật để điều chỉnh
các quan hệ xã hội là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong một tình thế hết sức
khắc nghiệt với khoảng thời gian khá ngắn, Nhà nước đã không thể kịp thời
ban hành các văn bản để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội. Vì vậy, theo
Sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945 về tạm giữ các luật lệ ban hành ở Việt Nam
để thi hành cho đến khi ban hành những bộ luật của chế độ mới của tồn cõi
Việt Nam, nếu nó khơng trái với ngun tắc "độc lập của nước Việt Nam và
chính thể dân chủ cộng hòa".
Như vậy, khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong thời kỳ này,
chủ yếu vẫn áp dụng những quy định trong các Bộ luật Dân sự trong thời kỳ
thực dân nửa phong kiến trên. Tuy nhiên, với thời gian và sự biết đổi nhanh
chóng, sâu sắc của tình trạng xã hội Việt Nam nhiều điều khoản trong các bộ
dân luật ấy trở nên lạc hậu, trái với tinh thần và sự tiến bộ xã hội. Do đó,
những quy định cũ đó chỉ được áp dụng đến năm 1959 - là năm Tòa án nhân
dân tối cao ban hành chỉ thị số 772/CT/TANDTC về việc đình chỉ áp dụng
luật lệ của chế độ cũ. Từ khi có chỉ thị 772/CT/TANDTC đến năm 1981 đã có
một số thơng tư của ngành Tòa án hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế
ví dụ: Thơng tư số 594… nhưng khơng có một nội dung nào về những người
thừa kế khơng có quyền hưởng di sản.
Thực trạng đó như một lỗ hổng của pháp luật thừa kế của nước ta. Các
Tịa án đã khơng thể giải quyết thỏa đáng những tranh chấp về thừa kế liên
quan đến thừa kế có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, xâm phạm đến

người để lại di sản hoặc người thừa kế khác. Do còn thiếu những quy định của
pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
Như vậy, có thể nhận định rằng pháp luật về thừa kế của Nhà nước ta
trong giai đoạn này chưa được dự liệu được những tình huống phát sinh trong

21


đời sống xã hội; và trên thực tế hẳn vẫn còn tồn tại những hành vi trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội là nguyên nhân dẫn đến người thừa kế có hành vi đó
có bị tước quyền hưởng di sản hay khơng? do chưa có quy phạm để áp dụng
những chế tài tương ứng.
Sau khi Hiến pháp năm 1980 ra đời thì quyền sở hữu của cơng dân đã
được xác định sở hữu những loại tài sản gì? Thời kỳ này đã có sự ghi nhận
quyền thừa kế tài sản của cơng dân. Để có một đường lối thống nhất cho các
tịa án các cấp trong cơng tác xét xử giải quyết các tranh chấp về thừa kế,
đồng thời bổ sung một số vấn đề cho phù hợp với quy định của hiến pháp
mới, qua tổng kết rút kinh nghiệm cơng tác xét xử, ngày 24/7/1981, Tịa án
nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 81/TATC để hướng dẫn giải quyết
các tranh chấp về thừa kế. Thông tư số 81/TATC đã có những đóng góp nhất
định trong việc hoàn thiện pháp luật về thừa kế. Và khi đó, cơ sở pháp lý để
tước quyền thừa kế của một người đã được quy định tại Thông tư số
81/TATC. Theo Thơng tư số 81/TATC thì một người bị tước quyền thừa kế
do bị kết án về một trong các hành vi sau đây: "Đã giết người để lại thừa kế
hoặc đã đối xử quá tàn tệ với người đó; Đã giết người thừa kế cùng hàng với
mình để chiếm đoạt toàn bộ di sản hoặc nhằm tăng kỷ phần cho bản thân
mình thì khơng được thừa kế di sản của hai người đấy" [35].
1.2.1.4. Thời kỳ từ năm 1990 đến nay
Xã hội ngày càng phát triển, vấn đề thừa kế càng trở nên đa dạng,
sống động và phức tạp nên Thơng tư số 81/TATC hướng dẫn của Tịa án nhân

dân tối cao khơng cịn đáp ứng được u cầu thực tế, mới chỉ dừng lại ở một
số hành vi cụ thể mà chưa được dự liệu hết được các trường hợp khác như:
người thừa kế vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, hành hạ, ngược đãi người để lại
di sản, hủy di chúc, bịa đặt di chúc…
Ngày 30/8/1990 Hội đồng Nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh Thừa kế. Trong những năm đầu tiên

22


của thập nên 90, Pháp lệnh Thừa kế là văn bản pháp luật quy định đầy đủ có
hệ thống về lĩnh vực thừa kế nói chung và đã hồn thiện những thiếu sót về
các trường hợp khơng được quyền hưởng di sản. Những quy định này đều dựa
trên những nguyên tắc bình đẳng, tơn trọng quyền tự do ý chí của người để lại
thừa kế cũng như của người thừa kế trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể khác.
Cụ thể, khi Pháp lệnh Thừa kế được ban hành (30/8/1990) thì vấn đề
người thừa kế khơng có quyền hưởng di sản được quy định tại Điều 7. Theo đó,
người thừa kế khơng được hưởng di sản khi có một trong các hành vi sau đây:
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại
di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để
lại di sản; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người
để lại di sản; Người bị kết án về hành vi cố ý giết người thừa kế
khác nhằm mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ phần di sản
của người thừa kế khác cơ quyền hưởng; Người có hành vi lừa dối,
cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc,
giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc
toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản [12].
Cùng với thời gian, các vấn đề trong lĩnh vực dân sự cũng sẽ sống

động, đa dạng và phức tạp hơn nhiều, các văn bản pháp luật với các nghị
định, Pháp lệnh không đủ khả năng bao quát để điều chỉnh một cách rộng
khắp các quan hệ dân sự nói chung, quan hệ về thừa kế nói riêng. Nhà nước
đã kịp thời ban hành Bộ luật Dân sự (thông qua ngày 28/10/1995). Đến năm
2005, sau một thời gian áp dụng vào đời sống thực tiễn Bộ luật Dân sự năm
1995 đã bộc lộ khá nhiều bất cập, hạn chế nên nhà nước đã tiến hành thực
hiện việc sửa đổi Bộ luật Dân sự được sửa đổi và được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thơng qua. Tuy nhiên,

23


những vấn đề liên quan đến người không được quyền hưởng di sản quy định
tại Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 khá hoàn thiện nên đã được giữ nguyên và
được thể hiện tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005.
1.2.2. Ngƣời thừa kế có quyền hƣởng di sản và ngƣời thừa kế
không đƣợc quyền hƣởng di sản
1.2.2.1. Người thừa kế có quyền hưởng di sản
Những người có quyền hưởng di sản của nhau là những người có mối
liên hệ với nhau về việc hưởng di sản của nhau. Vì thế, quyền hưởng di sản
của những người này có thể xác định theo hai căn cứ sau:
+ Theo quy định của pháp luật: Những người có quyền hưởng di sản
của nhau là những người mà giữa họ có mối liên hệ với nhau về một trong ba
mối quan hệ về hơn nhân, huyết thống và ni dưỡng.
+ Theo ý chí của các chủ thể: Là những người mà bằng ý chí của mình
(thể hiện trong di chúc), để lại di sản cho nhau.
Như vậy, quyền được quyền hưởng di sản của người đã chết để lại
trước hết thuộc về người thừa kế theo di chúc và người thừa kế thuộc diện và
hàng thừa kế theo luật sẽ được hưởng di sản. Tuy nhiên, thừa kế theo luật và
thừa kế theo di chúc chỉ là một căn cứ, ngồi ra cịn có những căn cứ khác để

một cá nhân, tổ chức có thể được hưởng di sản thừa kế.
Theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3
suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia
theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc
cho hưởng di sản hoặc cho hưởng di sản ít hơn 2/3 suất đó, trừ khi
họ là những người từ chối di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc
họ là những người khơng có quyền hưởng di sản theo quy định tại
Khoản 1 Điều 643 của bộ luật này:

24


- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng.
- Con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động [30].
Như vậy, quyền hưởng di sản không phụ thuộc và nội dung của di
chúc của những người thừa kế trong trường hợp trên là hoàn toàn phù hợp với
phong tục tập quán cũng như phù hợp với các quy tắc đạo đức trong đời sống
của người Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 677 Bộ luật Dân sự:
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha mẹ cháu được hưởng nếu còn sống, nếu
cháu cũng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di
sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ chắt được
hưởng hưởng nếu còn sống [30].
Dựa trên quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2005, người được
hưởng di sản là Nhà nước.
Trong trường hợp khơng có người thừa kế theo di chúc, theo
pháp luật hoặc có nhưng người thừa kế đó khơng được quyền

hưởng di sản, hoặc từ chối nhận di sản thì tài sản cịn lại sau khi đã
thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thì
tài sản thuộc về Nhà nước [30].
Như vậy, người có quyền hưởng di sản là những người thừa kế theo
pháp luật, theo di chúc, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc, người quản lý di sản, người được thừa kế thế vị và Nhà nước với tư
cách là chủ thể đặc biệt trong quan hệ thừa kế.
1.2.2.2. Người thừa kế không được quyền hưởng di sản
Trong các quan hệ tồn tại trong xã hội bao giờ cũng có sự mâu thuẫn,
bất đồng, cái tơi của mỗi người rất cao. Vì vậy, dễ dẫn đến tình trạng có

25


×