Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học VHGĐ thực trạng và xu hướng phát triển của văn hóa gia đình người việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.66 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là một xã hội thu nhỏ, trong đó hiện diện
đầy đủ các quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế, quan hệ giáo dục, quan hệ văn
hóa, quan hệ tổ chức... Gia đình chính là cơ sở kiến tạo nên một xã hội rộng
lớn. Do đó, sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào
sự tồn tại và trình độ phát triển của mỗi gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “... Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới
tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”. Hiện nay,
Việt Nam đang xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đạt được mục
tiêu trên, Đảng, Nhà nước yêu cầu các cấp, ngành, cộng đồng và nhân dân
phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó chú trọng xây dựng “Gia
đình văn hóa” là nhiệm vụ hết sức cơ bản. Trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng
Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp
giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách...con người và nền văn hóa Việt
Nam”. Quán triệt quan điểm của Đảng, ngày 04 tháng 5 năm 2001, Thủ tướng
Chỉnh phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Quyết định
số 72/2001/QĐ-TTg lấy ngày 28 tháng 6 hằng năm là Ngày gia đình Việt
Nam. Ngày 29 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chỉnh phủ đã ký Quyết định số
629/QĐ-TTg “phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030”, trong đó đã chỉ ra việc xây dựng gia đình văn hóa ở
Việt Nam hiện nay khơng thể khơng kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống đã được hình thành, chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Bởi vì, văn hóa của một dân tộc nói chung, văn hóa gia đình nói
riêng là một dòng chảy lịch sử, xuyên suốt từ truyền thống đến hiện đại.


Trước tác động của bối cảnh mới hiện nay, các giá trị gia đình Việt


Nam đang có những biến đổi nhất định cần được nhận biết, đánh giá, từ đó
đưa ra những khuyến nghị chính sách phù hợp nhằm xây dựng gia đình tiến
bộ, hạnh phúc, góp phần vào thành cơng của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Xuất phát từ lý do trên em lựa chọn đề tài “Thực
trạng và xu hướng phát triển của văn hóa gia đình người Việt Nam hiện nay”
để làm tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực trạng văn hóa gia đình người Việt hiện nay,
tiểu luận nhận định về xu hướng phát triển cả văn hóa gia đình và đưa ra một
số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam đáp ứng u
cầu đổi mới hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Khái quát cơ sở lý luận phát triển văn hóa gia đình người Việt hiện nay

-

Làm rõ thực trạng và xu hướng phát triển của văn hóa gia đình ngày nay

-

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng văn hóa gia đình người Việt
hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và xu hướng phát triển của văn hóa gia
đình người Việt ngày nay.


-

Phạm vi nghiên cứu: tiểu luận tập trung nghiên cứu thực trạng và xu hướng
phát triển của văn hóa gia đình người Việt Nam trong giai đoạn ngày nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các
phương pháp cụ thể để giải quyết nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.

2


- Phương pháp cụ thể: tiểu luận sử dụng nhiều phương pháp trong
nghiên cứu chuyên ngành triết học - chính trị xã hội như: lơgic - lịch sử, phân
tích, thống kê, so sánh, tổng hợp… Ngoài ra cũng sử dụng phương pháp thu
thập thơng tin.
6. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
tiểu luận được kết cấu thành 3 chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển văn hóa gia đình người Việt hiện
nay



Chương 2: Thực trạng và xu hướng phát triển của văn hóa gia đình người
Việt hiện nay




Chương 3: Giải pháp xây dựng văn hóa gia đình người Việt hiện nay

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HĨA GIA
ĐÌNH NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY
1.1.

Khái niệm

1.1.1.

Khái niệm “Gia đình”
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Gia đình Việt Nam thường bao gồm nhiều thế hệ cùng chung sống như:
ông bà, cha mẹ, con, cháu... Họ cùng quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau
về vật chất và tinh thần, sinh đẻ và nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của
Nhà nước và xã hội. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ
trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Gia đình có các chức năng cơ bản: Chức
năng sinh đẻ; Chức năng giáo dục; Chức năng kinh tế. Bên cạnh các chức
năng cơ bản đó, gia đình cịn phải thực hiện chức năng quan tâm và chăm sóc
người cao tuổi.


1.1.2.

Khái niệm “Văn hóa gia đình”
Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù
điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa
gia đình với xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia đình đặc trưng
cho các cộng đồng, các tộc người, các dân tộc và các khu vực khác nhau được
hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời sống gia đình, gắn liền với
những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội.

4


1.2.

Quan niệm và đặc trưng của văn hóa gia đình
Qua nghiên cứu, kế thừa các cơng trình đi trước, chúng ta hiểu: gi đình
văn hóa là một kiểu gia đình mới được hình thành trên cơ sở giữ gìn, kế thừa,
phát huy những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, của văn hóa dân tộc,
đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ, nhân văn của nhân loại
trong thời đại mới. Gia đình đó phải tạo ra được môi trường tốt để các thành
viên trong gia đình có điều kiện phát triển tồn diện, hài hịa cả vật chất lẫn
tinh thần và để gia đình thực sự là tế bào mạnh khỏe, thúc đẩy phát triển xã
hội. Từ quan niệm và các tiêu chí cơng nhận về gia đình văn hóa, gia đình văn
hóa bao gồm 05 đặc trưng cơ bản sau: là sản phẩm của xã hội mới khi nước
Việt Nam giành được độc lập và lựa chọn phát triển đất nước theo con đường
định hướng xã hội chủ nghĩa; thường là gia đình có quy mơ nhỏ (gia đình hạt
nhân, gia đình hai thế hệ), ít con và kết hơn theo quy định của pháp luật;
gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước, quy định của địa phương, nơi cư trú và tích cực tham gia các
phong trào thi đua; là sự kết hợp giữa những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền
thống với những yếu tố tiến bộ, nhân văn của thời đại; là gia đình no ấm, dân
chủ, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, bền vững.

1.3.

Chức năng của văn hóa gia đình
Chức năng sinh sản: Văn hố gia đình có vai trị hết sức to lớn, nó
quyết định đến thể chất, trí tuệ, tinh thần cuả các thành viên mới được sinh ra.
Văn hố gia đình cịn tạo nên ý nghĩa tinh thần cho hoạt động sản sinh con
người, niềm vui, hạnh phúc và ý nghĩa đạo đức nhân sinh tái tạo ra con người
Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái: Sự hình thành nhân cách
của con người bắt đầu từ sự giáo dục gia đình. Trẻ em thường bắt chước
người cha hoặc người mẹ mà tập dượt những vai trị của người lớn trong gia
đình và ngồi xã hội để sau này lớn lên chúng sẽ đảm nhận.Văn hố gia đình
cũng giữ vai trị mơi trường văn hố để các thành viên gia đình tự hồn thiện
5


về nhân cách của mình. Nó sẽ quy định trách nhiêm cách hành xử của mỗi
người trên cơ sở vị thế tự nhiên của họ trong gia đình.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên gia đình:
Một gia đình hồ thuận, êm ấm “ vui cha, vui mẹ, vui anh em nhà”, “ biết
kính trên nhường dưới”, “ phụng dưỡng cha mẹ”, “ thờ cúng tổ tiên, là một
niềm hạnh phúc, là “ cái nôi thân yêu”” che chở cho mỗi người. Trong xã hội
hiện đại, con người thường bị dồn nén dễ dẫn đến sự căng thẳng thì gia đình
là nơi giải toả và văn hố gia đình là biện pháp tốt nhất đem lại sự thanh thản
cho họ.
Chức năng kinh tế: Chức năng này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của

gia đình và toàn xã hội, chức năng này mhằm thoả mãn các nhu cầu vật chất
và tinh thần của gia đình. văn hố gia đình giữ chức năng định hướng tiêu
dùng, có tác dụng kìm hãm nhu cầu tiêu dùng khơng chính đáng và kích thích
nhu cầu tiêu dùng tích cực, qua đó thúc đẩy hoạt động kinh tế của gia đình, xã
hội và sự giao lưu hàng hố xã hội.
1.4.

Vai trị của văn hóa gia đình đối với xã hội
Văn hố gia đình góp phần duy trì và phát triển văn hố các nhóm cộng
đồng xã hội (dịng họ, làng xã, dân tộc, giai cấp..). Nó lưu giữ, bảo tồn các giá
trị, chuẩn mực văn hoá truyền thống của các cộng đồng trong đời sống gia
đình. Gia đình với tư cách là một nhóm xã hội- một “xã hội vi mô” và chịu sự
tác động của xã hội, vừa tác động lại xã hội. Mỗi cá nhân đều bắt đầu từ gia
đình, văn hố gia đình. Văn hố cá nhân, văn hố gia đình và văn hố xã hội
có mối quan hệ biện chứng khắng khít chặt chẽ.
Văn hóa gia đình góp phần cung cấp cho xã hội những cơng nhân có
ích, đóng vai trị quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội.
Văn hóa gia đình cũng tạo môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp
sống, hình thành nhân cách con người, giúp mỗi cá nhân hình thành và bồi
dưỡng tinh thần u nước, lịng tự hào dân tộc, tính cộng đồng, lịng nhân ái,
6


tinh thần tự lực tự cường… Do đó, văn hóa gia đình có vai trị vơ cùng quan
trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất
nước.

7



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VĂN
HĨA GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY
2.1. Thực trạng văn hóa gia đình người Việt hiện nay
2.1.1. Mặt tích cực và những thành tựu đạt được
2.1.1.1. Mặt tích cực
Nhiều giá trị văn hóa vật chất truyền thống của gia đình vẫn được duy
trì, nối tiếp và khơng ngừng sáng tạo, phát triển trong nhiều gia đình hiện đại.
Bối cảnh xã hội hiện đại làm đời sống kinh tế của các gia đình ngày càng
được nâng cao, sự tiếp nhận, cải biến sáng tạo và trao truyền giữa các giá trị
văn hóa cật chất truyền thống của gia đình có nhiều thuận lợi và phát triển đa
dang. Trong văn hóa ẩm thực của gia đình, bên cạnh các món ăn, cách chế
biến truyền thống đã có những tiếp thu văn hóa ẩm thực mới. Trong mâm cơm
của người Việt bên cạnh nhũng món ăn truyền thống nhu rau luộc, thịt rang,
thịt luộc,… thì nay có các món Á, món Âu với nhiều cách chế biến cầu kỳ
khác nhau. Truyền thống văn hóa “ăn trơng nồi, ngồi trơng hướng”, con cháu
lễ phép mời ơng bà, cha mẹ khi ăn cơm vẫn cịn duy trì trong nhiều gia đình.
Sự nhường nhin, chia sẻ, ý thức tạo khơng khí ấm cúng giữa các thành viên
trong gia đình. Trong văn hóa trang phục, trang phục của các thnahf viên
trong gia đình ngày càng phong phú, nhiều kiểu dáng, mẫu mã va cách ăn
mặc, phối đồ, phù hợp với điều kiện kinh tế. Nhìn chugn các thành viên trong
gia đình vẫn giữ nét ăn mặc kín đáo, lịch sự, gọn gàng. Đặc biệt áo dài truyền
thống vẫn được người phụ nữ trong gia đình duy trì mặc trong các dịp quan
trọng như cưới hỏi, lễ Tết,… như để góp phần khẳng định cá tính và tự tơn
bản sắc văn hóa trang phục của mình và của gia đình, rộng ra là của cả dân
tộc. Trong văn hóa kiến trúc nhà ở, bên cạnh kiểu nhà hiện đại, nhiều gia đình
người Việt tìm về, trở về với văn hóa kiến trúc nhà ở truyền thống, xây dựng
nhà theo hướng đẹp, bố trí đồ đạc theo phong thủy,… kiến trúc hiện đại và
truyền thống kết hợp làm nên nét riêng biệt trong kiến trúc nhà ở Việt Nam.
8



Nhiều giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của gia đình vẫn được duy
trì, tiếp nối, tiếp nối và khơng ngừng đực sáng tạo, phát triển trong nhiều gia
đình hiện đại. Cùng với ý thức chấp hành pháp luật, hiện nay khơng ít gia
đình vẫn duy trì, tự nguyện thực hiện và tuân theo gia phá, gia phong, cùng
với đó là gia lễ, gia quy, gia quy… Trong nhiều gia đình, mối quan hệ ơng bà,
cha mẹ, con cháu vẫn được xây dựng, duy trì tơn ty trật tự, từ đó tạo nề nếp,
ấm êm hoa thuận gia đình. Đó là tình nghĩa thủy chung vợ chồng, tình u
thương đùm bọc, hiếu nghĩa,… nhiều gia đình cũng phát triển thêm nề nếp,
thói quen, truyền thống văn hóa gia đình. Trước kia người phụ nữ trong gia
đình là phận nữ nhi, yếu đuối, không đucợ thm gia các công việc quan trọng
trong gia đình, hiện nay, quan hệ nam nữ bình đẳng hơn, dân chủ hơn. Điển
hình như trong quan hệ vợ - chồng, quan niệm “tam tòng, tứ đức” dần thay
vào bằng sự đồng thuận, chia sẻ công việc ia đình giữa vợ và chồng. Trong
mối quan hệ con cháu, ơng bà, bố mẹ cũng thay đổi tích cực, người lớn lắng
nghe, tôn trọng quyền tự do của con trẻ. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn
được duy trì , gìn giữ và lưu truyền. Các gia đình dù ở hồn cảnh nào cũng có
ý thức thờ cúng tổ tiên vào các dịp lễ Tết,… đồ cunnxg lẽ cũng đa dạng phong
phú hơn nhiều, con cháu thể hiện tình cảm, lịng thành kính với ơng bà tổ tiên.
Dưới ảnh hưởng của cuộc sống hiện đại thì người đàn ơng cũng có thể tham
gia chuẩn bị các khâu sắp xếp đồ lễ, người phụ nữ cũng có thể đứng ngang
hàng với người đàn ông để cùng khấn tổ tiên,… Sự gắn bó gia đình – dịng họ
và tính cộng đồng trong gia đình Việt vẫn được duy trì, lan tỏa. Tâm thức
“một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “ anh em như thể tay chân”,… vẫn được
thể hiện, ý thức kết nối nguồn cội, chia sẻ, đoàn kết, tương trọ lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình vẫn được duy trì. Ngày nay, tinh thần cộng đồng
đucợ thể hiện khá rõ ràng, điển hình như những hoạt động hiến máu nhân đạo,
thiện nguyện, từ thiện của cá nhân, tổ chức. Mới ngay đây, khi miền Trung
ruột thịt bị ngập lụt, các cá nhân, tổ chức đã cùng Đảng và Nhà nước hướng
về giúp đỡ miền Trung cả về vật chất và tinh thần, Điều đó thể hiện tinh thần

9


đồn kết cực cao và lịng tương thân tương ái trong những lúc hoạn nạn của
người Việt.
2.1.1.2. Những thành tựu đạt được
Về cơ bản, gia đình Việt hiện nay vẫn là mơ hình gia đình truyền thống
đa chức năng như chức năng kinh tế, chức năng tái sản xuất con người, chức
năng giáo dục – xã hội hóa,… được phục hồi, có điều kiện thực hiện tốt hơn
và có vai trị quan trọng khơng chỉ với các thành viên gia đình mà cịn tác
động mạnh đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh đổi mới và tồn cầu hóa hiện nay, gia đình người Việt
đã biến đổi một cách tồn diện và ngày càng trở thành một thực thể hoàn
thiện – năng động phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều biến động.
thay đổi đầu tiên có thể dễ thấy là quy mơ gia đình của người Việt đang ngày
càng thu nhỏ. Những mơ hình gia đình nhiều thế hệ theo khiểu “tứ đại đồng
đường” có khi tới hơn chục người cùng chung sống trong một ngơi nhà được
thay thế bằng mơ hình gia đình ít người, thường chỉ có hai thế hệ cha mẹ - con
cái hay có thể đến thế hệ thứ ba, ít hiếm thấy có gia đình nào 4 – 5 thế hệ
cùng chung sống với nhau mặc dù tuổi thọ trung bình ngày nay tăng lên
nhiều. Việc thu nhỏ quy mơ gia đình sẽ giúp thực hiện bình đẳng giới tốt hơn,
đời sống riêng tư của con người được tôn trọng hơn, giảm bớt những mẫu
thuẫn, xung đột trong một gia đình nhiều thế hệ. Việc có ít con trở nên phổ
biến, giúp phụ nữ bình đẳng hơn với nữ giới, điều kiện giáo dục nâng cao,…
Kinh tế gia đình đang rất phát triển. Ngân sách hộ gia đình là một trong
ba bộ phận quan trọng nhất của đất nước. Theo kết quả điều tra khảo sát mức
sống của Tổng cục Thống kê, cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội,
chi tiêu đời sống của dân cư có xu hướng tăng nhanh. Năm 2004 chi tiêu đời
sống bình quân 1 hộ 1 tháng chỉ vào khoảng 1,5 triệu đồng, đến năm 2010 là
khoảng 4,5 triệu đồng và 2016 lên tới 7,6 triệu đồng. Qua 12 năm, chi tiêu


10


tăng thêm 6,1 triệu đồng, tăng xấp xỉ 386%, cùng với sự gia tăng khoảng cách
giữa thành thị và nông thơn.
Năm 2004, chi bình qn hộ một tháng ở nơng thôn là 1,2 triệu đồng và
thành thị là 2,5 triệu đồng; năm 2010, mức chi tiêu này tăng lên lần lượt là 3,5
triệu đồng và 6,7 triệu đồng (chênh lệch giữa hai khu vực là 3,2 triệu đồng),
năm 2016 là 6,1 triệu đồng và 10,8 triệu đồng (mức chênh lệch tăng lên thành
4,7 triệu đồng). Mức độ tăng trưởng kinh tế hộ gia đình là một trong những
ngun nhân góp phần làm kinh tế tăng trưởng cao trongn vài năm qua.
Nhờ tăng thu nhập và chi tiêu nên tỷ lệ họ nghèo cũng giảm đáng kể.
Đến cuối năm 2019, tỷ lệ nghèo cả nước bình quân khoảng dưới 4% (giảm
1,3% so với cuối năm 2018). Bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó
khăn giảm khoảng 3-4% so với cuối năm 2018.
Có thể nói, sau 30 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt nhiều thành
tựu quan trọng trong việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hộ, góp phần nâng
cao đời sống, vật chất tinh thần cho mọi gia đình. Hiện nay gia đình Việt Nam
đang được xây dựng với những giá trị nhân văn tiến bộ, tiêu biểu là bình đẳng
giới, quyền trẻ em. Vai trị người phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội được
nâng cao. Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 quy định ngun tắc hơn
nhân bình đẳng và tiến bộ. Quá trình đổi mới càng củng cố niềm tin và trách
nhiệm của xã hội và mỗi cá nhân đối vói gia đình. Việc thành lập cơ quan
quản lý nhà nước về gia đình năm 2000 đã đánh dấu một bước chuyển mới
trong nhận thức về gia đình và cơng tác gia đình. Từ năm 2001, ngày 28/6 trở
thành Ngày gia đình Việt Nam càng khẳng định vai trị của gia đình đối với xã
hội và xã hội đối với gia đình.
2.1.2. Những hạn chế và thách thức cần vượt qua
2.1.2.1. Những hạn chế


11


Một số giá trị văn hóa vật chất truyền thống của gia đình bị mai một,
phai nhạt trong nhiều gia đình hiện đại. Trong văn hóa ẩm thực của gia đình,
do bận rộn dưới áp lực của cơng việc, nhiều gia đình khơng cịn coi trọng bữa
cơm gia đình, kéo theo đó là văn hóa ẩm thực gia đình dần mai một. Các món
ăn gia đình chế biến sơ sài, đơn giản,… Nguời phụ nữ là người thường chịu
trách nhiệm nấu cơm nhưng ngày nay nhiều phục nữ không coi trọng việc
com nước, thường mua đồ ăn sẵn về ăn hoặc đi ăn bên ngồi. Vai trị của
người phụ nữ trong “giữ lửa” gia đình ngày một mất đi. Cùng một bữa ăn
nhưng mỗi người trong gia đình lại ăn giờ giấc khác nhau. Đôi khi chúng ta
cũng không cong mời nhau ăn cơm, khơng thể hiện tình cảm ra bên ngoài như
gắp đồ ăn cho người hơn, làm giảm bớt đi sự gắn kết, ấm cúng của gia đình.
Trong văn hóa trang phục, một số thành viên trong gia đình đặc biệt là giới trẻ
khơng có ý thức giữ gìn về văn hóa trang phục theo quan niệm truyền thống.
Có nhiều người mặc phản cảm, ý thức giữ gìn văn hóa mặc áo dài ở một bộ
phận phụ nữ bị mai một, thay vào đó là tâm lý dùng hàng ngoại, chuộng các
mẫu mới, nước ngồi. Từ đó dẫn đến việc quên lãng văn hóa dân tộc. Trong
văn hóa kiến trúc nhà ở, một bộ phận thành viên gai đình có tư tưởng sùng bái
và tơn vinh văn hóa kiến trúc nước ngồi, văn hóa tâm linh quan trọng của
ngôi nhà là bàn thờ tổ tiên ở một số gia đình khơng được coi trọng dẫn tới sự
mai một dần các hành vi văn hóa tâm linh, và sự gắn kết giữa các thế hệ đã
khuất với thế hệ đang sống trong gia đình.
Một số giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của gia đình bị mai một,
phai nhạt trong nhiều gia đình hiện đại, đặc biệt là các cặp vợ chồng trẻ hoặc
thanh thiếu niên,.. Lối sống cá nhâ vị kỷ, lên ngơi thay vì u thương đùm bọc
nhau, ttrachs nhiệ của con cháu với bố mẹ ông bà cũng bị giảm. Việc hội nhập
kinh tế, gia lưu văn hóa tạo ra sự xung đột giữa việc bảo tồn các giá trị đạo

đức, lối sống, thuần pong mỹ tục của gia đình, dân tộc với việc tiếp thu những
yếu tố mới hiện đại. Dưới tư tưởng bình đẳng giới,, và mặt trái của quá trình

12


hội nhập, phát triển kinh tế thị trường nhiều thành viên trong gia đình coi
trọng vật chất hơn giá trị tình cảm, mối quan hệ giữa các thành viên có khi
bình đẳng q chớn, mang tính tùy tiện, thiếu ch̉n mực,… Từ đó dẫn đến
việc đánh cãi chửi nhau, xơ xát, khiến tình trạng bạo lực gia đình cả về thể
xác và tinh thần đang trở thành vấn nạn trong xã hội. Theo Nghiên cứu quốc
gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam được Chính phủ Việt Nam
và Liên Hợp Quốc công bố ngày 25/11/2020, cứ ba phụ nữ có gia đình hoặc
đã từng có gia đình thì có một người (34 %) cho biết họ “đã từng” bị chồng
mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng có gia
đình “hiện đang” phải chịu một trong hai hình thức bạo hành này chiếm 9 %.
Nếu xem xét đến cả ba hình thức bạo hành chính trong đời sống vợ chồng –
thể xác, tình dục và tinh thần, thì có hơn một nửa (58 %) phụ nữ Việt Nam
cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực gia đình kể
trên. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình
lạm dụng nhiều hơn gấp ba lần so với khả năng họ bị người khác lạm dụng.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dù vẫn được duy trì, giữ gìn nhưng ít nhiều
vẫn có những biến đổi. Ngay từ trong quan niệm, khơng it thành viên trong
gia đình đã đơn giản hóa các khâu chuẩn bị và cúng lễ, hành lễ thờ cúng tổ
tiên. Một số thành viên làm ăn xa ít khia về gia đình mà lựa chọn đi du lịch, đi
chơi mỗi dịp có kỳ nghỉ. Ý thức về cội nguồn, về sự gắn bó giữa các thế hệ
gia đình cũng giảm dần. bên canh đó một số gia đình thì chi tiêu sa đà bào bái
lễ thờ cúng gây tốn kém và tạo nên mối bất hòa trong gia đình.
2.1.2.2. Những thách thức cần vượt qua
Do q trình đơ thị hóa, nơng dân di cư ra thành thị và phi nơng nghiệp

hóa nơng thơn diễn ra nhanh hơn. Những tác động này có ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống gia đình, đặc biệt là các gia đình nơng thơn. Quá trình này làm

13


xuất hiện một số loại hình gia đình mới, khơng theo truyền thống, tạo ra tính
đa dạng của cấu trúc và các khn mẫu gia đình.
Một số chức năng của gia đình truyền thống bị suy giảm, nảy sinh một
ố chức năng mới nghĩa là sẽ diễn ra tình trạng khơng ổn định của gia đình. Sự
khơng ổn định là tất yếu khách quan và là sự vận động không ngừng của gia
đình.
Tuổi kết hơn trung bình của cả nam và nữ có xu hướng được nâng cao
lên, tình trạng tảo hôn vẫn phổ biến ở một số vùng nhất là vùng núi. Theo số
liệu thống kê của Ủy ban Dân tộc, hiện nay, tỷ lệ tảo hôn của người dân tộc
thiểu số tuy đã giảm nhưng vẫn đang còn ở mức cao. Tỷ lệ tảo hôn chung là
21,9%, giảm 4,7% so với năm 2014; bình quân mỗi năm giảm 0,94%. Tỷ lệ
hôn nhân cận huyết thống là 0,56%, giảm 1% so với năm 2014, tức là giảm
bình quân mỗi năm 0,2%; phổ biến là kết hôn giữa con cô với con cậu, con dì,
con chú với con bác. Một số dân tộc thiểu số có tỷ lệ kết hơn cận huyết cao
vào thời điểm điều tra năm 2014 nhưng đến nay đã khơng cịn tình trạng này
như: Mạ, Mảng, Khơ Mú, Cơ Ho, Kháng, Chứt, Khmer. Mặc dù đã đạt được
những kết quả bước đầu khả quan, tuy nhiên riêng năm 2019, tồn quốc vẫn
có trên 1 triệu cặp tảo hôn. Đáng lưu ý nữa là so với mục tiêu trong Quyết
định 498/QĐ-TTg là giảm bình quân 2-3%/năm số cặp tảo hôn và 3-5%/năm
số cặp kết hôn cận huyết thống đối với các địa bàn, DTTS có tỷ lệ tảo hơn và
kết hơn cận huyết thống cao… thì kết quả đã đạt được của 5 năm qua còn
chậm và chưa đạt yêu cầu.
Một vấn đề nữa là tỷ lệ ly hôn tăng lên đáng báo động. Trong khảo sát
hộ gia đình của năm 2019 của Tổng cục Thống kê cho thấy: tỷ lệ ly hơn của

các gia đình Việt Nam tăng lên so với cùng kỳ năm 2009 (tỷ lệ này tăng lên từ
1,4% lên 2,1%). Theo báo cáo của tịa án, trung bình hàng năm Việt Nam có
600.000 vụ ly hơn, có tới 70% vụ ly hơn do người phụ nữ đệ đơn. Các nguyê

14


nhân dẫn đến lý hôn là mâu thuẫn về kinh tế, ngoại tình, khơng có con, bị bạo
lực,…
Ngày nay, tệ nạn xã hội thâm nhập vào gia đình và tội phạm trẻ em có
ngun nhân từ gia đình tăng nhanh. Theo thống kê gần nhất của Bộ Công an
(10/2019), tỷ lệ gây án ở tuổi vị thành niên trên địa bàn cả nước là 5,2% đối
với người dưới 14 tuổi, 24,5% đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và
70,3% đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi. Từ đó có thể thấy, tình hình tội
phạm, vi phạm pháp luật do trẻ vị thành niên gây ra tiếp tục diễn biến phức
tạp với tính chất, mức độ phạm tội nguy hiểm hơn, gây hậu quả nghiêm trọng.
Ðặc biệt, tại các thành phố lớn, tỷ lệ trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật và
phạm tội chiếm tỷ lệ cao hơn và có chiều hướng tăng nhanh hơn. Sự giảm sút
vai trị của gia đình trong giáo dục trẻ em, truyền thống, kỷ cương nề nếp
trong gia đình bng lỏng, đã làm cho chức năng kiểm sốt trẻ em mất hiệu
lực. Ngồi ra, có thể kể đến một số vấn đề như tam lý chuộng con trai, quy
mô gia đình nhỏ với việc phải đảm bảo trách nhiệm của bố mẹ với con cái,…
những điều này sẽ có áp lực mạnh đến gia đình và tất yếu làm biến đổi cấu
trúc gia đình.
2.1.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân của tình hình nói trên có thể do nhận thức cả xã hội về vị
trí, vai trị của gia đình. Cơng tác quản lý của Nhà nước về gia đình chưa theo
kịp với sự phát triển của đất nước. Nhiều vấn đề bức xúc về gia đình chưa
được xử lý kị thời. Các cấp chính quyền chưa quan tâm đúng mức việc chỉ
đạo cơng tác gia đình, chưa gắn việc ổn định và phát triển gai đình với việc

phát triển các cụm dân cư, thôn ấp. Công tác ghiên cứu về gia đình chưa được
quan tâ. Cơng tác giáo dục đời sống gia đình, cụ thể là việc giáo dụ trước và
sau khi kết hôn, cung cấp kiến thưc làm bố mẹ, các kỹ năng ứng xử của các
thành viên trong gia đình chưa được coi trọng. Xu thế hạt nhân hóa gia đình
trong úa trình cơng nghiệp hóa nếu khơng được định hướng sữ tiếp tục gây

15


sức ép về nhà ở cũng như đặt việc chăm sóc trẻ em và người cao tuổi vào một
thách thức mới.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đơ thị hóa và hội nhập quốc tế
tạo nhiều cơ hội và điều kiện, đồng thời cũng đăth gia đình và cơng tác gia
đình trước nhiều kho khăn, thách thức. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối
sống thực dụng sẽ tiếp tục tác động mạnh đến các giá trị đạo đức truyền thống
tốt đẹp và lối sống lành mạnh. Sự phân hóa giàu nghèo sẽ tiếp tục tác động
vào số đơng các gia đình, nếu khơng được hỗ trợ, khơng được ch̉n bị đầy
đủ, nhiều gia đình sẽ khơng đủ năng lực đối phó với những thay đổi nhanh
chóng về kinh tế - xã hội và khơng làm trịn các chức năng vốn có của mình.
2.2. Xu hướng phát triển của văn hóa gia đình người việt hiện nay
Một là, từ văn hóa gia đình gia trưởng truyền thống biến đổi sang văn
hóa gia đình kiểu dân chủ hiện đại. Phần lớn gia đình Việt Nam là gia đình
hiện đại, các cặp vợ chồng có xu hướng tách riêng sau khi kết hơn, vợ chồng
tơn trọng nhau, bình đẳng trong các quyết định. Khơng gian văn hóa gia đình
là ngơi nhà được biến đổi từ truyền thống sang kiến trúc hiện đại, chịu ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây như biệt thự, chung cư,… nên mối gắn kết,
tương tác của mọi người trong gia đình có nhiều biến đổi. Những biến đổi
trong mối quan hệ vợ chồng mang tính dân chủ cũng làm nay sinh nhiều vấn
đề như bạo lực gia đình, sống thử, ly hơn, tảo hơn,… Đặc biệt xu hướng làm
mẹ đơn thân ngày càng trở nên phổ biến.

Thứ hai, chức năng quan trọng nhất của gia đình truyền thống là giáo
dục để hình thành nhân cách, lối sống, và ứng xử cho con cái đã và đang suy
giảm, thay vào đó là tác động của các yếu tố bên ngoài. Nếu như trước đây,
trong xã hội truyền thống, thơng qua chức năng giáo dục của gia đình, con
người được nhập thân văn hóa và xã hội hóa cá nhân trước hết từ mơi trường
gia đình và q trình này theo con người đến suốt cuộc đời, thì nay con người
nhận được ngày càng nhiều sự giáo dục của nhà trường, xã hội… bên cạnh
16


mơi trường gia đình. Ngày nay, quan niệm sống, hành vi ứng xử và sự tiếp
nhận những giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là sự giáo dục về nhân cách,
lối sống cho con cái trong gia đình người Việt đang dần bị phai nhạt. Ngày
càng có khơng ít bậc cha mẹ do mải hoặc bận công việc, sự nghiệp mà bỏ bê
con mình cho người giúp việc, hoặc phó mặc con cho nhà trường và xã hội,
khiến nhiều em trở nên đua địi, hư hỏng, thậm chí trở thành tội phạm. Đặc
biệt, khơng ít cặp vợ chồng trẻ cho rằng những giá trị văn hóa gia đình truyền
thống là cổ hủ, lỗi thời nên dẫn tới coi nhẹ và khơng có ý thức giữ gìn, trao
truyền cho thế hệ sau. Điều này có thể dẫn đến hậu quả là thế hệ trẻ Việt Nam
khơng có phương hướng để lựa chọn lối sống, hoặc có tư tưởng sùng ngoại,
khơng ý thức rõ trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng, phát triển văn
hóa gia đình.
Thứ ba, văn hóa lối sống trong các gia đình người Việt đang biến đổi
nhanh do các nhu cầu về mưu sinh, về kinh tế, về sự khẳng định vị trí của các
thành viên trong gia đình. Nếu như trong xã hội Việt Nam truyền thống, gia
đình hạnh phúc và đáng tự hào là gia đình có sự chung sống của nhiều thế hệ,
hạnh phúc gia đình được duy trì trên cơ sở sự gắn kết hài hòa của các mối
quan hệ giữa các cá nhân, các thế hệ với những tình cảm và chuẩn mực đạo
đức, giá trị tốt đẹp, thì nay tinh thần tự do, chủ nghĩa cá nhân lên ngôi đã
khiến con người hướng đến cuộc sống độc lập. Trong quan niệm của khơng ít

người hiện nay, gia đình khơng cịn là giá trị duy nhất, vì họ cịn nhiều mối
quan tâm, nhiều giá trị khác để vươn tới. Do vậy, hiện nay, ở nước ta, số
người hướng tới cuộc sống độc thân ngày càng nhiều, thậm chí một bộ phận
người hầu hết là thanh niên khơng muốn lập gia đình do quan niệm hơn nhân
khơng phải là cái đích duy nhất và cuối cùng của tình yêu, và gia đình không
phải là bến đỗ cuối cùng và duy nhất của đời người. Văn hóa lối sống gia đình
hiện đại đang đứng trước những thử thách và khó khăn mới, dẫn đến những
xu hướng lối sống và ứng xử có nhiều sự khác biệt, đổi thay so với văn hóa
lối sống gia đình truyền thống. Từ đó dẫn tới xu hướng vừa có sự gìn giữ, bảo
17


tồn các giá trị văn hóa gia đình truyền thống, vừa có sự phát triển đan xen
giữa văn hóa gia đình truyền thống và văn hóa gia đình hiện đại, đồng thời có
sự mai một một số giá trị văn hóa gia đình truyền thống trong văn hóa lối
sống gia đình, nhìn rộng ra là trong văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.

18


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI
PHÁP XÂY DỰNG VĂN HĨA GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY

3.1. Một số khuyến nghị về chính sách trong bối cảnh mới
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị văn hóa gia đình hiện nay bao gồm
các yếu tố liên quan đến thể chế, văn hóa và hội nhập quốc tế. Sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội giúp giải phóng sức lao động, nhất là lao
động làm việc nhà cho người dân, trong đó có phụ nữ. Điều này giúp các gia
đình có nhiều thời gian chăm sóc bản thân, gia đình, có nhiều cơ hội hơn để
thực hiện các hoạt động giải trí, tiếp thu các kiến thức văn hóa, xã hội mới từ

các phương tiện thơng tin đại chúng. Nhờ đó, hiểu biết về những nếp sống văn
minh, quan điểm hiện đại về hơn nhân và gia đình được nâng cao, từng bước
thẩm thấu vào đời sống gia đình Việt Nam.
Hiện nay, Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư có những ảnh hưởng trực
tiếp đến quan hệ hơn nhân và gia đình Việt Nam. Việc bùng nổ các thiết bị
thông minh khiến cá nhân dễ dàng chìm đắm trong thế giới ảo và giảm các
giao tiếp trực tiếp trong gia đình, trong xã hội, khiến lối sống, cảm xúc, ứng
xử, hệ giá trị của con người và đặc biệt là sự duy trì các quan hệ xã hội có thể
bị đảo lộn. Trí tuệ nhân tạo và tự động hóa, một mặt, mang lại tiềm năng lớn
giải phóng sức lao động của con người, mặt khác, tạo nên một thế giới tình
u, hơn nhân ảo, như hẹn hị trực tuyến, thậm chí là rơ-bốt tình dục,... dẫn
đến nguy cơ tạo ra một thế hệ trẻ khơng cần tình u, khơng cần gia đình,
khơng cần con cái, từ đó đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại và bền vững của các
quan hệ gia đình trong thế giới thực. Thực tế, một số quốc gia trên thế giới đã
ghi nhận hiện tượng nam giới hẹn hị và cưới rơ-bốt tình dục hoặc một thế hệ
trẻ đắm chìm trong thế giới cơng nghệ mà lảng tránh đời sống thực. Số liệu
khảo sát những biến đổi về quan niệm hôn nhân trong xã hội hiện đại cho thấy
28,4% muốn sống chung trước khi kết hôn và 13,3% thích sống độc thân và
19


khơng có ý định kết hơn. Đây là một nét rất mới của bối cảnh chuyển đổi
khiến cho cấu trúc của gia đình, dịng họ và mối quan hệ gia đình có nhiều
biến đổi.
Trong bối cảnh các giá trị gia đình vẫn là giá trị được người dân ưu tiên
hàng đầu trong cuộc sống cũng như quy mô, cơ cấu, chức năng gia đình đang
thay đổi theo hướng hiện đại hóa, cá nhân hóa, hạt nhân hóa, cần đẩy mạnh
thực hiện một số khuyến nghị về chính sách như sau:
Một là, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, truyền thông về bình
đẳng giới. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và hỗ trợ phụ nữ tự thoát khỏi các

định kiến xã hội từ cộng đồng và từ chính bản thân về những khắt khe trong
hành vi hơn nhân và gia đình, hướng phụ nữ tới những giá trị được tôn trọng,
được bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục, được
tự thể hiện bản thân, được hạnh phúc, đồng thời đóng góp ngày càng nhiều
cho xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa...
Hai là, xây dựng chính sách và dịch vụ xã hội bảo đảm sự tiếp cận cơng
bằng, bình đẳng giữa các hình thức gia đình hiện nay, như chung sống khơng
kết hơn, gia đình đơn thân, gia đình đồng tính, gia đình có hơn nhân với người
nước ngồi, gia đình ly hôn/ly thân...
Ba là, phổ biến kết quả nghiên cứu về các giá trị gia đình mà người dân
Việt Nam đang ủng hộ tới các nhà lập pháp, hoạch định chính sách, quản lý
nhà nước về gia đình để nắm rõ thực tế các giá trị của gia đình hiện nay, đặc
biệt là những khác biệt xã hội về giá trị gia đình thuộc các mức hiện đại hóa
khác nhau, trong các bối cảnh văn hóa khác nhau. Quan tâm đến các giá trị
của nhóm thuộc khu vực kém phát triển, có mức hiện đại hóa thấp để có thể
giáo dục, tuyên truyền duy trì những giá trị truyền thống tốt đẹp đang bảo lưu
rõ nét ở khu vực này. Đồng thời, có những hỗ trợ về dịch vụ xã hội, tư vấn xã
hội cho các nhóm hiện đại, đang có xu hướng theo những giá trị hiện đại của
20


gia đình để phát huy sự tự do cá nhân, cởi mở trong quan niệm, đồng thời hạn
chế những tác động tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân, lối sống hưởng thụ, ích
kỷ.
3.2. Một số giải pháp cụ thể
Một là, sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam,
góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con
người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Nâng cao nhận thức của
toàn xã hội cũng như mỗi cá nhân về vai trị, vị trí đặc biệt của gia đình đối
với xã hội và trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt

các chủ trương, chính sách, pháp luật về hơn nhân và gia đình, bình đẳng giới,
phịng, chống bạo lực trong gia đình, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn
xã hội vào gia đình. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải đưa nội dung cơng
tác xây dựng văn hóa gia đình và gia đình văn hóa vào chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và chương trình kế hoạch cơng tác hằng năm của các bộ,
ngành, địa phương.
Xây dựng gia đình Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá
trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá
trị tiên tiến của thời đại về gia đình. Đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình
trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia
đình nhằm hướng tới những phẩm chất của con người Việt Nam mà Đại hội
XI của Đảng đã chỉ ra.
Hai là, xây dựng gia đình văn hóa phải gắn với các phong trào khác,
như xây dựng khu dân cư văn hóa, làng, xóm văn hóa... Đưa phong trào
“Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực,
hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp… tạo điều kiện cho mọi người được tiếp cận với các
kiến thức kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và phúc lợi xã
hội, giúp các gia đình có kỹ năng sống, chủ động phịng, chống sự xâm nhập
21


của các tệ nạn xã hội, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trị của xã hội,
gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư
trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam. Đây là điểm mới trong
nhận thức của Đảng ta về nhiệm vụ xây dựng, phát triển nguồn lực con người
trong bối cảnh hiện nay.
Ba là, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và cơng tác
dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Để

mỗi tế bào xã hội mạnh khỏe thì cơng tác chăm sóc sức khỏe, trước hết là sức
khỏe của bà mẹ, trẻ em, thực hiện gia đình ít con là biện pháp quan trọng cần
được quan tâm. Về vấn đề này, Đảng ta chỉ rõ: Thực hiện nghiêm chính sách
và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp lý, quy mơ gia đình ít con. Có
chính sách cụ thể bảo đảm tỷ lệ cân bằng giới tính khi sinh. Tổ chức tuyên
truyền nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của tồn xã hội vào cơng
tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Làm tốt cơng tác chăm sóc sức khỏe sinh
sản, sức khỏe bà mẹ, trẻ em, giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp
phần nâng cao chất lượng dân số…. Đồng thời, phải tiếp tục kiện tồn hệ
thống tổ chức bộ máy cán bộ làm cơng tác dân số, gia đình và trẻ em các cấp;
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác gia đình.
Bốn là, hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật xây dựng gia đình
văn hóa. Chúng ta đã có Luật Hơn nhân và Gia đình (năm 2000); Luật Bình
đẳng giới (năm 2007); Luật Phịng, chống bạo lực gia đình (năm 2008); Pháp
lệnh Dân số - Kế hoạch hóa gia đình; Chiến lược quốc gia về xây dựng gia
đình Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020... Tuy nhiên, gia đình luôn vận động và
biến đổi theo sự vận động của xã hội, vì vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục
ban hành, bổ sung một số chính sách mới phù hợp với điều kiện xây dựng gia
đình văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đồng thời, phải đổi

22


mới nội dung và giải pháp truyền thông về gia đình, nâng cao hiểu biết về các
văn bản luật này, cùng các kiến thức, kỹ năng về cuộc sống gia đình.
Năm là, tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ nhằm thực hiện bình đẳng
giới. Hiện nay, phụ nữ cịn chịu nhiều thiệt thịi, bất bình đẳng so với nam
giới, do vậy, họ chưa phát huy hết vai trò của bản thân trong xây dựng gia
đình, đồng thời hạn chế sự đóng góp của họ cho tồn xã hội. Phụ nữ cần tiếp
tục được giải phóng, được chia sẻ về cơng việc gia đình, hỗ trợ về các dịch vụ

gia đình để họ có thời gian phát triển sự nghiệp.
Sáu là, xem xét xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình
trong thời kỳ tới trên cơ sở những giá trị gia đình đã được định hình thông
suốt và thống nhất về mặt nhà nước là “ấm no”, “bình đẳng”, “chung thủy”,
“tiến bộ” và “hạnh phúc”. Trên thực tế, các giá trị này mang hàm nghĩa rộng
mà đời sống xã hội hay trong quan niệm của nhân dân có thể cịn những biểu
hiện cụ thể hơn nữa, như giá trị của hơn nhân, gia đình, các biểu hiện của bền
vững gia đình, giá trị con cái, tình thương yêu, hiếu thảo, đoàn kết cộng đồng,
đồng thời bao hàm cả những biến đổi mạnh mẽ theo mức độ hiện đại hóa của
các gia đình hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 2030 nên xem xét bổ sung nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình.
Trong giai đoạn tới, Việt Nam nên chuyển mục tiêu từ “xây dựng gia đình no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội” sang “xây
dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, phồn thịnh, là thiết chế quan trọng của các
quá trình kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực ổn định, chất lượng” để tiếp tục
khẳng định vai trị quan trọng của gia đình trong sự phát triển của xã hội, đặt
gia đình trong mối quan hệ “động” hơn với các quá trình kinh tế - xã hội
chung.
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực
có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình

23


trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ
tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu cơng việc,
nhiệm vụ. Đồng thời, phải nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất,
tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện pháp luật, chính sách
đối với lao động nữ. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trị của mình;
tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết

đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại
và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta càng nhận thức
sâu sắc về vị trí, vai trị của gia đình với tư cách là “tế bào” vững chắc của xã
hội, là môi trường lành mạnh để xây dựng nguồn lực con người; coi xây dựng
gia đình văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết. Với tinh
thần, nhận thức và biện pháp đó, chúng ta hy vọng trong thời gian tới vị trí,
vai trị của gia đình ngày càng được khẳng định và các gia đình Việt Nam
ngày càng “khỏe mạnh” hơn để giữ vững nền tảng xã hội, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, tạo đà cho Việt Nam “cất cánh” nhanh và bền vững.

24


KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập và phát triển ngày càng mạnh mẽ việc tăng
cường giáo dục bảo tồn, phát huy những giá trị của gia đình truyền thống,
đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hố gia đình văn minh tiến bộ trên thế giới là
nhiệm vụ quan trọng, góp phần phát triển kinh tế- xã hội bền vững. Xã hội
hiện đại đang không ngừng thay đổi, phát triển tác động trực tiếp đến các mối
quan hệ trong gia đình Việt Nam, nhưng dù có biến đổi đến đâu thì gia đình
vẫn ln là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa tốt đẹp, bền vững. Sức mạnh nền
tảng của văn hóa gia đình sẽ ln là yếu tố được phát huy để xây dựng gia
đình và xã hội ấm no, hạnh phúc, ngày càng phát triển. Vì vậy, bên cạnh việc
tiếp thu những điều mới mẻ, tiến bộ trong q trình hội nhập và tồn cầu hóa
cần tiếp tục giữ gìn, tơn vinh và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt Nam; tăng cường giáo dục đạo đức và lối sống, phát huy vai
trò, trách nhiệm và hướng tới sự phát triển bền vững của gia đình trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.


25


×