1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây hồng (Diospyros kaki L), thuộc họ thị (Ebenaceae) là một trong
nhưng cây ăn quả á nhiệt đới chịu rét giỏi nhất, cho quả to, rất ngon với vị
ngọt mát, đậm đà lại rất bổ.
Ở nhiều nước châu Á hồng là loại quả quý có giá trị dinh dưỡng cao và
phẩm vị ngon hơn nhiều loại quả khác. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, hồng là
một trong những thực phẩm chính trong khẩu phần ăn hàng ngày. Người châu
Âu vùng Đại Trung Hải quen với vị ngọt mát đậm đà của quả hồng và có tập
quán dùng thìa ăn hồng. Người Mỹ gọi hồng là ‘‘mỹ phẩm phương Đông’’.
Ở nước ta hồng được coi là một loại quả quý hiếm, thường được dùng
cho việc thờ cúng, làm quà biếu ngày lễ tết do mã quả đẹp, vị ngọt, không
chua, hợp khẩu vị người già, trẻ nhỏ, người ốm, người đau dạ dày.
Hồng là loại quả chứa 12 – 16 % đường (theo một số tác giả người Nga
là 25%) trong đó chủ yếu là đường Glucoza và Frutoze, vì thế hồng là loại
thực phẩm được dùng đối với những người bị bệnh tiểu đường. Lượng axit
thấp 0,1% (ít khi tới 0,2%). Trong 100g thịt quả chín (phần ăn được) chứa
16mg caroten , 16mg vitamin C, 0,16mg caroten; ngoài ra còn vitamin PP, B
1
,
B
2
, các hợp chất hữu cơ, sắt và tanin có 0,25 – 0,4%.
Trong Đông y dùng quả hồng làm thuốc chữa suy nhược, tiêu chảy, ho,
đái dầm vỏ, rễ, thân cây hồng được dùng thuốc cầm máu.
Hồng còn là một cây cảnh đẹp, mùa hè lá xanh thẫm, mặt trên bóng
loáng, mùa thu chuyển sang sắc đỏ trước khi rụng. Cuối Thu lá bị trút hết chỉ
còn lại những quả vàng treo trên cây, làm cho cây hồng có vẻ đẹp riêng không
cây nào có. Trên tán cây, các cành già yếu tự khô đi. Sang Xuân, khi búp đã
mở, những cành khô này lộ rõ và chỉ khẽ gõ là rụng. Khung cành hồng bao
giờ cung khỏe khoắn nhờ đó mà có năng suất cao và ổn định.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía Bắc, có điều kiện sinh thái rất
thích hợp để phát triển một số loại cây ôn đới. Đất đai và điều kiện khí hậu
1
2
của huyện Nguyên Bình rất thích hợp để phát triển cây Hồng. Đặc biệt là
vùng Phia Đén, người dân nơi đây từ lâu đã có kinh nghiệm trồng cây Hồng.
Tuy nhiên, công tác quản lý giống còn nhiều bất cập. Các giống hồng chất
lượng cao chưa được đưa vào trồng đại trà, chủ yếu là trồng các giống địa
phương. Mặt khác, đại đa số hộ nông dân trồng hồng là người dân tộc thiểu
số, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa được chú trọng, chăm
sóc chưa đúng quy trình kỹ thuật nên vườn hồng tàn cỗi nhanh, sâu bệnh
nhiều, năng suất chưa cao, mẫu mã quả không đẹp, chất lượng thấp. Chưa tạo
ra được sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao, diện tích trồng hồng có
xu hướng ngày càng giảm. Để góp phần khắc phục những tồn tại trên nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế trồng cây hồng, cần phải đưa vào sản xuất đại trà
một số giống hồng mới có năng suất cao và chất lượng tốt hơn.
Với mong muốn phát triển cây hồng thành vùng sản xuất hàng hóa, đáp
ứng thị trường người tiêu dùng và phát huy lợi thế của vùng nhằm tăng thu
nhập cho người dân, năm 2011 tại Nguyên Bình đã thử nghiệm một số giống
hồng ( Hồng Fuju, Hồng Bắc Kạn, Hồng Quang Du ) và áp dụng biện pháp
canh tác kỹ thuật hợp lý để phát triển cây hồng, góp phần nâng cao thu nhập
của người dân địa phương. Do đó việc cung cấp chất dinh dưỡng cho hồng là
rất quan trọng, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng, năng suất, chất
lượng của hồng.
Phân bón lá không những là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng chất
lượng cao cho cây trồng, nó còn cung cấp bổ sung các chất vi lượng và kích
thích sinh trưởng để đáp ứng yêu cầu cân bằng dinh dưỡng cho cây trồng theo
từng thời kỳ sinh trưởng.
Hiệu suất sử dụng phân bón lá đạt hơn 90%, lượng phân bón qua lá
bằng so với bón phân qua rễ, do đó tiết kiệm được một lượng lớn phân bón.
Hiện nay, trên thị trường phân bón lá được bán rất phổ biến với nhiều chủng
loại, giá cả khác nhau. Để thúc đẩy sinh trưởng của cây hồng trong giai đoạn
kiến thiết cơ bản tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng
của một số loại phân bón lá đối với giống hồng không hạt trồng tại Phia
Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng”
2
3
1.2. Mục đích của đề tài
Xác định loại phân bón lá phù hợp đối với giống hồng không hạt tại Phia
Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng ở giai đoạn kiến
thiết cơ bản.
1.3. Yêu cầu của đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá tới sự sinh trưởng và
phát triển của cây hồng ở giai đoạn kiến thiết cơ bản.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Qua quá trình thực hiện đề tài, sinh viên sẽ được củng cố và hệ thống
hoá những kiến thức đã học trong nhà trường vào nghiên cứu, vận dụng vào
thực tế sản xuất. Có cơ hội học hỏi trau dồi những kiến thức, kinh nghiệm
thực tế, nâng cao năng lực nghiên cứu, kỹ thuật cho bản thân.
Có kết luận về loại phân bón lá thích hợp cho giống hồng không hạt tại Phia
Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Điều kiện tự nhiên của Phia Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình
rất phù hợp cho cây hồng sinh trưởng và phát triển: Nhiệt độ trung bình hàng
năm từ 20 – 22
0
C. độ ẩm trung bình từ 85 - 88%. Lượng mưa bình quân
1600mm. Lượng bốc hơi biến động từ 150 – 835 mm/năm.
Qua theo dõi thực tế, phần lớn diện tích hồng tại Phia Đén được người
dân trồng theo cách truyền thống, thiếu chăm sóc, bón phân không đầy đủ,
chưa cân đối nên cây thiếu dinh dưỡng, còi cọc, chậm phát triển và còn nhiều
hạn chế so với tiềm năng của giống và ưu thế về điều kiện tự nhiên, xã hội
của huyện Nguyên Bình.
Chính vì vậy đề tài có thể coi là cơ sở để từ đó có những định hướng
cho việc sử dụng các loại phân bón lá thích hợp cho cây hồng. Từ đó nâng cao
hiệu quả sử dụng phân bón, cũng như góp phần nâng cao sự sinh trưởng phát
triển của cây hồng tại Phia Đén, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh
Cao Bằng
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Nguồn gốc, phân loại của cây hồng
2.1.1.1. Nguồn gốc của cây hồng
Theo Yung: cây hồng được biết đầu tiên ở Trung quốc từ những năm
300-450 sau Công nguyên. Ở Việt Nam, cây hồng được nhập từ Trung Quốc
qua miền Bắc Việt Nam rồi đến Đà Lạt Việt Nam [11].
Theo tạp chí Lâm nghiệp của Malaixia: cây hồng có nguồn gốc từ vùng
á nhiệt đới gồm Đông Bắc Burma, nam Trung Quốc, bắc Thái Lan, Lào và
Việt Nam [11].
Nguồn gốc của giống hồng phương Đông, các nhà nghiên cứu cho biết
một số nhóm hồng thuộc hồng dại Diospirod kaki tồn tại trong những khu
rừng Trung Quốc vào thế kỷ thứ V, VI [2], [3].
Ở Việt Nam, theo Vũ Công Hậu: Cây hồng được nhập từ Trung Quốc đến
châu Âu vào năm 1789 và di chuyển sang châu Mỹ vào năm 1852 [2], [3].
Theo PGS. Đào Thanh Vân [8], hồng có nguồn gốc từ Trung Quốc và
từ đây cây hồng được di chuyển tới Nhật Bản (thế kỷ XVIII), Hàn Quốc (thế
kỷ XII), Việt Nam (thể kỷ XII), châu Mỹ (1866), Italia và Palestine (thế kỷ
XI) và Australia (năm 1893).
Như vậy, các kết quả nghiên cứu trên đều cho rằng hồng có nguồn gốc
xuất xứ ở vùng á nhiệt đới phía Nam châu Á, chủ yếu là vùng khởi nguyên
cây trồng miền Nam Trung Quốc.
2.1.1.2. Phân loại hồng
Theo Yung: Các nhà phân loại học Nhật Bản cho biết, hiện nay có 800
– 1000 loại hồng [11]. Cây hồng được trồng phổ biến ở các nước có khí hậu
ôn hòa thuộc Châu á, Bắc Mỹ và chỉ có 4 loài được trồng lấy quả đó là:
Diospyros kali L; D. Oleifera Cheng; D. virginiana linn; D. (Lotus l).
Theo ý kiến của một số tác giả khác, chi Diospyrcs gồm 400 loài, chủ
yếu phân bố ở vùng nhiệt đới châu á, châu Phi và vùng trung tâm Nam Mỹ,
chỉ vài loài gồm hồng phương Đông là thuộc vùng ôn đới [3], [4]
4
5
Tác giả Yonemori phân ra các loài trong chi Diospyros dựa vào kết
quả phân tích di chuyền (phương pháp phân tích DNA để xác định phả hệ)
(sơ đồ 2.1) [8].
Thụ phấn bất
biến
Thụ phấn biến đổi
Thụ phấn bất
biến
Thụ phấn biến đổi
Chát
Không chát
Hồng
(Nguồn: Đào Thanh Vân (2002) [8])
Hình 2.1: Sơ đồ phân loại hồng theo Mori 1953
Hồng thuộc lớp cây hai lá mầm (Dicotyle doneae), bộ thị (Ebenales),
họ thị (Ebenaceae), ngành thực vật hạt kín (Angiospermae) [7], bao gồm gần
200 loài cây gỗ. Ở Nhật Bản, người ta gặp hơn 40 loài, ở Trung Quốc khoảng
5
6
30 loài. Theo tài liệu của P.M.Zukovxki ( 1964), những cây hồng dại có nhiều
ở vùng núi cao, cách mặt biển 1.200m của miền Trung Á [1].
Dựa vào sự biến đổi chất lượng quả liên quan đến độ chát sau thụ phấn
Hume chia hồng thành 2 nhóm: [11].
+ Nhóm 1: nhóm không biến đổi với sự thụ phấn: màu thịt quả không
bị biến đổi dưới tác dụng của thụ phấn. Vị chát của chúng chỉ mất sau khi đã
chín hoàn toàn, khi đó tanin kết hợp. Trong nhóm này cũng có những giống
giữ nguyên màu sáng của giai đoạn nào của quả [7], [8].
+ Nhóm 2: nhóm biến đổi với sự thụ phấn: thịt quả bị sẫm màu dưới tác
dụng của thụ phấn. Ngay sau khi thụ phấn màu thịt quả biến thành màu nâu
đen và không có vị chát ngay trong tình trạng chưa chín do tanin bị biến đổi
thành dạng kết tủa (không tan) [7], [8].
Mori (1953) khi nghiên cứu về chất lượng hồng chia thành 4 nhóm
hồng sau:
+ Nhóm 1: nhóm PCNA (Pollination Constan Non Astringent): những
giống không chát và không biến đổi với sự thụ phấn, gồm các giống: Fuju,
Jiro, Gosh, Sutuga, thịt quả thường có những đốm tanin sẫm.
+ Nhóm 2: nhóm PVNA (Pollination Variant Non Astringent): những
Shogatsu, Mizushma, Anhya kime, thịt quả có những đốm sẫm và khi không
hạt thì thịt quả có vị chát [11].
+ Nhóm 3: nhóm PCA (Pollination Constan Astringent) : những giống
chát, không biến đổi với sự thụ phấn gồm các giống: Yokomo, Yotsumizo,
Shakokashi, Hachiya, Ghionbo, thịt quả không có những đốm tanin sẫm [11].
+ Nhóm 4: nhóm PVA (Pollimation Variant Astringent) : những giống
chát biến đổi với sự thụ phấn, gồm các giống: Azumi shirazu, Emon,
Koshuhya, Hiratannenashi, có thể chát khi được thụ phấn và có một vài đốm
sẫm xung quanh hạt [9], [11].
6
7
Ghi chú: thụ phấn bất biến là những giống có màu thịt quả không bị
biến đổi bởi các nguồn hạt phấn khác nhau.
Theo Sugira, đề suất một sự phân loại mới, trong đó các giống được
phân nhóm thành nhóm không bền - độc lập (VIG – Volatile Inđêpnent
Gorup) và nhóm không bền phụ thuộc (VIG – Volatile Denpendent Group).
VIG tương ứng với PCNA và VDG bao gồm ba nhóm còn lại. [8], [9].
Sự khác biệt giữ nhóm VIG (nhóm PCNA) là quả có khả năng mất chát tự
nhiên. Khả năng này chủ yếu gây ra bởi sự pha loãng tanin trong quá trình sinh
trưởng quả, sự tích lũy tanin ngừng lại ở thời kỳ quả còn non. Trong khi đó quả
của nhóm VDG vẫn tích lũy tanin cho tới quả trưởng thành [2], [3], [11].
2.1.2. Đặc điểm thực vật học và yêu cầu ngoại cảnh của cây hồng
2.1.2.1. Đặc điểm thực vật học của cây hồng
• Rễ:
Rễ hồng phát triển yếu, thường khó hồi phục nếu bị sát thương cơ
giới. Cần quán triệt đặc điểm này để có biện pháp bảo vệ tốt bộ rễ cây hồng
trong quá trình chăm sóc và hết sức chú ý khi nhân giống bằng cách giâm rễ.
Nhiệt độ thích hợp cho bộ rễ hoạt động từ 12-25
0
C. Với phương pháp
dùng P132 để nghiên cứu hoạt động của rễ hồng, các tác giả ở Nhật Bản cho
kết quả, trong mùa rụng lá , rễ hồng hầu như không hoạt động, hấp thụ dinh
dưỡng rất chậm chỉ từ vụ xuân rễ mới bắt đầu hoạt động mạnh nhất vào hai
thời kỳ: cuối tháng 6, tháng 7 và trung tuần tháng 9 đầu tháng 10.
Rễ hồng chứa nhiều tanin, cường độ hô hấp yếu, nhu cầu hàm lượng
oxy trong đất thấp, vì vậy cây hồng có thể chịu úng.
• Thân cành:
Hồng là cây thân gỗ, sinh trưởng nhiều năm tán lá có dạng tròn mâm
xôi hình tháp, tốc độ sinh trưởng chậm, thường một cây hồng 30 tuổi, đường
kính thân chỉ đạt 25 - 30cm, cao 4 - 5m. Một năm hồng ra 3 đợt cành:
- Cành xuân: nảy mầm đồng loạt vào trung tuần tháng 2 đến tháng 3,
trên cành lúc này có cả mầm hoa và mầm dinh dưỡng.
7
8
- Cành hè: nảy mầm vào tháng 6-7.
- Cành thu: nảy mầm vào tháng 8-9. Cần chú ý bồi dưỡng đợt cành này
để đảm bảo số lượng cành mẹ cho đợt quả năm sau:
Thân cành hồng ít bị sâu bệnh phá hoại, song cần chú ý đánh rêu và địa
y bám trên thân (dùng nước vôi quét vào 2 lần, tháng 11 và tháng 2) và cắt bỏ
tầm gửi trên cành ở những cây hồng già. Thường khi cây còn nhỏ, một
năm ra 3 đến 4 lượt cành, các đợt cành sau thường yếu hơn. Trên cây
hồng trưởng thành do dinh dưỡng dồn cho quả cho nên một năm có khi
chỉ được một đợt cành sau thu quả, phải chú ý bồi dưỡng lứa cành này để
cây cho ra quả năm sau.
• Lá:
Lá xuất hiện vào mùa xuân, sau khoảng một tháng thì lá phát triển đầy
đủ, lúc này lá chuyển dần từ xanh lục sang xanh đậm, cây sung sức bước vào
thời kỳ hoạt động mạnh, một số giống mặt dưới có nhiều lông tơ màu vàng
xanh, lá có hình elip đến tròn ovan.
Cuối tháng 10 lá bắt đầu vàng, rồi chuyển sang vàng đỏ rồi rụng, tháng
12-1 trên cây hồng không có lá. Do vậy cần chú ý bón phân đầy đủ để nuôi
lộc xuân, để bộ lá sớm thành thục và đi vào hoạt động. Mặt khác cần phòng
chống các bệnh, sâu ăn lá kịp thời để giữ mật độ lá/quả cao, sẽ có tác dụng
tốt, hạn chế ra quả cách năm.
• Hoa:
Hoa hồng ra cùng với lộc xuân, sau khi nảy lộc khoảng 30 ngày, hoa ra
ở nách lá, như thế hàng năm hoa xuất hiện vào cuối tháng 3.
Có 3 loại hoa:- hoa cái nhị đực thoái hóa hoặc không có phấn.
- Hoa đực nhị cái thoái hóa, hoa nhỏ chỉ bằng 1/3 hoa cái.
- Hoa lưỡng tính có thể tự thụ phấn được.
Hoa đực và hoa cái có thể phát sinh trên cùng một cây, nhưng tỷ lệ
không ổn định, nếu cây còn khỏe, dinh dưỡng đủ, hoa cái thường ra nhiều.
Nếu cây già yếu, dinh dưỡng kém thì hoa đực ra nhiều. Các giống mang nhiều
8
9
tính hoang dại thì có hoa lưỡng tính, có thể tự thụ phấn tỷ lệ đậu quả cao xong
hạt nhiều, phẩm chất kém.
Các giống hồng tốt, thường có hoa đơn tính, các giống không cần thụ
phấn vẫn đậu quả được, quả hoàn toàn không hạt như hồng Hạc Chì, hồng
Lạng Sơn. Nhược điểm là hoa cái ít, đậu quả thưa, năng suất không cao.
Có giồng cần được thụ phấn tốt thì quả mới to, đẹp song có hạt. Nếu
thụ phấn không tốt thì quả nhỏ nhưng không có hạt. Rõ nhất là ở hồng Thạch
Thất, với các giống này nên trồng cây thụ phấn thì năng suất sẽ cao hơn, nếu
thời tiết xấu ong bướm không hoạt động thì nên thụ phấn bổ khuyết.
• Quả, hạt:
Tỷ lệ đậu quả hồng tương đối khá vì hoa to, dễ dàng thụ phấn nhờ ong,
bướm, ruồi, lại nở hoa vào thời gian tương đối muộn, thời tiết ấm áp, hồng
xuất hiện rụng quả sinh lý lần 1 vào tháng 5 khi quả vừa đậu to bằng ngón tay.
Xuất hiện đợt rụng quả sinh lý lần 2 vào tháng 7. Lần này rụng quả ít hơn lần
1, song cũng ảnh hưởng rõ đến sản lượng. Quả hồng rụng rải rác đến lúc trước
thu hoạch do các nguyên nhân sâu bệnh, gió bão, tuy nhiên 97% quả rụng là
do rụng quả sinh lý .Các nguyên nhân dẫn đến rụng quả là do có thể không đủ
phấn, kết quả qua sai, gặp hạn (thiếu dinh dưỡng ).
Để chống rụng quả có thể thụ phấn bổ khuyết, phun các hóa chất đậu
quả, tỉa bớt quả tỉa quả làm cho quả đủ dinh dưỡng, phát triển thuận lợi sẽ
không rụng, chỉ nên để lại 1-2 quả một cành trên các quả ngắn, 2-3 quả các
cành quả dài, hoặc cứ tính 20 lá lành lặn cho nuôi 1 quả. Tỉa quả hợp lý là
biện pháp chống rụng quả rất có hiệu lực.
Hạt hồng to nhỏ kích thước khác nhau tùy giống. Các giống hồng trâu
quả to, hạt to, các giống hồng Cậy hạt nhỏ.
Hạt hồng chín sinh lý muộn, cho nên khi thu hoạch cần đãi sạch lớp vỏ
nhầy, phơi khô trong râm và phải giữ 3-4 tháng sau mới đem gieo.
2.1.2.1. Yêu cầu ngoại cảnh của cây hồng
• Khí hậu:
9
10
-Nhiệt độ: hồng là cây trồng á nhiệt đới. Yêu cầu nhiệt độ từ 12-25
0
C
(tuy nhiên có vùng mùa Đông nhiệt độ -10
0
C cây hồng vẫn chết).
Hàng năm cây hồng cần khoảng 800 giờ có nhiệt độ 8-11
0
C để cây phân
hóa hoa thuận lợi, nhiệt độ tối đa cho sinh trưởng 16-17
0
C, cho phát triển quả là:
25-27
0
C. Khi chín nhiệt độ thấp hơn 20
0
C thì tốt, đặc biệt chênh lêch nhiệt độ
ngày đêm càng lớn thì chất lượng quả càng cao mã quả càng đẹp.
-Lượng mưa: yêu cầu lượng mưa hàng năm >1500mm, nhất là mùa quả
nếu thiếu nước để cây rụng quả.
-Ánh sáng: hồng ưa ánh sáng trực xạ, cường độ vừa phải (2000-
3000lux) những ngày quá nắng đều bất lợi cho lá và quả.
Những vùng có gió bão vào tháng 8-10 cần có biện pháp phòng chống
gió cho cây, hạn chế rụng quả (tốt nhất là trồng đai rừng phòng hộ).
• Đất đai:
Hồng không kén đất lắm nhưng tốt nhất có tầng dày >70cm, thoát nước
giữ độ ẩm (đất phù sa ven sông, phù xã thổ, đất ven đồi núi).
Hồng rấm ưa đất chua, PH=5-5,5 chịu được đất đồi; hồng ngâm ưa đất
có PH=6, hợp với đất ẩm ven sông suối
2.1.3. Sự hấp thu dinh dưỡng qua lá
Hầu hết các chất dinh dưỡng xâm nhập vào cây qua hệ thống rễ. Tuy
nhiên ngoài rễ ra thì các bộ phận khác của cây đặc biệt là lá cũng có khả năng
hấp thu dinh dưỡng khi tiếp xúc với dung dịch dinh dưỡng.
Bón phân qua lá có vai trò ngày càng gia tăng trong dinh dưỡng cây
trồng và đã đựơc nông dân áp dụng nhiều năm nay ở khắp nơi trên thế giới.
Phân bón qua lá được nhìn bằng cặp mắt hoài nghi và xem như một món đồ
để trang điểm hơn là lợi ích thiết thực trong sự tăng trưởng và phát triển của
cây trồng để từ đó nâng cao lợi tức cho nhà nông. đặc biệt đối với các chất
dinh dưỡng đa lượng vì cây trồng cần một lượng lớn trong khi lá cây chỉ có
thể đón nhận một lượng nhỏ so với nhu cầu. Vì vậy các vấn đề tồn tại như tại
sao, khi nào và áp sụng biện pháp bón phân qua lá ra sao cần được hiểu rõ.
10
11
Bón phân qua lá là biện pháp phun một hoặc nhiều chất dinh dưỡng cho
cây trồng lên các phần ở phía trên mặt đất của cây (lá, thân, cuống, hoa, trái)
với mục đích nâng cao sự hấp thu dinh dưỡng qua các phần trên không của
cây trồng.
Để hiểu được chức năng của phương pháp bón phân qua lá cần giải
thích rõ ràng các quy trình sinh học khác nhau của cơ chế hấp thu qua lá và
phân phối dinh dưỡng bên trong cây trồng. để làm các nhiệm vụ bên trong lá
hoặc vận chuyển các chất dinh dưỡng khoáng ra khỏi lá đến các bộ phận khác
của cây trồng , một quy trình hấp thu thông qua màng tế bào (plasma
membrane), từ các không bào bên trong lá (apoplast) vào bên trong tế bào
(symplast) sẽ xảy ra. Theo Romheld và El-Fouly (1999) sự hấp thu dinh
dưỡng qua lá có 5 bước sau:
Làm ướt bề mặt lá bằng dung dịch phân bón: vách ngoài của những tế
bào lá được bao phủ bởi lớp cutin và một lớp sáp có đặc tính chống thấm
nước rất mạnh. để việc hấp thu các chất dinh dưỡng dễ dàng ta có thể bỏ thêm
các chất phụ gia vào phân bón qua lá để làm giảm sức căng bề mặt.
Sự xâm nhập xuyên qua lớp biểu bì của vách tế bào: khi phun phân
bón qua lá lên bề mặt của lá cây sự hấp thu có thể xảy ra 3 cách sau đây:
- Qua các lỗ nhỏ li ti trên bề mặt lớp ngoại bì và vách tế bào.
- Qua các thuỷ khổng lồ ở giữa các vách tiếp giáp các tế bào.
- Qua khí khổng giữa các tế bào bảo vệ.
Theo Eichert Et Al (1998) sự xâm nhập của chất lỏng xuyên qua bề mặt
có sức căng cao và các khí khổng có thể xảy ra dưới một số các điều kiện.
Một trong những điều kiện này là tạo các giọt nhỏ liên kết với sự bốc hơi. Khi
sự bốc hơi xảy ra mức độ xâm nhập đạt cao nhất và sự hấp thu liên tục xảy ra
với phần chất rắn còn lại.
Những tác giả này cho rằng (lý thuyết về) những giới hạn vật lý chống
lại sự xâm nhập qua khí khổng thì đúng đối với các hạt giọt lớn nhưng có thể
không đúng đối với các phần rắn còn lại vì chúng liên kết thành một lớp
11
12
mỏng trong quá trình bốc hơi nước. Những màng mỏng này xâm nhập vào khí
khổng và khích lệ sự trao đổi giữa bên trong và bên ngoài lá cây (Eichert anh
Kurhard, 1999).
Sự xâm nhập chất dinh dưỡng vào các không bào bên trong lá cây:
các không bào (apoplast) rất quan trọng để chứa các chất dinh dưỡng trước
khi chúng được hấp thu vào bên trong từng tế bào. Các chất dinh dưỡng sẽ
vào những không bào này sau khi xâm nhập vào từ bên ngoài qua lớp biểu bì
lá cũng như được hấp thu từ rễ qua các mao mạch trong thân cây.
Sự hấp thu dinh dưỡng vào bên trong tế bào: những nguyên tắc chung
về việc hấp thu chất dinh dưỡng khoáng từ các không bào vào bên trong từng
tế bào lá cũng giống như sự hấp thu từ rễ. Khả năng hấp thu của các tế bào lá
cây cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại vi như: ẩm độ, nhiệt độ, ánh
sáng Cơ chế tùy thuộc năng lượng để hấp thu dinh dưỡng xuyên qua màng
vào bên trong tế bào được môi giới bởi các protein vận chuyển khác nhau,
như những chất chuyên chức năng chuyển tải hoặc luồng tĩnh điện với ion H
+
ATP. Những sự kiện này làm gia tăng lực hấp thu bằng cách tạo nên độ chênh
lệch hóa tĩnh điện ở bề mặt màng tế bào. Sự hấp thu qua tế bào lá có thể được
điều khiển qua tình trạng dinh dưỡng của cây.
Khi áp dụng những chất dinh dưỡng lưu động (mobile nutrients) cho
các lá non, lá còn đang phát triển thì sự chuyển dịch xuống rễ chậm hơn, điều
này kích thích sự hấp thu dinh dưỡng từ rễ do bộ lá phát triển và quang hợp
tốt hơn đối với các lá già.
Sự phân bố chất dinh dưỡng trong lá và chuyển dịch chúng ra
ngoài: sự phân bố từng chất dinh dưỡng riêng biệt bên trong và chuyển dịch
chúng ra ngoài lá sau khi phun phân bón tùy thuộc vào mô libe và tính cơ
động của hệ mao dẫn. Các chất lưu động libe như: N, P, K, Mg được phân bố
vào mỗi mô mao dẫn cũng như mỗi mô libe bên trong lá cây.
2.2. Vai trò của phân bón qua lá đến năng suất và chất lượng cây trồng
12
13
Bón phân qua lá có một vai trò ngày càng gia tăng trong dinh dưỡng
cây trồng và đã được nông dân áp dụng nhiều năm nay ở khắp nơi trên thế
giới, mặc dù thong tin về lĩnh vực này trên các tài liệu khoa học còn hạn chế.
Phun phân bón qua lá là kỹ thuật cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng
qua lá. Kỹ thuật này được phát hiện từ những người làm vườn ở Châu Âu từ
thế kỷ thứ 17 và phải hơn 1 thế kỷ sau nó mới trở thành đối tượng nghiên cứu
của các nhà khoa học. Nhưng chỉ những năm gần đây, khi các phương pháp
đánh giá quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng qua lá phát triển thì công việc
nghiên cứu và ứng dụng bón phân qua lá mới được phát triển mạnh. Hiện nay,
các nghiên cứu và ứng dụng về các loại phân lỏng và vai trò của phun qua lá
đang được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ.
Cung cấp (phổ biến là bằng cách phun) chất dinh dưỡng trong phân bón
qua lá được sử dụng để bổ sung các chất dinh dưỡng cho cây trồng nhằm làm
tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Bằng cách cung cấp phân bón qua lá, hiệu
quả sử dụng phân bón có thể tăng từ 8 – 20 lần so với bón phân qua gốc,
ngoài ra cung cấp phân qua lá còn là biện pháp trợ giúp cây trồng chống lại sự
thay đổi và điều kiện khắc nghiệt của thời tiết. [Đặng Xuân Toàn, 2008, Báo
cáo kết quả khảo nghiệm phân bón qua lá Agro Dream trên chè, rau và lúa,
Công ty Cổ phần kỹ thuật môi trường.]
Bón phân qua lá là cách tốt nhất để nâng cao năng suất và sức sống của
cây trồng. Nhiều kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng, bón
phân qua lá tăng năng suất từ 12 - 25% so với cách bón phân thông thường.
Nghiên cứu ở nhiều loại cây trồng, nhiều điều kiện ngoại cảnh cho thấy: với
cùng một lượng dinh dưỡng nếu phun phân qua lá cây sẽ hấp thụ được 90%,
trong khi bón qua đất cây chỉ hấp thụ được 10%, đặc biệt ở các vùng đất cát
pha bón phân qua lá hiệu quả gấp 20 lần bón phân qua đất. Bón phân qua lá là
phương pháp hiệu quả nhất để điều chỉnh sự thiếu hụt chất trong đất và giải
quyết được vấn đề chuyển hóa dinh dưỡng trong điều kiện khô hạn.
13
14
Hiện tượng thiếu dinh dưỡng xảy ra khi khả năng hấp thu của bộ rễ bị
giới hạn hoặc bị ngăn cản trong một thời gian, do đó không đủ cung cấp theo
nhu cầu của cây. Nguyên nhân gây nên hiện tượng này có thể do rễ bị tổn
thương (do bị bệnh hoặc tổn thương cơ học), do những điều kiện của đất
không hữu hảo cho bộ rễ hấp thu dinh dưỡng, do nhu cầu dinh dưỡng ở đỉnh
cao vượt quá khả năng cung cấp, chất dinh dưỡng bị bất động hóa do các vi
sinh vật, do sự bất cân đối dinh dưỡng trong đất, do thiếu oxy hay khô hạn
gây cản trở bộ rễ hút chất dinh dưỡng. Do vậy, bón phân qua lá giúp hiệu
chỉnh hiện tượng thiếu dinh dưỡng vì phân bón được phun ngay vào chỗ đang
thiếu. Khi phân bón xuống đất có thể không phát huy được hiệu quả đối với
một vài nguyên tố nào đó (như Mn trong đất có PH cao) thì phân bón qua lá
giúp ngăn ngừa hiện tượng thiếu dinh dưỡng này.[12 www.humixvn.com]
Việc bón phân qua lá phần nào thay thế hoặc bổ sung cho phương pháp
bón phân qua rễ, nhưng không bao giờ thay thế hoàn toàn. Bón phân qua lá
giúp duy trì sự phát triển khỏe mạnh của cây và làm gia tăng chất lượng nông
sản vì có thể áp dụng đúng lúc, đúng nơi, độc lập với các điều kiện đất đai và
nhất là khả năng tác động nhanh của nó.
Sự gia tăng năng suất ngoài mong đợi sau khi áp dụng bón phân qua lá là do
sự liên hợp dẫn đến gia tăng sự hấp thu dinh dưỡng từ bộ rễ. Sự gia tăng này
là do bón phân qua lá tạo nên sự cân bằng các chất dinh dưỡng bị thiếu, mà đó
lại là yếu tố giới hạn sự quang hợp và sản xuất sinh học (Bairre và Baierora,
1999). Ngoài ra bón phân qua lá còn gia tăng khả năng chống chịu sâu bệnh
và tuyết lạnh.[12 www.humixvn.com]
2.3. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và sử dụng phân bón lá
Trong xu hướng phát triển mới, nền nông nghiệp dựa chủ yếu bằng
phân bón vô cơ sẽ được thay thế dần bằng nền nông nghiệp bền vững, ở đó
phân bón được sử dụng có hiệu quả hơn nhiều, không để các chất dinh dưỡng
dư thừa gây lãng phí và gây ô nhiễm môi trường, sử dụng phân bón hữu cơ,
không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật độc hại tới môi trường và con người,
tăng chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Xu hướng phát triển này đã trở thành
14
15
yêu cầu và động lực cho sự phát triển các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật, chất tăng trưởng hữu cơ cũng như các phương pháp sử dụng phân bón
mới có hiệu quả [6].
Đầu thế kỷ XX, đã nghiên cứu và phát triển các loại phân bón qua lá, là
loại phân bón hữu cơ dạng lỏng sản xuất từ phế thải tài nguyên biển như cá,
cua, rong biển; từ da động vật; phế thải giàu protein từ quá trình sản xuất thực
phẩm (như nấm men bia, bã đậu nành, cám ). Hiện nay, trên thị trường thế
giới có nhiều loại phân bón hữu cơ dạng lỏng được bán với lợi ích là tăng sản
lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp, những loại phân bón này đã góp
phần rất lớn vào phát triển các sản phầm nông nghiệp hữu cơ đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của thị trường. Ở Châu Á, Thái Lan và Trung Quốc là hai nước rất
chú trọng sử dụng các sản phẩm hữu cơ này trong sản xuất nông nghiệp [6].
Năm 1999, hãng Globlresoures Deve Logmen của Hoa Kỳ bắt đầu
nhập vào nước ta chế phẩm phân bón lá của họ. Người nông dân thử sử dụng
phân bón qua lá cho cây trồng thấy hiệu quả tốt, dễ bảo quản nhưng giá thành
cao nên không sử dụng rộng rãi. Trong thời gian gần đây, kết quả nghiên cứu
về dinh dưỡng của cây trồng đã mang lại những bước nhảy vọt trong nông
nghiệp. Trong đó có việc nghiên cứu sử dụng thành công các loại phân bón
qua lá cho cây trồng.
Từ năm 1994, công ty thuốc sát trùng Việt Nam bao gồm Franco
Pacific đưa Phabenla vào sử dụng rộng rãi ở Thái Bình, Hà Tây, Hải Dương,
Hưng Yên, Nam Định Phabenla đã được hội đồng khoa học kỹ thuật Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là một tiến bộ kỹ thuật nông
nghiệp. Phabenla được sản suất trên nền các chelat, công ty Thuốc sát trùng
Việt Nam đã nghiên cứu sản xuất phân bón lá Supermix trên nền các chelat và
các chất kích thích sinh trưởng, cung cấp loại phân bón lá chất lượng cao. Sau
hai năm khảo nghiệm, đánh giá hiệu quả Supermix trên các loại cây trồng
như: lúa, đậu tương, dưa chuột, cà chua của trung tâm nghiên cứu đất, nước,
phân bón (Viện Nông hóa thổ nhưỡng) và các phòng nông nghiệp Đông Anh,
Thanh Trì, Sóc Sơn, Từ Liêm, Đan Phượng (Hà Nội), Mỹ Vận, Tiên Lữ
(Hưng Yên), Hoa Lu (Ninh Bình), Đông Hưng (Thái Bình) Đến tháng
15
16
10/1997 hội đồng khoa học kỹ thuật Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
đã công nhận và cho phép Supermix được sử dụng trong nông nghiệp. Trong
hai năm 1997 – 1998 công ty tiếp tục khảo sát hiệu quả sử dụng của Supermix
trên lúa và cây ăn quả.
Từ nguồn nguyên liệu phế thải, giá rẻ như da thải động vật, rong biển,
cá biển Tiến sỹ Đặng Xuân Toàn và đồng nghiệp (Công ty cổ phần Kỹ thuật
môi trường) đã nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất phân bón lá chất
lượng cao. Đó là dây chuyền sản xuất phân bón lỏng bằng công nghệ sinh học
tiên tiến là thủy phân bằng enzym các phế thải giàu protein tương đối toàn
diện [6].
2.4. Tình hình nghiên cứu và sản xuất hồng trên thế giới và ở Việt Nam
2.4.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất hồng trên thế giới
Hiện nay Trung Quốc là nước trồng hồng nhiều nhất, hầu hết các tỉnh
đều trồng hồng chỉ trừ một số tỉnh biên giới như: Hắc Long Giang, Nội Mông,
Tân Cương, Tây Tạng Các tác giả Trung Quốc cho rằng, các vùng trồng
hồng tốt nhất ở vĩ tuyến 33 – 37
0
, ở đây có nhiều giống tốt chất lượng cao
sinh trưởng thuận lợi [2], [3].
Trong lịch sử phát triển của cây hồng, theo Jung: Từ Trung Quốc hồng
được đưa sang Nhật Bản, sang Triều Tiên, sang châu Âu rồi đến Mỹ [11].
Hiện nay những nước trồng hồng và xuất khẩu nhiều nhất là: Nhật
Bản, Trung Quốc, Triều Tiên Dưới đây là những bảng về diện tích, năng
suất, sản lượng của một số nước trồng hồng lớn trên thế giới.
Bảng 2.1: Diện tích trồng hồng của một số nước trên thế giới năm 2007 – 2010
Đơn vị : ha
STT Tên nước Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
1 Trung Quốc 643.676 683.869 703.930 720.263
2 Hàn Quốc 28.839 30.669 30.347 31.808
3 Nhật Bản 23.200 23.000 22.700 22.400
4 Brazin 8.065 8.797 8.638 8.644
5 Italia 3.000 2.700 2.745 2.700
16
17
6 Niudilan 180 183 180 170
7 Iran 157 163 195 260
8 Autraylia 82 85 89 90
9 Mexico 45 49 48 50
10 Thế giới 721.021 764.040 783.982 802.458
(Nguồn: FAO năm 2012)
Qua bảng 2.2 ta thấy, Trung quốc là nước có diện tích trồng hồng lớn
nhất thế giới, và không ngừng được mở rộng qua các năm, từ 2007 đến năm
2010 tăng 76.587 ha, tăng 11,89% so với năm 2007. Sau Trung Quốc là Hàn
Quốc, Nhật Bản. Nhưng Nhật Bản diện tích trồng hồng có xu hướng giảm
xuống trong những năm gần đây, so với năm 2007 thì năm 2010 diện tích
trồng hồng của Nhật Bản giảm 800 ha, giảm 3,45%. Diện tích trồng hồng trên
thế giới tăng đều đặn qua các năm, từ 2007 – 2010 tăng 81.437 ha tương
đương 11,29%.
Bảng 2.2: Năng suất trồng hồng của một số nước trên thế giới năm
2007 – 2010
Đơn vị: tạ/ha
STT Tên nước Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
1 Trung Quốc 40.503 40.138 40.788 42.287
2 Hàn Quốc 137.180 140.377 137.313 122.803
3 Nhật Bản 105.517 115.913 113.656 84.554
4 Brazin 198.203 196.996 198.605 190.300
5 Italia 175.000 185.185 191.552 181.481
6 Niudilan 119.611 158.470 150.000 152.941
7 Iran 96.433 96.687 83.692 80.769
8 Autraylia 87.195 84.706 77.303 74.444
17
18
9 Mexico 98.222 89.796 88.542 82.000
10 Thế giới 50.754 50.788 50.746 50.557
(Nguồn: FAO năm 2012)
Qua bảng 2.3 ta thấy, Trung Quốc là nước trồng hồng lớn nhất thế giới
nhưng về năng suất thì phải kể đến Brazin với 198.203 tạ/ha năm 2007 (đứng
đầu thế giới) và tăng giảm thất thường qua các năm. Kế đến Italia (175.000
tạ/ha năm 2007) và Niudilan (119.611 tạ/ha năm 2007). Trong khi đó Trung
Quốc lại là nước có năng suất thấp trong những nước đứng đầu này (chỉ đạt
40.503 tạ/ha năm 2007 và tăng lên 42.287 tạ/ha năm 2010). Điều này cho thấy
Trung Quốc mới chỉ chú trọng tới diện tích mà chưa có sự đầu tư về giống và
kỹ thuật canh tác dẫn đến năng suất chưa cao.
18
19
Bảng 2.3: Sản lượng trồng hồng của một số nước trên thế giới năm
2007 - 2010
Đơn vị: tấn/ha
STT Tên nước Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
1 Trung Quốc 2.607.102 2.744.889 2.871.202 3.445.801
2 Hàn Quốc 395.614 430.521 416.705 390.611
3 Nhật Bản 244.800 266.600 258.000 189.400
4 Brazin 159.851 723.297 171.555 164.495
5 Italia 52.500 50.000 52.581 49.000
6 Niudilan 2.152 2.900 2.700 2.600
7 Iran 1.514 1.576 1.632 2.100
8 Autraylia 715 720 688 670
9 Mexico 442 440 425 410
10 Thế giới 3.659.472 3.880.422 3.978.424 4.056.987
(Nguồn: FAO năm 2012)
Qua bảng 2.4 ta thấy, mặc dù năng suất Trung Quốc không cao nhưng
do có diện tích lớn nhất thế giới nên sản lượng hồng của Trung Quốc có sản
lượng cao nhất thế giới với 2.607.102 tấn năm 2007 và tăng lên trong những
năm tiếp theo. Mexico là một trong những nước có sản lượng hồng thấp với
442 tấn năm 2007 đến năm 2010 sản lượng giảm xuống còn 410 tấn.
Mỗi loại cây trồng đều có một biên độ sinh thái nhất định. Khi được
trồng trong điều kiện sinh thái phù hợp, cây trồng đó sẽ sinh trưởng phát triển
tốt và có năng suất cao. Các loại thuộc chi Dispyros có vùng phân bố khác
nhau nhưng tập trung chủ yếu ở châu Á và Bắc Mỹ. Tùy đặc điểm của các
loại khác nhau mà hướng sử dụng khác nhau (bảng 2.5)
19
20
Bảng 2.4: Sự phân bố và sử dụng của các loại thuộc chi Dispyros
Loài Phân bố Sử dụng
Dispyros kaky Linn Nhật Bản, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Việt Nam
Ăn tươi và chế biến
Dispyros lotus Linn Châu Á Sản suất tanin, làm gốc
ghép
Dispyros viginiana Linn Bắc Châu Mỹ Ăn tươi, làm gốc ghép
Dispyros oleifera Cheng Trung Quốc Sản suất tannin
(Nguồn: Đào Thanh Vân (2002) [8])
Loài D.kaki phân bố chủ yếu ở bốn nước: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc và Việt Nam. Vì loài Dispyros kaki có thịt quả mềm nên có thể dùng để
chế biến.
Về mặt tiêu thụ và chế biến: quả hồng chủ yếu được ăn tươi với thị
trường tiêu thụ là các nước châu Á. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, hồng là một
trong những món tráng miệng chính trong khẩu phần ăn hàng ngày. Sản phẩm
hồng khô chế biến được sản xuất nhiều ở các nước Nhật Bản, Trung Quốc,
Triều Tiên Các sản phẩm được chế biến từ hồng tiêu thụ mạnh ở thị trường
châu Âu. Người châu Âu ở vùng địa Trung Hải đã quen với cây hồng và cho
rằng quả hồng chín rất ngọt, hương vị đậm đà [1].
Ở Mỹ, trước đây chưa phát triển được là do người ta chưa quen các ăn
hồng chín. Nhưng điều này lý giải các ý kiến cho rằng hồng rất khó xuất khẩu
sang thị trường châu Mỹ [2], [3].
Theo tài liệu của Voronxov (1982), trên thế giới hiện nay trồng ba
loại hồng chủ yếu say đây [1]:
(1) Dispyros lotus còn gọi là hồng Capcazơ: có nguồn gốc từ Trung Quốc, ở
Trung Quốc được gọi là quân thiên tử, ở Việt Nam gọi là cậy. Loài này quả
nhỏ màu vàng, chất lượng thấp, nhiều hạt, độ chát (hàm lượng tanin) cao, ít có
giá trị thương phẩm.
20
21
Hồng dại (Dispyros lotus L.): nhị bội thể 2n = 30, là loại gốc ghép
chính đối với các giống hồng Phương Đông ở Liên Xô, được sinh trưởng phát
triển nhiều ở trong rừng núi Kapkaz, đồng thời có ở Iran, Ấn Độ, Trung Quốc.
Hồng dại tái sinh rất tốt bằng mầm dễ cũng như bằng hạt, cây có thể
cao 20 – 30m, đường kính thân 70cm, có tán hình cầu. Hồng dại thuộc loại
đơn tính khác gốc (tức là cây cái riêng). Một cây có thể cho 50kg quả. Quả bé
chỉ nặng 15g và chát, có nhiều hạt. Sau khi chín kỹ, quả ăn được. Người ta
dùng quả ở dạng phơi khô và làm mứt, có chứa hơn 40% đường đơn.
(2) Dispyros viginiana ( Dispyros viginiana L.): tứ bội thể 4n = 60
hoặc lục bội thể 6n = 90. Nguồn gốc ở Bắc Mỹ, mọc hoang dại ở các bang
Virginiana, Kanzas, Kissuri, Florida, và California, cây cao đến 20m, có khi
cao đến 37m và chu vi thân 2m ( V.A. Alekexecva, 1962), cây cho sản lượng
cao, quả bé nhưng đỏ chín đỏ thơm, ngon. Nó cũng thuộc loại hoa đơn tính
khác gốc, hoa bé màu trắng hay hơi vàng, hoa cái to hơn hoa đực. Thụ phấn
nhờ côn trùng. Quả mọng, đường kính 3 – 4 cm màu vàng sáng, chín vào
tháng 10, không chát, quả nặng khoảng 22g, tỷ lệ đường 10%, tỷ lệ chất khô
gần 30% hàm lượng Vitamin C khá cao (115g trên 100g tươi ăn được), chất
lượng quả cao hơn hồng Phương Đông. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta
dùng hồng Virgniana là gốc ghép cho hồng Phương Đông [1], [4].
(3) Hồng Phương Đông, (Dispyros kaki L.): ở Việt Nam gọi chung là
hồng ăn quả vì hầu hết các giống hồng để lấy quả ở Việt Nam đều thuộc loài
này. Trong các loài này có nhiều nhóm giống khác nhau. Có những nhóm
giống nhiều hạt, có nhóm giống ít hạt hoặc không có hạt. Độ chát cũng thay
đổi tùy theo giống [1], [4].
Hồng Đông Phương (Dispyros kaki L.): lục bội thể 6n = 90, nguồn gốc
ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Cây sinh trưởng nhanh, rụng lá mùa
đông, trong điều kiện khí hậu thuận lợi cao 12 – 15m. Tán cây lòa xòa,
thoáng, đôi khi hình tháp, lá to hình elíp, nhọn về phía ngọn, mặt trên nhẵn
bóng, hoa đơn tính hay lưỡng tính, hoa cái mọc đơn, màu vàng trắng, có đài
xẻ 4. Hoa đực phân bố thành chùm có 2 – 3 hoa trên cành mảnh khảnh sinh
trưởng trong năm đó. Cây có thể đơn tính cùng gốc và khác gốc, quả thuộc
loại quả mọng to đến 200g [1], [4].
21
22
2.4.2. Sơ lược tình hình nghiên cứu và sản xuất hồng ở Việt Nam
Cây hồng được trồng từ rất lâu đời tại Việt Nam, đây là một trong
những cây quan trọng và phù hợp khẩu vị của người Phương Đông. Trồng
hồng đem lại hiệu quả kinh tế lớn, mức thu trên 1ha có thể đạt tới 50 triệu
đồng/ năm. Hiện nay hồng đang được thay thế dần một số cây ăn quả có hiệu
quả thấp như mận, đào [8].
Theo Phạm Văn Côn (2002) [1], ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1990 tiến
hành điều tra về cây hồng, bước đầu phát hiện ra có ba loại hồng sau:
(1) Hồng lông (Diospyros tonkinensis L.): được phân bố giải khắp tỉnh
phía Bắc. Thân cao to, thường có màu trắng tro, cây phân cành ngang, tạo
nhiều tầng cành, mặt dưới màu xanh nhạt, có lông màu hơi vàng, quả to tròn
hoặc tròn dẹp; khi còn xanh, mặt ngoài quả có lông tơ màu xanh, nhiều chất
nhờn hoặc chấm đen, khi chín, lông màu vàng nhạt, trong quả có nhiều hạt (6
– 9 hạt), to dày, màu vàng nâu [1], [4].
Cây sinh trưởng khỏe, sản lượng cao nhưng phẩm chất quả kém nên
không được người tiêu dùng ưa thích. Vì quả có vị hôi nên người ta còn gọi là
hồng hôi, hồng trâu. Hạt hồng rất dễ nảy mầm, cây con sinh trưởng khỏe,
nhanh, có thể ghép mắt hồng thành ghép dễ dàng nhưng sau một thời gian cây
bị chết vì càng ngày vị trí ghép to ra, nhưng gốc ghép vẫn bé, vỏ bị nứt nẻ
nhiều, có khi cây ghép bị chát sau khi mới bói quả, vì vậy không được dùng
hạt của loài cây này làm gốc ghép [1], [4].
(2) Hồng cậy (Diospyros lotus L.): được trồng giải rác ở các tỉnh phía
Bắc Việt Nam như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình [1], [4].
Thân cây cao to, tán lớn, lá nhỏ hẹp, mặt trên màu xanh đậm, nhẵn
nhưng không bóng, mặt lá màu xanh trắng có ít lông. Quả hình tròn dẹt, bé,
chiều cao trung bình 2,2cm, đường kính quả trung bình 2,6cm. Khối lượng
quả trung bình 10g, số hạt trong quả 6 – 7 hạt. Tai quả phẳng cong, trông quả
tròn và gai ngắn, hạt màu nâu đậm bóng, dạng bầu, đít bằng hơi vát, hạt dài
14,5mm, rộng 8,8mm, dày 3,5mm. Trọng lượng 100 hạt tươi là 18,6g. Ở
những vùng trồng cây, người ta thường thu quả khi còn xanh để lấy nhựa dán
quạt giấy, diều sáo Hiện nay nông dân thường thu hoạch quả chín để lấy hạt
gieo làm gốc ghép [1], [4].
22
23
(3) Hồng trơn (lá nhãn) ( Diospyros kaki L.): được trồng nhiều ở các
tỉnh phía Bắc Việt Nam và vùng Đà Lạt Lâm Đồng [1], [4].
Thân cây thường có màu nâu, cành hẹp, tán hình tròn hoặc hình tháp, lá
hình bầu dục hoặc elíp, mặt trên màu xanh sẫm, nhẵn, mặt dưới có lông màu
xanh nhạt hoặc trắng. Quả to, nhỏ tùy giống, khi còn xanh vỏ nhẵn, trơn màu
xanh lục, khi chín màu vàng đỏ. Trong quả có ít hạt hơn hai loài trên (0-6
hạt). Hạt nhỏ, mỏng, màu cánh gián.
Cây sinh trưởng khỏe, sản lượng quả cao, phẩm chất quả ngon hơn
hồng lông, nên nhân dân ta xếp hồng trơn vào loại quả quý, giá bán trên thị
trường rất cao.
Trong loài này có rất nhiều giống, dạng khác nhau và được trồng trọt ở
nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta.
Trong số những nhóm địa phương người ta thường chia làm hai nhóm
giống: Nhóm hồng ngâm và nhóm hồng rấm.
- Nhóm hồng ngâm: chất chát (tanin) trong quả có khả năng hòa tan
trong nước nên được khử chát bằng cách ngâm quả trong nước sạch để rút
chất tanin trong quả ra làm cho quả không còn vị chát ngay trong trạng thái
cứng. Cũng có thể ngâm quả nhưng phải rấm quả chín mềm, khi đó chất tanin
ở dạng tự do chuyển sang dạng kết hợp thì quả sẽ ngọt không còn vị chát.
Thường đối với giống thuộc nhóm này đều được sử lý (rấm) chín mềm thì sẽ
ngọt hơn so với sau khi ngâm nước vì trong quá trình ngâm rấm một số chất
tanin được chuyển thành đường.
- Nhóm hồng rấm: quả hồng ở trạng thái cứng thì luôn luôn chát, dù có
được ngâm nước nhiều ngày. Quả chín không chát sau khi được rấm chín
mềm. Bởi vì chất tanin trong quả của nhóm này thuộc dạng tanin không hòa
tan trong nước, nhưng có thể chuyển thành nhiều chất khác và làm cho hàm
lượng đường tăng lên dưới tác dụng của nhiệt độ hoặc các chất làm chín, như
xử lý đốt hương hoặc đất đèn, Ethyeles thường màu sắc quả của các giống
hồng thuộc nhóm này khi chín mềm có màu đỏ đẹp hơn so với các giống
hồng ngâm.
Dưới đây là một số vùng hồng chính với giống tốt của từng vùng [1]
23
24
a) Vùng Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng
Đà Lạt mang những nét riêng của vùng cao: nhiệt độ thấp, tương đối ôn
hòa, thích hợp với các cây trồng á nhiệt đới.
Nhiệt độ trung bình hàng năm 17,5 – 18,2
0
C. Biên độ nhiệt trung bình
giữa các tháng là 3,9
0
C. Biên độ nhiệt ngày đêm là 9
0
C. Các tháng trong mùa
khô có biên độ nhiệt ngày đêm lớn hơn mùa mưa.
+ Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 5, thường mưa
rào và giông vào buổi trưa – chiều và mùa mưa thường kết thúc vào giữa
tháng 10 hoặc giữa tháng 11. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.755mm
(theo số liệu thống kê kể từ năn 1977 - 1991).Tháng 9 có lượng mưa trung
bình cao nhất (300mm). Trong mùa mưa lượng mưa trung bình hàng ngày dao
động trong phạm vi 50-80mm. Lượng mưa vào mùa mưa chiếm 80% lượng
mưa trong năm.
+ Độ ẩm không khí: trong mùa mưa độ ẩm không khí trung bình
khoảng 85%. Thời kỳ ẩm nhất trong năm (các tháng 7,8,9) có độ ẩm trung
bình 90 - 92%. Vào mùa khô độ ẩm giảm xuống 80%. Độ ẩm tương đối thấp
(vào tháng 2-3) là 75-78%.
Hồng trồng ở Đà Lạt chủ yếu là các giống hồng thuộc loài Diospyros
kaki. Đây loài hồng trồng chủ yếu ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và một
số tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Một số giống hồng tốt được trồng phổ biến:
- Hồng Trứng lốc: quả hình trứng, cân đối, khi chín có vỏ màu hồng,
bóng láng. Cây có tán rất lớn, sau 15 năm có thể có bán kính 5m. Năng suất
rất cao, có khả năng chống chịu tốt đối với sâu bệnh, rất rễ trồng. Đây là một
trong những giống hồng được ưa chuộng nhất hiện nay. Quả chín rất ngọt,
vừa giòn vừa dẻo, thích hợp cho việc vận chuyển đi xa, năng suất năm thứ 5
có thể đạt 5-6 tạ/cây/năm. Do tán cây rộng, nên hồng trứng lốc được thu
hoạch từ tháng 6 đến tháng 8.
- Hồng Trứng muộn: quả hình trứng, khi chín có vỏ màu hồng, bóng.
Cây có tán trung bình 7-8m. Năng suất cao, chống chịu tốt. Quả khó rụng khi
gió lớn. Mặc dù chất lượng không bằng hồng trứng lốc, nhưng vì chín muộn
24
25
(thu hoạch hàng năm vào tháng 10-11) nên giá hồng tươi rất cao. Thông
thường cây 7 - 8 năm tuổi có thể thu hoạch 3 - 4 tạ/ năm.
- Hồng Pome tròn: quả tròn to rất đẹp, cho năng suất tương đối cao,
trung bình 1 tạ/cây. Cây bắt đầu cho thu hoạch sau trồng 7-8 năm. Quả chín
có màu đỏ son, phẩm chất tốt, vẫn được ưa chuộng. Mùa thu hoạch năm vào
tháng 9 - 10.
- Hồng chén: cây có tán lá trung bình, cành yếu nên thường được chống
đỡ khi có quả. Năng suất trung bình. Quả lớn, hơi dẹp về phía cuống, phẩm
chất tốt, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Mùa thu hoạch hàng năm vào
tháng 9 - 10.
- Hồng ăn liền: cây hồng tán là thấp bé, có thể trồng với mật độ dày.
Quả tròn dẹp, khi chín màu vàng đỏ, có thể ăn ngay ở trạng thái cứng, giòn,
ngọt. Quả nặng 200 - 250g, không hạt.
- Hồng Nhật Bản: có nguồn gốc từ Nhật Bản, được đưa vào trồng ở Đà
Lạt từ những năm 70 - 80 của thế kỷ trước. Cây có tán lá trung bình, có thể
trồng tương đối dày (cây cách cây khoảng 5m), nhanh ra quả, có thể bắt đầu
thu hoạch quả sau 3 năm kể từ khi trồng. Chất lượng quả không được ngon
lắm, có nhiều nước, khó vận chuyển. Tuy nhiên có năng suất cao nên giống
này được đánh giá là một trong số các giống có năng suất cao nhất. Nhược
điểm của nó được khắc phục bằng cách chế biến thành hồng sấy khô để tiêu
thụ trên thị trường. Mùa thu hoạch hàng năm 10-11.
Ngoài các giống kể trên, Đà Lạt còn nhiều giống hồng với số lượng
không nhiều như: hồng Quế hương, hồng Gạch, hồng Son, hồng Hỏa tiễn,
hồng Giòn…
b) Vùng Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh
Huyện Thạch Hà, nằm về phía tây thị xã Hà Tĩnh. Thạch Hà có lượng
mưa bình quân năm là 2.544mm, nhiệt độ trung bình 23,8
0
C, cao tuyệt đối
36
0
C, thấp tuyệt đối 8
0
C, độ ẩm không khí trung bình 83,8%. ở đây hồng được
trồng tập trung ở hai xã Thạch Đại và Thạch Lĩnh, đất đai tương đối cao, dốc
thoát nước, diện tích trồng chiếm tới 35,3% tổng diện tích cây ăn quả. Chỉ có
2 giống được trồng phổ biến sau đây:
25