Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 118 trang )

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1:

5

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
LẠM DỤNG QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG

1.1.

Khái niệm thị trƣờng và cạnh tranh

5

1.1.1.

Khái niệm thị trƣờng

5

1.1.2.

Khái niệm cạnh tranh

7


1.2.

Khái niệm và đặc điểm hành vi lạm dụng quyền
lực thị trƣờng

15

1.2.1.

Khái niệm hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng

15

1.2.2.

Đặc điểm của hành vi lạm dụng quyền lực thị
trƣờng

20

1.3.

Kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng

24

1.3.1.

Sự cần thiết phải kiểm soát hành vi lạm dụng
quyền lực thị trƣờng


24

1.3.2.

Các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng quyền
lực thị trƣờng

27

CHƢƠNG 2:

30

CÁC TIÊU CHÍ CƠ BẢN ĐỂ XÁC ĐỊNH
HÀNH VI LẠM DỤNG QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG

2.1.

Thị trƣờng liên quan

30

2.1.1.

Thị trƣờng sản phẩm liên quan

32

2.1.2.


Thị trƣờng địa lý liên quan

37

2.1.3

Thị trƣờng liên quan ở phƣơng diện thời gian

39

2.1.4.

Một số chú ý khi xác định thị trƣờng liên quan

40


2.2.

Tiêu chí xác định quyền lực thị trƣờng của doanh
nghiệp

41

2.2.1.

Thị phần

41


2.2.2.

Rào cản gia nhập thị trƣờng

44

2.3.

Chủ thể lạm dụng quyền lực thị trƣờng và các
hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng.

51

2.3.1.

Chủ thể lạm dụng quyền lực thị trƣờng

51

2.3.2.

Một số hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng

54

CHƢƠNG 3:

76


PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT LẠM DỤNG
QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM

3.1.

Những qui định chung về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trƣờng, lạm dụng vị trí độc quyền

77

3.1.1.

Chủ thể

77

3.1.2.

Thị trƣờng liên quan

83

3.1.3.

Xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trƣờng, vị trí độc quyền (xác định quyền lực thị
trƣờng).

87


3.2.

Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng,
lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm

94

3.2.1.

Quan điểm, cách tiếp cận của Luật cạnh tranh về
hành vi lạm dụng bị cấm

94

3.2.2.

Các hành vi lạm dụng bị cấm

96

3.3.

Một số biện pháp cần thiết đảm bảo thi hành qui
định pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền ở góc độ pháp
luật nội dung

100

KẾT LUẬN


104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

106


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Đến cuối những năm 80, sau một thời gian khá dài áp dụng cơ chế kinh
tế kế hoạch hóa - tập trung, nền kinh tế Việt Nam đã bộc lộ rõ những khuyết
điểm và yếu kém không thể khắc phục trong thời kỳ mới. Do vậy Đảng và
Nhà nước ta đã quyết tâm xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cho đến nay, những kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới
đã chứng minh cho quyết tâm của Đảng và Nhà nước là hồn tồn đúng đắn
và có cơ sở. Diện mạo kinh tế của đất nước đã thay da đổi thịt từng ngày, các
thành phần kinh tế đa dạng tham gia kinh doanh sôi động và hào hứng góp
phần đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân trên 7%/năm.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, lợi ích và hiệu quả của một cơ
chế mới là không thể phủ nhận và bàn cãi. Tuy nhiên cơ chế thị trường khơng
phải là hồn hảo tuyệt đối mà nó cũng có những mặt trái, những vấn đề tiêu
cực nhất định. Cạnh tranh là quy luật cơ bản và quan trọng của nền kinh tế thị
trường, nó là yếu tố nội tại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nhưng ở
một khía cạnh khác, cạnh tranh chính là nhân tố tạo ra sự bất ổn của nền kinh
tế. Cạnh tranh gay gắt và quyết liệt sẽ dẫn tới tình trạng cạnh tranh khơng
lành mạnh hay hạn chế cạnh tranh và độc quyền. Với những khuyết tật này,
nền kinh tế thị trường sẽ bị thách thức rất lớn nếu để chúng tự do phát triển và

hoành hành.
Như ta vẫn biết, nền kinh tế thị trường có những qui luật nội tại vận
hành rất hiệu quả. Mặc dù vậy tự thân nó cũng khơng thể loại bỏ được những
khuyết tật như đã nêu trên mà phải nhờ tới sự can thiệp của Nhà nước, hay
nói cách khác là phải nhờ vào “bàn tay hữu hình” chứ khơng thể trơng đợi vào
“bàn tay vơ hình” được. Nhà nước can thiệp vào bằng nhiều cách, trong đó

-1-


cơng cụ pháp luật được biết đến với tính ưu việt mà khó có biện pháp nào có
thể thay thế.
Pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật kiểm sốt độc quyền nói
riêng đóng vai trị quan trọng trong việc duy trì cạnh tranh, tạo mơi trường
kinh tế ổn định và hiệu quả cho các chủ thể kinh doanh phát huy hết sức mạnh
của mình. Vì lẽ đó mà Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp
thứ 6 (năm 2004) đã thơng qua Luật cạnh tranh. Luật có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/07/2005 [53].
Luật cạnh tranh Việt Nam được ban hành chủ yếu dựa trên sự học hỏi
kinh nghiệm của quốc tế và các nước có nền kinh tế thị trường phát triển trên
thế giới. Thực ra điều này khơng có gì là ngạc nhiên khi biết rằng chúng ta
mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường chưa được 20 năm, kinh nghiệm
của ta về vấn đề này hầu như khơng có gì. Hơn nữa việc nghiên cứu Luật
cạnh tranh trong nước cũng chỉ mới ở những bước đi đầu tiên, theo đó hầu hết
các nghiên cứu tập trung vào những vấn đề chung và bao quát của Luật cạnh
tranh. Mặt khác, có thể thấy Luật cạnh tranh vừa được ban hành chưa được cụ
thể và chi tiết lắm, vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu để có
được sự nhận thức thống nhất và đúng đắn hoặc cụ thể hóa nhằm làm cho
việc thực thi Luật cạnh tranh được hiệu quả. Ví dụ cho vấn đề này là các qui
định của Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng quyền lực thị trường.

Với những phân tích trên cho thấy việc nghiên cứu pháp luật cạnh tranh
nói chung và đặc biệt là các vấn đề khác của pháp luật cạnh tranh ở mức độ
cụ thể là rất cần thiết. Đó cũng chính là lý do để chúng tôi quyết định lựa
chọn đề tài nghiên cứu của Luận văn này.
2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Pháp luật cạnh tranh về mặt nội dung thông thường được chia thành hai
lĩnh vực cơ bản là pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật
kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh (kiểm soát độc quyền). Trong đó lĩnh
vực pháp luật kiểm sốt hành vi hạn chế cạnh tranh có ba bộ phận pháp luật
-2-


chính tạo thành là: (i). Thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel); (ii). Lạm dụng
quyền lực thị trường và (iii). Tập trung kinh tế. Luận văn này khơng có tham
vọng giải quyết tất cả các vấn đề của pháp luật cạnh tranh và cũng không
nghiên cứu lĩnh vực pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh một cách
chung chung mà đi sâu hơn, cụ thể hơn bằng cách tập trung nghiên cứu pháp
luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường – một bộ phận của
pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Xuất phát từ tính cấp thiết và phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như
căn cứ vào những quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về chính
sách và pháp luật cạnh tranh. Luận văn có mục đích làm rõ hơn cơ sở lý luận
và thực tiễn cho việc xây dựng, hồn thiện và thực thi pháp luật pháp luật
kiểm sốt hành vi lạm dụng quyền lực thị trường, góp phần tạo dựng một mơi
trường kinh doanh lành mạnh mang tính cạnh tranh cao cho nền kinh tế Việt
Nam.
Để đạt được mục đích đề ra như vậy, luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật kiểm soát hành vi
lạm dụng quyền lực thị trường.
- Nghiên cứu thực trạng hành vi lạm dụng quyền lực thị trường ở Việt
Nam và pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường ở Việt
Nam.
- Đề xuất một số kiến nghị ban đầu phục vụ cho việc thi hành Luật
cạnh tranh mới có hiệu lực.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các vấn đề dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm, chính sách và
định hướng của Đảng và Nhà nước ta về các vấn đề kinh tế, pháp luật, xã hội.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: phương pháp biện

-3-


chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với
thực tiễn, phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp.
5. Bố cục của luận văn

Luận văn được bố cục theo trình tự:
Phần mở đầu
Chương I: Một số vấn đề lý luận về lạm dụng quyền lực thị trường
Chương II: Các tiêu chí cơ bản để xác định hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường
Chương III: Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường
ở Việt Nam.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


-4-


CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
LẠM DỤNG QUYỀN LỰC THỊ TRƢỜNG

1.1. Khái niệm thị trường và cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm thị trường

Thị trường không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng
xã hội, có nghĩa là nó chỉ xuất hiện trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch
sử nhất định, khi những điều kiện cho sự ra đời của nó đã đầy đủ. Thị trường
với ý nghĩa là đặc trưng của nền kinh tế chỉ xuất hiện trong điều kiện của nền
kinh tế sản xuất hàng hóa, tức là nền kinh tế sản xuất ra sản phẩm để bán trên
thị trường chứ không phải là sản xuất ra sản phẩm để tự cung tự cấp như
trong nền kinh tế tự nhiên hay sản xuất sản phẩm theo kế hoạch của Nhà nước
như trong nền kinh tế bao cấp ở nước ta trước đây. Thị trường càng ngày càng
phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất, lao động chun mơn hóa, lưu
thơng hàng hóa và lưu thơng tiền tệ.
Thị trường là khái niệm được nhiều ngành khoa học tiếp cận nghiên
cứu với mục đích riêng tùy theo yêu cầu của ngành khoa học đó. Nhưng có lẽ
đây là khái niệm được sử dụng nhiều nhất trong ngành khoa học kinh tế và
trên cơ sở của những kết quả nghiên cứu của khoa học kinh tế về thị trường,
các ngành khoa học khác đã sử dụng và phát triển một cách phù hợp theo u
cầu của mình.
Kinh tế chính trị Mác – Lênin cho rằng thị trường là lĩnh vực trao đổi
mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa
và mức sản lượng hàng hóa tiêu thụ [29, tr. 75].

Khoa học Marketing xác định thị trường bao gồm tất cả các khách hàng
có nhu cầu (needs) hay mong muốn (wants) chưa thỏa mãn, có khả năng và
sẵn sàng tham gia trao đổi để thỏa mãn những nhu cầu hay mong muốn đó
-5-


[28, tr. 12]. Khái niệm này thể hiện quan điểm của khoa học marketing dưới
góc nhìn của những người muốn bán hàng và tìm cách bán hàng.
Kinh tế học vi mô sau khi đưa ra một loạt khái niệm khác nhau về thị
trường đã kết luận đặc điểm của thị trường thể hiện là nơi người mua và
người bán tiếp xúc với nhau (tiếp xúc có thể là trực tiếp hay có thể là gián tiếp
qua điện thoại, fax…) và tìm cách để tối đa hóa lợi ích của mình. Người bán
muốn tối đa hóa lợi nhuận, người mua muốn tối đa hóa sự thỏa mãn thu được
từ sản phẩm họ mua [22, tr. 162].
Nói chung qua các phân tích về thị trường nêu trên ta có thể đi đến một
cách hiểu đơn giản hơn về thị trường để áp dụng trong khoa học pháp lý: thị
trường là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ của người mua và người
bán nhằm mục đích tối đa hóa các lợi ích của mình.
Đầu tiên khi mới xuất hiện, thị trường có thể được xác định rõ ràng và
khơng mấy khó khăn vì với điều kiện của sản xuất hàng hóa lúc đó, con người
chỉ có thể gặp gỡ trực tiếp để trao đổi hàng hóa trong một khu vực địa lý giới
hạn. Cùng với thời gian và sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người
không cần phải trực tiếp gặp gỡ để trao đổi hàng hóa mà có thể gián tiếp
thơng qua các phương tiện thơng tin truyền thông, thị trường từ chỗ nhỏ bé
như một cái chợ làng đã phát triển rộng khắp toàn cầu.
Thị trường ln có những yếu tố cấu thành cơ bản là người bán, người
mua và hàng hóa, dịch vụ được trao đổi giữa người bán và người mua. Ngoài
ra tùy thuộc vào từng loại thị trường mà các yếu tố khác có trở nên quan trọng
hay khơng. Những yếu tố này có thể là chất lượng sản phẩm, số lượng sản
phẩm, các điều kiện mua bán… Đây có thể xem như những đặc điểm riêng

làm nên đặc trưng của mỗi loại thị trường.
Người bán (nguồn cung) là một yếu tố cơ bản của thị trường, đây là đối
tượng cung cấp sản phẩm hàng hóa cho người mua. Giữa những người bán
ln có sự cạnh tranh với nhau nhằm chiếm lĩnh được phần thị trường lớn
hơn. Sự cạnh tranh này làm cho nền kinh tế phát triển thông qua việc các bên
-6-


phải tìm mọi cách để phát huy khả năng của mình như đổi mới phương thức
sản xuất, cơng nghệ, đầu tư cải tiến chất lượng sản phẩm, hạ giá thành… cách
thức cạnh tranh này là rất tích cực nên cần được khuyến khích. Tuy nhiên các
bên cũng có thể áp dụng những cách thức cạnh tranh không lành mạnh hay
thậm chí là các biện pháp để hạn chế cạnh tranh nhằm loại bỏ đối thủ để tìm
kiếm vị trí độc quyền.
Người mua (nguồn cầu) là đối tượng mà người bán ln hướng tới để
tiêu thụ sản phẩm mà mình tạo ra. Giữa người mua và người bán ln có
những mâu thuẫn tồn tại như việc người bán luôn muốn bán sản phẩm với giá
cao nhất có thể, trong khi đó người mua lại muốn mua sản phẩm với giá thấp
nhất có thể. Để cân bằng mâu thuẫn này, giá cả hàng hóa dịch chuyển đến vị
trí mà cả hai đều chấp nhận được. Việc giá cả hàng hóa dịch chuyển theo
chiều hướng có lợi cho ai hơn phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề, trong đó vấn đề
quyền lực thị trường của người bán cao hay thấp là rất quan trọng.
Hàng hóa, dịch vụ được cung cấp trên thị trường là đối tượng tác động
của cả người mua và người bán để đáp ứng lợi ích của mình. Người mua tác
động vào hàng hóa để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, người bán tác động vào
hàng hóa để tìm kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, người mua và
người bán tác động qua lại với nhau trên thị trường để xác định ba vấn đề
trọng tâm của tổ chức kinh tế: đó là sản xuất cái gì? Như thế nào? Và cho ai?
Người mua đã giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế và là đối tượng hướng tới
của mọi doanh nghiệp. Do vậy ngày càng thỏa mãn thị hiếu và đáp ứng sở

thích của người tiêu dùng đã trở thành phương châm, kim chỉ nam cho hành
động của các doanh nghiệp (người bán). Tuy nhiên với điều kiện có quyền lực
thị trường, người bán ln có xu hướng giảm sản lượng sản xuất trong tương
quan với khả năng sản xuất của mình và nhu cầu, khả năng tiêu dùng của
người mua nhằm mục đích tạo sự khan hiếm hàng hóa, làm giá cả hành hóa
tăng cao qua đó thu về lợi nhuận độc quyền.
1.1.2. Khái niệm cạnh tranh

-7-


Cũng giống như thị trường, cạnh tranh là một hiện tượng xã hội, nó chỉ
xuất hiện trong những điều kiện kinh tế – pháp lý cụ thể.
Kinh tế thị trường được xem là một trong những thành tựu vĩ đại nhất
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại, nhất là khi chúng ta đã từng
biết đến nền kinh tế tự nhiên với sự phát triển chậm chạp của xã hội, nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, trói buộc sự
năng động và sáng tạo của con người. Các học thuyết về kinh tế thị trường
hiện đại dù thuộc trường phái kinh tế tự do hay trường phái kinh tế can thiệp
đều chung quan điểm khi cho rằng cạnh tranh với tính cách là động lực phát
triển của nền kinh tế chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh cũng chỉ thực sự diễn ra khi pháp luật thừa nhận và bảo hộ
các loại hình sở hữu, khi tự do kinh doanh, tự do hợp đồng được bảo đảm.
Nhà nước không can thiệp sâu vào quá trình kinh doanh của các chủ thể mà
để các chủ thể tự xác định trên cơ sở khuôn khổ pháp lý mà nhà nước đã đặt
ra, đặc biệt nhà nước không tạo ra các rào cản để hạn chế sự nhập cuộc của
các chủ thể kinh doanh tiềm năng vì như vậy sẽ sớm dẫn đến độc quyền trong
lĩnh vực đó. Độc quyền là thái cực trái ngược của cạnh tranh, thể hiện ở chỗ
khơng có cạnh tranh nếu có độc quyền và khơng có độc quyền nếu cạnh tranh
thực sự diễn ra.

Cạnh tranh là một hiện tượng phức tạp do vậy có nhiều cách hiểu khác
nhau về nó. Với mục đích chung nhất, cạnh tranh là thuật ngữ để chỉ nỗ lực
của hai hay nhiều người (hoặc nhóm người) cùng đạt một mục tiêu xác định.
Cạnh tranh theo nghĩa đó diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội, từ thi đấu thể thao, thi đua văn nghệ… cho đến cạnh tranh trong kinh
doanh.
Từ điển kinh doanh xuất bản tại Anh năm 1992 đã định nghĩa về cạnh
tranh “là sự ganh đua, sự kình địch của các nhà kinh doanh trên thị trường
nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách
hàng về phía mình”.
-8-


Nói tóm lại, cạnh tranh theo nghĩa kinh tế được hiểu là sự ganh đua,
chạy đua giữa các doanh nghiệp kinh doanh cùng loại hàng hóa hoặc hàng
hóa có thể thay thế cho nhau trên một thị trường xác định với mục đích lơi
kéo được càng nhiều khách hàng, chiếm lĩnh được càng nhiều thị phần cho
mình càng tốt. Cạnh tranh có một số đặc trưng sau: (i). phải tồn tại thị trường;
(ii). Có sự tham gia của ít nhất hai hoặc nhiều người cung cấp hoặc có nhu
cầu và khả năng cung cấp; (iii). những người này có ít nhất một mục đích đối
lập nhau, việc đạt mục đích của người này chỉ có thể so sánh với sự chưa
thành công hoặc thất bại của người kia hoặc ngược lại. Tuy nhiên xét trên
bình diện lợi ích của tồn xã hội thì cạnh tranh ln có những tác động rất
tích cực.
Giống như quy luật sinh tồn và đào thải tự nhiên đã được Darwin phát
hiện, quy luật cạnh tranh có tác dụng thải loại những thành viên yếu kém của
thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất của thị trường thơng
qua đó hỗ trợ đắc lực cho q trình phát triển của tồn xã hội. Cạnh tranh là
một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Khơng có cạnh
tranh thì khơng có nền kinh tế thị trường hoặc ngược lại. Trong nền kinh tế thị

trường, khả năng cạnh tranh là điều kiện sống còn của doanh nghiệp. Kết quả
của cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, và vì vậy,
mỗi doanh nghiệp đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược cạnh tranh phù
hợp để vươn tới vị thế cao nhất. M. Porter đã đưa ra năm yếu tố lực lượng
quyết định mức độ cạnh tranh trong một ngành (hoặc một thị trường cụ thể)
là:
- Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành;
- Quyền lực thương lượng của phía những người cung ứng;
- Quyền lực thương lượng của phía những người tiêu thụ;
- Sự đe dọa của những người mới (hoặc sẽ) nhập cuộc;
- Sự đe dọa của những sản phẩm hoặc dịch vụ thay thế [31, tr. 12].

-9-


Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường chỉ mang tính tương đối, vì vậy
trên thực tế, bên cạnh những phương thức chiến lược để nâng cao vị trí của
mình, một số doanh nghiệp cịn tìm cách làm giảm vị thế tuyệt đối của các đối
thủ hoặc kiềm chế số lượng đối thủ tham gia nhập cuộc. Như vậy bên cạnh
các phương thức cạnh tranh tích cực, doanh nghiệp cịn sử dụng cả các biện
pháp cạnh tranh tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến đối thủ và nguy hại hơn cả là
triệt tiêu động lực phát triển của nền kinh tế. Những biện pháp cạnh tranh tiêu
cực này do vậy cần được kiểm soát và ngăn cấm.
Nhận dạng cạnh tranh:
Nhận dạng canh tranh thực ra là cách thức phân loại cạnh tranh trên thị
trường. Cơng việc này có vai trị quan trọng để xác định tính chất và mức độ
biểu hiện của cạnh tranh trên từng loại hình thị trường, trên cơ sở đó pháp luật
cạnh tranh sẽ có những biện pháp tác động phù hợp, hiệu chỉnh những hành vi
sai lạc để lành mạnh hóa mơi trường kinh doanh.
Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của cơng quyền vào đời sống

kinh tế, ta có cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước.
* Cạnh tranh tự do là một hình thức khơng có sự can thiệp của nhà
nước. Hình thức này, nếu xem xét ở mức độ chung nhất thì có thể nói rằng
hiện nay khơng cịn quốc gia nào áp dụng nữa. Đây là qui luật đặc thù của
phương thức sản xuất tư bản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi mà giai cấp tư
sản vừa mới giành được chính quyền nên khuyến khích sự tự do của mọi
người đúng theo tiêu chí của cuộc cách mạng tư sản đã đề ra. Thời kỳ này
cũng là giai đoạn giai cấp tư sản bắt đầu tích lũy và tập trung tư bản trên nền
tảng “tự do được nuôi dưỡng bởi chính tự do”. Cạnh tranh tự do được xây
dựng trên nền tảng học thuyết bàn tay vơ hình của Adam Smith. Học thuyết
này được phát biểu như sau: trong khi chạy theo tư lợi thì có một bàn tay vơ
hình buộc con người kinh tế đồng thời phải thực hiệm nhiệm vụ khơng có
trong dự kiến là đáp ứng lợi ích xã hội và đơi khi họ cịn đáp ứng tốt hơn ngay
cả khi họ có ý định làm điều đó từ trước. “Bàn tay vơ hình” chính là các qui
- 10 -


luật kinh tế khách quan tự phát, chi phối hoạt động của con người một cách
hiệu quả. Sự can thiệp của Nhà nước được coi là kẻ thù của cạnh tranh.
* Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước là loại hình tồn tại trong nền
kinh tế hiện đại. Cho đến nay, khơng có quốc gia nào là khơng có sự can thiệp
vào đời sống kinh tế, có khác chăng đó chỉ là mức độ can thiệp mà thơi. Điều
này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 – 1933. Cuộc
khủng hoảng kinh tế đã chứng kiến sự sụp đổ của hình thái thị trường cạnh
tranh tự do và học thuyết “bàn tay vơ hình” khi chúng để lại những khuyết tật
không thể hàn gắn trong nền kinh tế như thất nghiệp, lạm phát, phá sản, lãng
phí tài nguyên… và các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các khuyết tật đó khơng
thể được giải quyết chỉ bởi “bàn tay vơ hình” mà cần có sự can thiệp của Nhà
nước, một tổ chức có quyền lực mạnh mẽ.
Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh, ta có

cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
* Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh đẹp và trong sáng, cạnh
tranh bằng những tiềm năng vốn có của doanh nghiệp như cơng nghệ, trình độ
quản lý, khả năng về vốn, giá thành… và phải tuân theo những chuẩn mực
kinh doanh truyền thống, không được trái pháp luật.
* Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh ngược lại
với cạnh tranh lành mạnh. Biểu hiện của nó là các hành vi của chủ thể kinh
doanh nhằm mục đích cạnh tranh đã không trung thực, gian dối, không phù
hợp với các hành vi xử sự lành mạnh, cao thượng trong sản xuất và kinh
doanh.
Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành,
một lĩnh vực kinh tế, ta có cạnh tranh hồn hảo và cạnh tranh khơng hoàn hảo
mà biểu hiện cao độ là độc quyền.
* Cạnh tranh hoàn hảo: thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường
trong đó cả người mua và người bán đều cho rằng các quyết định mua và bán

- 11 -


của họ khơng ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường [13, tr. 24]. Cạnh tranh hồn
hảo có những đặc trưng sau:
- Có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Số lượng được
coi là nhiều khi những giao dịch bình thường của một người mua hoặc một
người bán khơng ảnh hưởng gì đến giá mà ở đó các giao dịch được thực hiện.
- Tất cả các đơn vị hàng hóa được trao đổi được coi là giống nhau,
nghĩa là sản phẩm của các doanh nghiệp là đồng nhất hoặc tiêu chuẩn hóa
hồn hảo. Dễ nhận thấy trong thị trường thực tế có đặc trưng này như thị
trường than đá, thị trường xăng cùng một cấp chất lượng, người mua không
mấy khi quan tâm họ mua sản phẩm của đơn vị bán nào.
- Mỗi doanh nghiệp trong ngành phải chiếm một thị phần rất nhỏ, điều

này đảm bảo rằng việc thay đổi sản lượng của một hoặc một số doanh nghiệp
khơng ảnh hưởng gì tới giá thị trường. Tương tự, người mua cũng mua với số
lượng nhỏ để không tạo ra lợi thế áp đặt giá.
- Mọi yếu tố đầu vào của sản xuất được tự do dịch chuyển để phản ứng
nhanh chóng với những thay đổi có thể xảy ra.
- Tất cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thơng
tin liên quan đến việc trao đổi. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi tất cả
người mua và người bán đều có liên hệ với tất cả những người trao đổi tiềm
năng, biết tất cả các đặc trưng của những hàng hóa trao đổi, biết tất cả giá
người mua địi và giá người bán trả. Mọi người có liên hệ mật thiết với nhau
và thông tin giữa họ là liên tục.
- Khơng có gì cản trở việc gia nhập và rút khỏi thị trường. Ở mỗi thời
điểm, mỗi người đều phải được tự do để trở thành người mua hoặc người bán,
được tự do gia nhập thị trường và được trao đổi ở cùng mức giá như những
người trao đổi hiện hành. Tương tự, nó địi hỏi khơng có trở ngại nào ngăn
cản khơng cho một người nào đó thơi khơng là người mua hoặc người bán
trong thị trường và vì thế rút khỏi thị trường.

- 12 -


Trên thực tế khơng thể có cạnh tranh hồn hảo vì chính những mâu
thuẫn trong bản thân học thuyết này. Các đặc trưng phải có của cạnh tranh
hồn hảo cũng chính là những nhân tố khơng thể cùng xảy ra trên thực tế. Do
vậy cạnh tranh hồn hảo chỉ có ý nghĩa làm cơ sở cho các phân tích lý thuyết
chứ khơng có giá trị thực tiễn.
* Cạnh tranh khơng hồn hảo: Đây là hình thức cạnh tranh chiếm ưu
thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các chủ thể kinh doanh có quyền lực thị
trường tương đối lớn để có thể kiểm sốt giá cả sản phẩm đầu ra hoặc đầu vào
của họ. Cạnh tranh khơng hồn hảo có mấy loại sau: cạnh tranh mang tính

độc quyền, độc quyền nhóm và độc quyền.
- Cạnh tranh mang tính độc quyền (Moloplistic Competition) là hình
thức cạnh tranh mà ở thị trường có một số lượng đơng người bán sản xuất ra
các sản phẩm có sự khác biệt. Trong nhiều trường hợp, những người bán có
thể bắt buộc những người mua chấp nhận giá sản phẩm do họ định ra.
Trong thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền, mức độ cản trở sự
gia nhập thị trường ở mức thấp hơn so với trường hợp độc quyền nhóm và
độc quyền. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội tham gia thị trường với
những sản phẩm mang tính khác biệt và điều chỉnh tăng hay giảm giá bán sản
phẩm của mình nhiều hơn trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Lợi
nhuận mà các chủ thể cạnh tranh thu được trong thị trường chỉ là hữu hạn, khi
đó, chi phí sản xuất và số lượng các sản phẩm khác biệt mới tham gia thị
trường thay đổi không đáng kể. Cạnh tranh mang tính độc quyền tạo ra sự dư
thừa các sản phẩm mới, trong khi các sản phẩm chỉ có sự khác biệt nhau đôi
chút. Các nhà kinh tế học cho rằng, việc xố bỏ sự khác biệt khơng cần thiết
giữa các sản phẩm mới sẽ thực sự làm giảm chi phí và giảm giá. Tuy nhiên,
lập luận về việc giảm bớt các nhà cạnh tranh độc quyền sẽ có tác dụng làm
giảm chi phí, song cùng với nó, sẽ làm hạn chế quyền lựa chọn của người tiêu
dùng khi hàng hố khơng cịn tồn tại đa dạng nữa.

- 13 -


- Độc quyền nhóm: là hình thái thị trường mà trong đó chỉ có một ít các
nhà sản xuất. Những hoạt động thực hiện chính sách giá cả của một doanh
nghiệp độc quyền nhóm thường gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến giá cả
thị trường và sự quyết định giá của doanh nghiệp khác. Hay nói một cách
khác, độc quyền nhóm (tập đồn độc quyền) cịn được gọi là cạnh tranh giữa
một số lượng nhỏ các doanh nghiệp (Theo P.A Samuelson, số lượng nhỏ các
nhà doanh nghiệp có thể từ 2 đến 10 hoặc 15 doanh nghiệp). Sự thay đổi về

giá của một doanh nghiệp gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu đối
với sản phẩm của các doanh nghiệp khác và ngược lại. Ở những nước phát
triển, hình thái cạnh tranh này thường xuất hiện ở những ngành nghề sản xuất
ôtô, thép, xi măng…
- Độc quyền là hình thức biểu hiện cao độ của cạnh tranh khơng hồn
hảo, khi đó có thể nói cạnh tranh đã khơng thể diễn ra. Đây là hình thức mà ở
đó chỉ có duy nhất một doanh nghiệp cung cấp sản phẩm mà khơng có doanh
nghiệp nào khác cung cấp sản phẩm tương tự như thế. Việc gia nhập ngành
sản xuất này là rất khó khăn hoặc khơng thể thực hiện được.
Cạnh tranh mang tính độc quyền, độc quyền nhóm hay độc quyền (gọi
chung là độc quyền) có nguyên nhân từ chính q trình cạnh tranh. Q trình
cạnh tranh gay gắt đã loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, trong khi đó
những doanh nghiệp hiệu quả thì ngày càng được củng cố vị thế trên thị
trường. Do đó những doanh nghiệp nào cịn tồn tại được nhưng khơng hiệu
quả khơng thể cạnh tranh được, mặt khác những doanh nghiệp tiềm năng dù
có gia nhập thị trường được cũng phải mất nhiều thời gian và sức lực để bám
đuổi, cùng thời gian đó những doanh nghiệp hiệu quả vẫn được củng cố.
Ngồi ngun nhân cạnh tranh thì độc quyền cịn có những ngun nhân
chính khác là (i). đặc thù cơng nghệ và ngành hàng; (ii). thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp trong ngành và (iii). những rào cản cho sự gia nhập thị trường
của các doanh nghiệp tiềm năng.

- 14 -


Độc quyền khơng hẳn hồn tồn xấu mà ngược lại, trong một số lĩnh
vực nhất định độc quyền mới là biện pháp hiệu quả được lựa chọn cho ngành
kinh tế (dịch vụ công, lĩnh vực liên quan đến an ninh – quốc phòng…) Hơn
nữa một số trường hợp độc quyền chính là kết quả của q trình kinh doanh
đúng đắn của doanh nghiệp và điều này cần sự khuyến khích. Trường hợp

khác, chỉ khi doanh nghiệp độc quyền nhóm hay doanh nghiệp độc quyền có
những hành vi lạm dụng vị thế của mình thì mới thực sự nguy hiểm. Nhà
nước cần kiểm sốt độc quyền được hình thành hợp pháp và đối với độc
quyền hình thành bất hợp pháp thì cần có sự cấm đốn và xử lý triệt để.
Tuy nhiên trên thực tế, khi đã chiếm được vị trí độc quyền, hầu hết các
doanh nghiệp ln tìm mọi cách để duy trì địa vị thống trị thị trường của mình
với các thủ đoạn như: thơn tính, tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh, ngăn cản
không cho các doanh nghiệp tiềm năng gia nhập thị trường... tiếp tục củng cố
ưu thế và sức mạnh thị trường bằng việc rủ rê các đối thủ liên kết tạo sức
mạnh, phân chia thị trường, định giá cả... Ngay từ thế kỷ XX, Adam Smith
trong “Của cải của các dân tộc” đã chỉ ra bản chất của độc quyền là: “Bằng
cách làm cho thị trường luôn luôn không đủ dự trữ, các nhà độc quyền... đã
bán hàng hoá của họ với mức giá cao hơn giá tự nhiên rất nhiều, và nhờ đó,
tăng phần thu nhập của họ dưới dạng tiền thưởng hay lợi nhuận...” Độc quyền
trở thành lực cản, gây trở ngại cho mơi trường cạnh tranh. Do vậy khi nói đến
độc quyền mọi người nghĩ ngay đến vấn đề tiêu cực cho dù về lý thuyết
khơng hồn tồn là như vậy.
Lạm dụng quyền lực thị trường thực chất là hành vi của doanh nghiệp
độc quyền sử dụng vị thế độc quyền của mình trên thị trường vào mục đích
hạn chế cạnh tranh, bóc lột người tiêu dùng. Lạm dụng quyền lực thị trường
chỉ là một hình thức biểu hiện cụ thể của độc quyền và chỉ tồn tại trong môi
trường cạnh tranh khơng hồn hảo. Ngồi mơi trường này sẽ khơng có hành
vi lạm dụng quyền lực thị trường.
1.2. Khái niệm và đặc điểm hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

- 15 -


1.2.1. Khái niệm hành vi lạm dụng quyền lực thị trường


Để đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường thật sự không phải dễ bởi đây là vấn đề có nội dung phức tạp. Kinh
nghiệm của quốc tế và các nước phát triển cũng không chú trọng nhiều vào
việc đưa ra một định nghĩa chuẩn và chính xác cho hành vi này mà thường
xác định những tiêu chí cơ bản để nhận diện hành vi lạm dụng quyền lực thị
trường. Tuy nhiên, một đinh nghĩa tương đối về hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường cũng rất có ý nghĩa vì nó giúp cho việc xác định các tiêu chí nhận
diện hành vi lạm dụng quyền lực thị trường được đầy đủ và có hệ thống.
Trước tiên, muốn xác định hành vi lạm dụng quyền lực thị trường cần
phải hiểu thế nào là quyền lực thị trường. Theo từ điển thương mại quốc tế
(Walter Good), địa vị thống trị thị trường (quyền lực thị trường) là khả năng
của một doanh nghiệp có thể gây ảnh hưởng đến cách xử sự của một doanh
nghiệp khác bất kỳ là ngược hay xi. Theo đó quyền lực thị trường là khả
năng ảnh hưởng của một doanh nghiệp đến hành vi của một doanh nghiệp
khác trên thương trường.
Quyền lực thị trường cũng có thể được hiểu là khả năng kiểm soát thực
tế hoặc tiềm năng đối với thị trường của một hay một nhóm doanh nghiệp. Sự
kiểm sốt có thể căn cứ trên các cơ sở: thị phần, doanh thu hàng năm, qui mô
tài sản, số lượng nhân viên… ngồi ra nó cịn được căn cứ vào khả năng của
doanh nghiệp trong việc tăng (hoặc giảm) giá trên (hoặc dưới) mức cạnh tranh
trên thị trường trong một giai đoạn nhất định [27, tr. 50-55].
Dựa trên nhận thức của khoa học kinh tế, có quan điểm cho rằng quyền
lực thị trường là khả năng của doanh nghiệp chi phối thị trường thông qua
việc tác động vào các yếu tố của thị trường. Yếu tố của thị trường ở đây có
thể là người mua (người bán), sản lượng hàng hóa, giá cả hàng hóa hoặc
những điều kiện mua bán hàng hóa khác. Ví dụ: doanh nghiệp có thể nâng giá
bán hàng hóa trên thị trường vượt mức giá tự nhiên mà không cần quan tâm
đến phản ứng của các doanh nghiệp cạnh tranh hoặc của người tiêu dùng.
- 16 -



Nói chung, những quan điểm về quyền lực thị trường nêu trên mới
phản ánh hiện tượng ở góc độ kinh tế một cách thông thường. Nếu vận dụng
vào khoa học pháp lý (đặc biệt ứng dụng vào pháp luật cạnh tranh) thì vẫn
chưa thực sự đầy đủ. Trong hình thái thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo,
theo cách hiểu thơng thường như vậy thì bất cứ một doanh nghiệp nào cũng
có quyền lực thị trường, bởi vì bản thân doanh nghiệp là độc quyền đối với
sản phẩm của mình do vậy dù ít hay nhiều họ cũng có quyền lực thị trường.
Điều quan trọng là không phải hiểu quyền lực thị trường với ý nghĩa như vậy
vì nó sẽ khơng giải quyết được bất cứ vấn đề gì. Quyền lực thị trường cần
phải được làm rõ hơn, tức là phải đo lường được mức độ quyền lực thị trường
của một hay một nhóm doanh nghiệp cụ thể.
Những nhân tố có xu hướng tạo ra quyền lực thị trường bao gồm mức
độ tập trung cao độ về kinh tế, sự tồn tại của những rào cản gia nhập thị
trường và thiếu khả năng lựa chọn với một sản phẩm được cung cấp bởi các
doanh nghiệp cho rằng có quyền lực thị trường.
Theo pháp luật cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có quyền lực thị
trường phải đạt đến mức độ mà nếu muốn, doanh nghiệp có thể sử dụng
quyền lực thị trường để hạn chế cạnh tranh hoặc bóc lột người tiêu dùng,
ngược lại doanh nghiệp sẽ không được coi là có quyền lực thị trường. Mức độ
này được xác định trên các tiêu chí thị phần, rào cản gia nhập thị trường hoặc
một số yếu tố khác làm doanh nghiệp có khả năng hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể như năng lực tài chính, số lượng nhân viên, trình độ khoa học,
cơng nghệ, nhãn hiệu hàng hóa, qui mơ của hệ thống phân phối… (các tiêu
chí thị phần và rào cản gia nhập doanh nghiệp sẽ được phân tích cụ thể trong
chương II). Hầu hết những nước đã xây dựng pháp luật cạnh tranh đều sử
dụng tiêu chí thị phần làm thước đo chính cho mức độ quyền lực thị trường.
Tuy vậy, thực tế cũng chỉ ra rằng rất khó đưa ra tiêu chí cụ thể để xác
định quyền lực thị trường của doanh nghiệp trong mọi trường hợp. Ví dụ ở
Mỹ, quyền lực độc quyền khơng được qui định trong văn bản luật nhưng Tòa

- 17 -


án thường xác định là “quyền kiểm soát giá cả thị trường hoặc loại trừ cạnh
tranh”. Thị phần không phải là yếu tố duy nhất được xem xét trong việc xác
định liệu quyền lực thị trường có tồn tại hay khơng. Các yếu tố khác, như là
khơng có rào cản gia nhập thị trường, có thể cho thấy một doanh nghiệp
khơng có quyền lực thị trường cho dù doanh nghiệp đó nắm giữ thị phần lớn
trong thị trường liên quan. Ví dụ trong vụ Michelin, Tịa án Cộng đồng Châu
Âu ra phán quyết rằng, căn cứ vào điều 82 Hiệp ước thành lập Cộng đồng
kinh tế Châu Âu (EEC) doanh nghiệp có quyền lực thị trường được hiểu là
sức mạnh kinh tế cho phép doanh nghiệp hành động độc lập với đối thủ cạnh
tranh và người tiêu dùng. Bên cạnh thị phần, lợi thế về mặt cấu trúc cũng rất
quan trọng. Ví dụ trong vụ United Brand, Tịa án Cộng đồng Châu Âu đã
phán quyết rằng: việc Công ty này có phạm vi liên kết dọc lớn và chiến lược
quảng cáo của nó chỉ nhằm vào một nhãn hiệu duy nhất là “Chiquita”, do đó
đã đảm bảo cho Cơng ty này một lượng khách hàng ổn định và rằng Công ty
đã kiểm sốt được mọi giai đoạn của q trình phân phối mà khi kết hợp với
nhau đã tạo cho Công ty một lợi thế vô cùng to lớn so với đối thủ cạnh tranh.
Kết quả là, quyền lực thị trường có được do sự kết hợp của rất nhiều yếu tố
mà nếu tách rời nhau, sẽ khơng có tính quyết định đến vậy [27, tr. 54].
Có quyền lực thị trường được hiểu là vị trí của khơng chỉ một doanh
nghiệp mà cịn có thể là của một nhóm doanh nghiệp cùng hành động. Ở đây
rõ ràng muốn đề cập tới những thị trường có độ tập trung cao như trong
trường hợp độc quyền nhóm, khi mà một nhóm doanh nghiệp kiểm soát phần
lớn thị trường, do vậy các doanh nghiệp này có thể thống lĩnh và hành động
như một doanh nghiệp độc quyền.
Một vấn đề cần phải chú ý khi tìm hiểu quyền lực thị trường của doanh
nghiệp là bản thân quyền lực thị trường không phải là hạn chế cạnh tranh,
mặc dù vế tiếp theo của nó là hành vi lạm dụng quyền lực thị trường luôn đi

kèm với doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Hiểu
rõ vấn đề này là rất cần thiết để có cách đánh giá và xử lý đúng đắn với doanh

- 18 -


nghiệp có quyền lực thị trường, tránh thái độ gộp chung cả doanh nghiệp có
quyền lực thị trường vào chung với doanh nghiệp có hành vi hạn chế cạnh
tranh, coi đó như những tiêu cực nguy hiểm cần phải xử lý triệt để. Nhưng
cũng phải thừa nhận một thực tế là khoảng cách giữa quyền lực thị trường và
hành vi lạm dụng quyền lực thị trường rất gần nhau.
Thực tiễn sinh động trong nền kinh tế thị trường ở nhiều quốc gia trên
thế giới đã chứng tỏ rằng, sự tồn tại của các doanh nghiệp có quyền lực thị
trường mang tính tất yếu khách quan trong q trình tích tụ và tập trung tư
bản lâu dài ở môi trường cạnh tranh. Hơn thế, sự hình thành các doanh nghiệp
có quyền lực thị trường cịn mang tính tự nhiên trong một số ngành kinh tế
mà sản xuất địi hỏi chi phí cố định cao, qui mô sản xuất tối thiểu, hiệu quả
lớn, tạo ra rào cản tự nhiên cản trở sự gia nhập ngành của các doanh nghiệp
tiềm năng. Mặt khác, sự hình thành các doanh nghiệp có địa vị thống trị thị
trường trong các ngành kinh tế khác còn do một số nguyên nhân như độc
quyền hợp pháp sản xuất và kinh doanh các sản phẩm có đăng ký patent, do
lợi thế tuyệt đối về chi phí vận tải, do lợi thế tuyệt đối về nguyên vật liệu hoặc
các ngành mà nhà nước phải độc quyền vì lý do an ninh và xã hội [13, tr.
131]. Như vậy trên thương trường, đã và sẽ có các doanh nghiệp có quyền lực
thị trường do hoạt động có hiệu quả và phát triển không ngừng mà không cần
tới sự trợ giúp của công quyền, của chụp giật và thiếu lành mạnh. Đương
nhiên pháp luật không thể cấm hay hạn chế sự phát triển lành mạnh đó. Song
để duy trì cạnh tranh, pháp luật khơng thể khơng nhìn thấy trước nguy cơ tiềm
tàng của việc lạm dụng quyền lực thị trường của các doanh nghiệp này và dự
kiến các biện pháp xử lý khi chúng xuất hiện.

Nói đến quyền lực thị trường, khơng thể không nhắc tới cách tiếp cận
vấn đề này của nhiều môn khoa học kinh tế (đại diện là khoa học Marketing)
trong so sánh với pháp luật kiểm soát độc quyền. Nhìn qua tưởng như có sự
đối lập khi pháp luật kiểm sốt độc quyền tìm cách kiểm sốt hoặc hạn chế
doanh nghiệp có quyền lực thị trường, trong khi đó khoa học Marketing lại

- 19 -


tìm mọi cách để doanh nghiệp có càng nhiều quyền lực thị trường càng tốt.
Tuy nhiên mục đích của cả hai lại giống nhau. Pháp luật kiểm soát độc quyền
tiếp cận vấn đề từ mặt trái của nó, coi quyền lực thị trường và lạm dụng
quyền lực thị trường là nguy cơ rất lớn của hạn chế cạnh tranh nên cần phải
kiểm sốt hoặc hạn chế để đảm bảo mơi trường kinh doanh mang tính cạnh
tranh, các doanh nghiệp có điều kiện để phát huy tối đa năng lực của mình.
Khoa học Marketing tiếp cận vấn đề ở góc độ tích cực, đó là khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp nói chung, khơng phải của một doanh nghiệp cụ thể
nào. Doanh nghiệp càng có khả năng cạnh tranh cao càng có lợi cho nền kinh
tế, càng thể hiện tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh do vậy cần được
nâng cao khả năng cạnh tranh cũng có nghĩa là nâng cao quyền lực thị trường.
Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường:
Bản thân từ “lạm dụng” đã chỉ rõ bản chất của khái niệm này. Đó
khơng phải là một hành vi mang ý nghĩa tích cực mà mang ý nghĩa tiêu cực,
khơng được khuyến khích và ủng hộ. Một doanh nghiệp có quyền lực thị
trường nếu sử dụng ưu thế này của mình vào những mục đích đúng đắn có lợi
cho người tiêu dùng thì ln được khuyến khích vì lợi ích nó tạo ra lớn hơn
hẳn các doanh nghiệp khơng có quyền lực thị trường. Tuy nhiên khi doanh
nghiệp chỉ biết đến lợi ích của riêng mình, sử dụng ưu thế này vào mục đích
xấu, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và hạn chế cạnh tranh thì việc sử dụng
đó được gọi là lạm dụng.

Như vậy, lạm dụng quyền lực thị trường là hành vi của doanh nghiệp
có quyền lực thị trường sử dụng để bóc lột người tiêu dùng hoặc gây hạn chế
cạnh tranh nhằm duy trì hay tăng cường vị thế của nó trên thị trường.
Án lệ của Tòa án Châu Âu trong vụ United Brand (United Brand v.
Commission, Case 27/76 [1978] ECR 207, [1978] CMLR 429) cho rằng lạm
dụng quyền lực thị trường được hiểu như vị thế của sức mạnh kinh tế đạt
được có thể cho phép sự cản trở cạnh tranh hiệu quả trên thị trường xác định

- 20 -


bằng việc ảnh hưởng đáng kể đến tính độc lập của đối thủ cạnh tranh, khách
hàng và những người tiêu dùng cuối cùng.
Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường có thể là bất cứ hành vi nào của
doanh nghiệp có quyền lực thị trường với mục đích hạn chế cạnh tranh, bóc
lột người tiêu dùng. Tuy nhiên pháp luật cạnh tranh không thể liệt kê hết được
các hành vi này (điều này cũng phi thực tế) mà chỉ có thể liệt kê một số hành
vi tiêu biểu như: bán phá giá; phân biệt đối xử; ấn định gia bán lại; hạn chế
nhập khẩu song song; áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau trong giao
dịch như nhau; ngăn cản sự tham gia thị trường của đối thủ cạnh tranh mới…
(các hành vi làm dụng quyền lực thị trường tiêu biểu sẽ được phân tích cụ thể
tại chương II).
1.2.2. Đặc điểm của hành vi lạm dụng quyền lực thị trường

Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường có một số đặc điểm sau:
* Chủ thể của hành vi phải là các chủ thể tham gia kinh doanh (như các
doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh… gọi chung là doanh nghiệp) mà không
phải là các chủ thể khác của luật cạnh tranh như hiệp hội ngành nghề, cơ quan
nhà nước… (nghĩa là các chủ thể không tham gia kinh doanh nhưng vẫn có
ảnh hưởng tới thị trường, tới cạnh tranh). Như vậy, chủ thể của hành vi lạm

dụng quyền lực thị trường phải tham gia thị trường với tư cách là một lực
lượng thị trường. Các chủ thể khác đứng ngoài thị trường, khơng phải là lực
lượng thị trường dù có quyền lực tác động đến thị trường sẽ không được coi
là chủ thể của hành vi này.
Trường hợp đặc biệt. Có một loại chủ thể mà có thể hành vi của nó
cũng dẫn đến hạn chế cạnh tranh, gây hậu quả đối với cạnh tranh tương tự
như hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của doanh nghiệp đó là các cơ
quan nhà nước. Loại chủ thể này không được xếp vào nhóm chủ thể của hành
vi lạm dụng quyền lực thị trường nhưng hành vi của nó rất có ảnh hưởng đến
cạnh tranh, đặc biệt ở các nền kinh tế chuyển đổi. Nhiều tài liệu nghiên cứu
đặt tên cho hành vi gây hạn chế cạnh tranh của cơ quan nhà nước là “độc
- 21 -


quyền hành chính” (hoặc là sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước có được
do các quyết định hành chính mang lại).
* Hành vi lạm dụng là của doanh nghiệp có quyền lực thị trường, nếu
doanh nghiệp khơng có quyền lực thị trường sẽ khơng có loại hành vi này.
Đây là đặc trưng riêng có của hành vi lạm dụng quyền lực thị trường bởi các
doanh nghiệp tham gia cartel khơng nhất thiết phải có quyền lực thị trường
cũng có thể thực hiện được các hành vi hạn chế cạnh tranh. Hoặc trong trường
hợp tập trung kinh tế cũng vậy, không nhất thiết các doanh nghiệp tham gia
tập trung kinh tế phải có quyền lực thị trường mà pháp luật chỉ quan tâm đến
kết quả của việc tập trung xem liệu có hình thành một thực thể mới có quyền
lực thị trường hay không.
* Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường luôn diễn ra trên một thị
trường xác định bởi vì đây là hành vi cụ thể của một hoặc một số doanh
nghiệp cụ thể chứ không phải là một hành vi chung chung, do đó nó phải thể
hiện ở trên một thị trường có thể xác định và nhận biết được. Trong khoa học
Marketing, thị trường được phân thành nhiều khúc khác nhau căn cứ vào

nhiều tiêu chí. Tuy nhiên cách phân loại này chỉ phục vụ cho việc bán hàng
của doanh nghiệp chứ không thể áp dụng để xác định hành vi lạm dụng quyền
lực thị trường được. Pháp luật cạnh tranh đã xây dựng một khái niệm về thị
trường để phục vụ cho công việc này, đó là “thị trường liên quan”. Chúng ta
sẽ xem xét cụ thể khái niệm này ở phần sau, trong Chương II.
* Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của doanh nghiệp ln thể
hiện tính đơn phương, khơng có sự thỏa thuận hay hợp tác với bất cứ một
doanh nghiệp nào. Trường hợp nhóm doanh nghiệp có hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường thì cũng khơng phải họ đã thỏa thuận hay hợp tác với
nhau để thực hiện hành vi mà do họ với tư cách từng doanh nghiệp một thực
hiện hành vi lạm dụng quyền lực thị trường một cách riêng rẽ, tổng hợp sức
mạnh của họ sẽ tạo ra một chủ thể mang quyền lực thị trường có các hành vi
gây hạn chế cạnh tranh nên cần được kiểm sốt. Nếu nhóm doanh nghiệp này
- 22 -


có sự thỏa thuận, liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh thì đó là thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi này được điều chỉnh bởi qui định kiểm
soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh (cartel) chứ khơng phải qui định kiểm sốt
lạm dụng quyền lực thị trường.
Đặc điểm này rất quan trọng để phân biệt hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (cartel) và tập trung kinh tế.
Trong nhiều trường hợp, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế
cũng có sự tham gia của một hay nhiều doanh nghiệp hoặc nhóm doanh
nghiệp có quyền lực thị trường nhưng chúng đều là kết quả của sự chủ động
bàn bạc, thống nhất phương hướng hành động.
* Hành vi lạm dụng quyền lực thị trường là hành vi thực tế, nghĩa là nó
đã được doanh nghiệp thực hiện và có hậu quả làm hạn chế cạnh tranh trên thị
trường, bóc lột người tiêu dùng. Hành vi và hậu quả của hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường luôn luôn xuất hiện cùng lúc. Thoả thuận hạn chế cạnh

tranh và tập trung kinh tế dù đã xảy ra trên thực tế (Ví dụ: các doanh nghiệp
đã thoả thuận nâng gia bán, thu hẹp sản lượng sản xuất; hợp nhất doanh
nghiệp thành doanh nghiệp có thị phần lớn) nhưng hậu quả làm hạn chế cạnh
tranh chưa chắc đã xảy ra. Với ví dụ trên, trường hợp hậu quả chưa xảy ra là
khi các doanh nghiệp chưa kịp thực thi thoả thuận trên thị trường (nó vẫn chỉ
tồn tại trên giấy) thì bị cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện và xử lý; trường
hợp tập trung kinh tế mới làm xuất hiện một doanh nghiệp có thị phần lớn,
chưa có hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng vẫn bị xử lý vì nguy cơ doanh
nghiệp đó thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh là rất cao.
* Tính nguy hại của hành vi lạm dụng quyền lực thị trường không chỉ
dừng lại ở chỗ gây ảnh hưởng bất lợi đối với doanh nghiệp cạnh tranh hay
người tiêu dùng như hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh mà nguy hại hơn,
nó tác động xấu đến mơi trường cạnh tranh nói chung, làm ảnh hưởng xấu tới
lợi ích cơng cộng. Chính ảnh hưởng thứ hai mới là nguyên nhân chính để nhà
nước can thiệp. Sự can thiệp của nhà nước vì thế khơng cần đợi có chủ thể bị
- 23 -


×