Tải bản đầy đủ (.doc) (176 trang)

ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.41 KB, 176 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

HÀ NỘI


Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, “vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, dặc biệt là triết học
hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại” 1.
Sở dĩ vấn đề này được gọi là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ:
- Thứ nhất, nó này sinh cùng với sự ra đời của triết học và tồn tại trong tất cả
các trường phái cho tới tận ngày nay.
- Thứ hai, giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề triết
học khác còn lại và là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các nhà
triết học cũng như các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất: trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức(tồn tại và tư duy), cái nào
có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: trả lời cho câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế
giới khơng?(ý thức có thể phản ánh được vật chất hay khơng?)
Vấn đề cơ bản của
triết học MQH
VC - YT

Mặt thứ 1: Bản thể
luận: VC và YT cái
nào là tính thứ nhất

Ý thức là
tính thứ 1


Mặt thứ 2:Nhận thức
luận. Có thể nhận
thức được thế giới?

Vật chất là
tính thứ 1

Nhận thức
được

Khơng nhận
thức được

Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa
duy tâm
1

C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, H.1995, tr.403

2

Thuyết bất khả
tri
(Thuyết hoài
nghi)


Sơ đồ: Vấn đề cơ bản của triết học


* Chủ nghĩa duy vật: cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định
ý thức. Các nhà duy vật thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người.

Nguồn gốc:
Nhận thức

Sự phát triển của
KH
Tư tưởng tiến bộ

CNDV
VC→YT

Nguồn gốc:
Xã hội
Các hình thức
phát triển

DVCĐ

DV cận đại
(TK17-18)

Các phong trào
CM
Các phong trào
TB

DVBC (triết học
Mác)


Sơ đồ:. Chủ nghĩa duy vật

* Chủ nghĩa duy tâm: cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết
định vật chất. Đa số các nhà triết học duy tâm thừa nhận khả năng nhận thức thế
giới của con người. Một số nhà triết học duy tâm cho rằng con người khơng có khả
năng nhận thức được thế giới.

3


Tuyệt đối hố vai
trị của YT

Nguồn gốc:
Nhận thức
CNDT
YT→VC

Nguồn gốc:
Xã hội

Hiểu biết khơng
đầu đủ các giai
đoạn trong q
trình NT
Vai trị của lao
động trí óc
Giai cấp thống trị


Vị trí của
ý thức

Ở ngồi con người

Của con người

CNDT KQ

CNDT CQ

- Platon

-

Cantơ
- Hium

- Hêgen

-…

Sơ đồ : Chủ nghĩa duy tâm

Các nhà triết học nào cho rằng, chỉ có vật chất là nguồn gốc duy nhất của thế
giới được gọi là nhất nguyên duy vật. Những nhà triết học cho rằng chỉ có ý thức là
nguồn gốc duy nhất của thế giới được gọi là nhất nguyên duy tâm. Những nhà triết
học nào cho vật chất và ý thức đều là hai nguồn gốc song song tồn tại, khơng cái
nào có trước cái nào, đồng thời là nguồn gốc tạo nên thế giới được gọi là những
nhà nhị nguyên.

-------------------------------------Sự đối lập giữa 2 phương pháp: biện chứng và siêu hình
Phương pháp siêu hình

Phương pháp biện chứng

4


* Nghiên cứu thế giới trong sự tách rời, cô lập

* Nghiên cứu trong MLH tác động qua lại

* Nghiên cứu thế giới trong sự tĩnh lại bất biến

* Nghiên cứu thế giới trong sự vận động,
biến đổi không ngừng

* Không thừa nhận xu hướng phát triển

* Thừa nhận xu hướng phát triển

* Tìm nguyên nhân của mọi biến đổi (nếu có) từ bên * Tìm ngun nhân của mọi biến đổi từ
ngồi sự vật, hiện tượng

chính trọng sự vật hiện tượng

* Được sử dụng khi nghiên cứu trong một phạm

* Trong phạm vi rộng -> Thấy mối liên hệ


vi hẹp (chất điểm) và thời gian ngắn (thời điểm)

Thời gian dài -> Thấy sự vận động

Câu 2: Định nghĩa vật chất của Lênin?
- Thời kỳ cổ đại. (một dạng, nhiều dạng, vô định(apeiron), nguyên tử).
- Thế kỷ XVII, khoa học tự nhiên phát triển dãn dến đồng nhất vật chất với
những thuộc tính cụ thể của nó. (Đồng nhất vật chất với khối lượng. Cơ học Niutơn
coi khối lượng của vật thể là đặc trưng cơ bản và bất biến của vật chất.) Cơ học
Niutơn chi phối. Triết học bị ảnh hưởng bởi phương pháp siêu hình.
- Chủ nghĩa DVBC: C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những giá trị tích cực,
đồng thời vạch ra những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật
trước đó, đồng thời các ông đã tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại,
khái quát thành một quan niệm khoa học về vật chất. Các ông nêu lên quan niệm
về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về tính thống nhất vật chất thế giới, về những
dạng tồn tại cụ thể của nó. Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng cần phân biệt tồn tại
khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một
phạm trù triết học khơng tồn tại cảm tính. Khác với các đối tượng vật chất cụ thể,
những từ như "vật chất" và "vận động" chỉ là những sự tóm tắt, trong đó chúng ta
tập hợp theo những thuộc tính chung của chúng rất nhiều sự vật khác nhau có thể
cảm biết được bằng các giác quan"(1).

(1)

C.Mác - Ph.Ăngghen: TT, Nxb CTQG, H, 1994, t. 20, tr. 727

5


Ph.Ăngghen phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử, về những

hạt nhỏ đồng nhất, hoàn toàn giống nhau về chất, chỉ khác nhau về số lượng. Ông
coi quan niệm đó là siêu hình, mang tính cơ giới. Qua đó, ơng đã nêu lên tính vơ
hạn và vơ tận, tính khơng thể sáng tạo và khơng thể tiêu diệt được của vật chất và
các hình thức tồn tại của nó là vận động, khơng gian và thời gian. Tuy C.Mác và
Ph.Ăngghen chưa đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất, nhưng những tư
tưởng về vật chất của các ơng đã có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
khoa học thời bấy giờ. Nó là cơ sở trực tiếp để Lênin phát triển học thuyết duy vật
biện chứng về vật chất sau này.
+ V.I.Lênin đã rất chú ý phạm trù "vật chất" và học thuyết về vật chất nói
chung. Vì đó là điều cần thiết để phát triển triết học duy vật và giải quyết những
vấn đề thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng
trong khoa học tự nhiên, nó được đánh dấu bằng một loạt phát minh quan trọng:
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X.
Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của một số ngun tố
hố học.
Năm 1897, Tơmsơn tìm ra điện tử (electron).
Năm 1901, Kaufman xác định sự phụ thuộc của khối lượng các hạt vào tốc độ
vận động của chúng …
Những phát hiện đó của vật lý học đã chứng minh rằng nguyên tử có cấu trúc
phức tạp, có thể phân chia được, có thể phá huỷ và chuyển hố....
Những phát hiện khoa học đó là bước tiến của lồi người trong việc nhận thức
giới tự nhiên, đồng thời cũng đối lập với những quan niệm máy móc, siêu hình
đang thống trị trong khoa học thời bấy giờ. Trước những phát hiện mới đó của vật
lý học, các nhà triết học duy tâm và cả một số nhà khoa học, đặc biệt trong lĩnh
vực vật lý học, những người chỉ “giỏi về khoa học, nhưng kém cỏi về triết học” đã
giải thích sai lầm hoặc xuyên tạc những phát minh ấy. Họ cho rằng, “vật chất đã
6



tiêu tan”. Theo họ vật chất đã biến mất hoặc vật chất thực sự không tồn tại. C.Piếcxơn (1857-1936), nhà toán học, nhà sinh vật học và nhà triết học duy tâm người
Anh đã cơng kích khái niệm vật chất và tuyên bố vật chất là hư vô. Trước đấy,
E.Makhơ, nhà triết học, nhà vật lý học người áo đã từng khẳng định “Cảm giác
không phải là “những tượng trưng của vật”. Ngược lại, “vật” là một tượng trưng tư
tưởng của một phức hợp cảm giác có một tính ổn định tương đối. Đầu thế kỷ XX
phái Makhơ lại mưu toan lợi dụng những phát minh mới nhất của khoa học tự
nhiên để củng cố triết học duy tâm, bác bỏ hồn tồn chủ nghĩa duy vật.
Trước tình hình đó, V.I.Lênin đã tiến hành phê phán một cách toàn diện chủ
nghĩa duy tâm, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm chủ quan đang thịnh hành đầu thế kỷ
XX; vạch ra nguyên nhân của cuộc “khủng hoảng vật lý”, và vạch ra lối thoat cho
cuộc khủng hoảng đó; qua đó Lênin làm giàu thêm lý luận nhận thức mácxít.
V.I.Lê-nin đã khẳng định, chính những phát minh mới của khoa học tự nhiên
khơng bác bỏ mà cịn xác minh tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chứng minh sự tồn tại khách quan và vô tận của thế giới vật chất(1).
Lênin nhận xét: “ Thực chất của cuộc khủng hoảng vật lý học hiện đại là ở sự
đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại
khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri. “Vật chất tiêu tan”, - người ta có thể dùng câu nói
đó để diễn đạt cấi khó khăn cơ bản và điển hình đối với nhiều vấn đề riêng biệt,
khó khăn đã gây ra cuộc khủng hoảng ấy”(tập 18, tr.318).
Lênin đã chỉ ra con đường để các nhà khoa học thoát khỏi cuộc khủng hoảng
vật lý là phải thay chủ nghĩa duy vật siêu hình bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Lênin nhấn mạnh, sự phân nhỏ của nguyên tử, sự biến đổi của mọi hình thức vật
chất và sự vận động của nó là điều khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Mọi giới hạn trong tự nhiên đều chỉ là tương đối, có điều kiện, đều vận
động; cũng giống như thế giới khách quan, tri thức của chúng ta về nó ln biến
(1)

V.I.Lê-nin: TT, Nxb TB, M, 1980, t.18, tr. 36-37,


7


đổi, phát triển. Vật chất không biến mất và không bao giờ biến mất. Lênin nhấn
mạnh rằng, những phát hiện của con người về những bí mật của giới tự nhiên đã
làm tăng thêm sự hiểu biết của con người về giới tự nhiên, nhưng điều đó khơng có
nghĩa là giới tự nhiên là sản phẩm của trí ruệ con người như những nhà triết học
duy tâm và những người theo chủ nghĩa Makhơ thường khẳng định. Sự phát triển
của khoa học tự nhiên không chứng tỏ vật chất biến mất, mà chỉ chứng tỏ cái giới
hạn nhận thức của con người về vật chất mà thơi, vì nhận thức của chúng ta luôn
luôn phát triển sâu sắc thêm, nhận thức của chúng ta về những thuộc tính của vật
chất là tương đối và biến đổi.
Trên cơ sở đó, V.I.Lê-nin đã đưa ra định nghĩa khái quát về vật chất:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”(2).
* Trước hết, cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các
quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối
tượng, các dạng vật chất khác nhau. Các đối tượng vật chất cụ thể đều có giới hạn,
có sinh ra và mất đi, chuyển hố thành cái khác, cịn vật chất nói chung thì vô hạn
và vô tận, không sinh ra và mất đi. Vì vậy, khơng thể qui vật chất về một dạng cụ
thể duy nhất nào đó của vật chất.
* Phương pháp định nghĩa: không dùng phương pháp thông thường là đem
khái niệm cần định nghĩa vào khái niệm rộng hơn mà phải dùng phương pháp đặc
biệt là đem đối lập phạm trù vật chất với phạm trù vật chất – phạm trù rộng tương
đương, từ đó chỉ ra những đặc tính của phạm trù vật chất.
* Thuộc tính chung của vật chất là “thực tại khách quan” ở ngoài và độc lập
với ý thức con người.
Thế giới vật chất tồn tại dưới dạng các sự vật cụ thể, hiện tượng cụ thể rất
phong phú, vơ cùng, vơ tận, và chúng có vơ vàn các thuộc tính, nhưng “thực tại

(2)

V.I.Lê-nin: TT, Nxb TB, M, 1977.t.18, tr. 151

8


khách quan” tức sự tồn tại ở ngoài và độc lập với ý thức của con người được
V.I.Lênin coi là “thuộc tính duy nhất” để phân biệt cái là vật chất và cái không
phải vật chất.
Ngày nay, khoa học ngày càng đi sâu khám phá những bí mật của thế giới vật
chất, càng phát hiện thêm những dạng hạt, phản hạt, các loại trường với những kết
cấu và thuộc tính mới lạ đối với con người. Điều đó thể hiện sự tồn tại khách quan
của thế giới vật chất với tính đa dạng của nó. Khoa học ngày càng phát triển, càng
khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về vật chất là đúng đắn, và do đó, chủ
nghĩa duy vật biện chứng trở thành thế giới quan và phương pháp luận của các
khoa học hiện đại, kể cả trong điều kiện đổi mới tư duy hiện nay.
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã bao quát toàn bộ hiện thực - cả tự nhiên
và cả trong xã hội. Điều đó hết sức quan trọng để hiểu đúng vật chất xã hội là dạng
vật chất không tồn tại dưới dạng vật thể. Chẳng hạn, các quan hệ sản xuất là có
tính vật chất, mặc dù ở đây khơng hề có một nguyên tử vật chất nào.
* Ngoài dấu hiệu tồn tại khách quan, vật chất cịn có một dấu hiệu quan trọng
khác là tính có thể nhận thức được. Vật chất khơng phải tồn tại một cách thần bí,
vơ hình mà tồn tại một cách hiện thực. Tồn tại vật chất là tồn tại dưới dạng các sự
vật, hiện tượng cảm tính, tức dưới dạng cụ thể mà giác quan con người có thể nhận
thức một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Vì vậy, vật chất mang tính khách thể và về
nguyên tắc, mọi dạng vật chất đều có thể nhận thức.
Vật chất “được đem lại cho con người trong cảm giác”, nó là nguồn gốc,
nguyên nhân của cảm giác, của ý thức, nó có trước ý thức và tạo nên nội dung của
ý thức. Còn cảm giác hay ý thức chỉ là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh”, nó có sau

so với vật chất. Rõ ràng vật chất là tính thư nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất
quyết định ý thức.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất.

9


Như vậy, quan niệm duy vật biện chứng về vật chất đã được thể hiện tập
trung ở định nghĩa vật chất của V.I.Lênin. Điều đó có ý nghĩa thế giới quan và
phương pháp luận quan trọng để:
+ Khắc phục những cuộc khủng hoảng trong khoa học, khắc phục tính trực
quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ,
phát triển chủ nghĩa duy vật lên một trình độ mới thành chủ nghĩa duy vật biện
chứng, tạo cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật trong lĩnh vực xã hội đó là chủ
nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời tạo cơ sở cho sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật
biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Đấu tranh có kết quả chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm, thuyết
không thể biết.
+ Cổ vũ các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra ngày
càng nhiều những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng làm
phong phú tri thức của con người về thế giới.
Câu 3: Phân tích nguồn gốc, bản chất của ý thức ? Phân biệt hoạt động
có ý thức của con người với hoạt động của “người máy” và hoạt động bản
năng của động vật?
1. Nguồn gốc của ý thức
1.1. Nguồn gốc của tự nhiên
Nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một trong những vấn đề phức tạp
của triết học, là một trong những nội dung của cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Nhờ những thành tựu của khoa học trong các
thời kỳ lịch sử và của hoạt động thực tiễn xã hội mà vấn đề này ngày càng được

làm sáng tỏ.
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc lập, siêu tự nhiên,
khơng phụ thuộc vào vật chất, có trước vật chất và sáng tạo ra thế giới vật chất. ở
các học thuyết triết học duy tâm khác nhau, quan niệm về ý thức cũng khơng hồn
10


toàn giống nhau. Nhưng sự giống nhau của các học thuyết này là ở chỗ đều coi ý
thức là điểm xuất phát, sinh ra giới tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã chỉ ra mối liên hệ khăng khít giữa ý thức với
vật chất, khơng thừa nhận tính siêu tự nhiên của ý thức và khẳng định ý thức có
nguồn gốc từ vật chất. Nhiều nhà khoa học trước Mác đã có đóng góp đáng kể
trong việc chứng minh sự phụ thuộc của ý thức vào vật chất.
Một số nhà duy vật khác lại cho ý thức là thuộc tính phổ biến của mọi đối
tượng vật chất. Theo họ, mọi đối tượng vật chất sống đều có ý thức.
Dựa trên những thành tựu khoa học, nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa
duy vật biện chứng cho rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không
phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của dạng vật chất sống có tổ chức
cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. ý thức là chức
năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trên cơ sở của hoạt động sinh
lý thần kinh trong bộ óc người. Khơng có q trình này thì khơng thể có ý thức, và
nói chung khơng có bất kỳ một hoạt động tâm lý, ý thức, tư tưởng nào.Mặc dù vậy,
không thể quy hoạt động ý thức về các quá trình sinh lý thần kinh của bộ óc người
một cách đơn giản
Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của q trình tiến hố lâu dài về mặt sinh
vật - xã hội, sau q trình vượn chuyển thành người, óc vượn chuyển thành óc
người. Bộ óc người là một thực thể vật chất đặc biệt, có cấu trúc tinh vi, phức tạp,
bao gồm hàng tỷ tế bào thần kinh. Bộ óc và đặc biệt là vỏ đại não được phân chia
thành các vùng điều khiển toàn bộ hoạt động của con người và là nơi diễn ra các
quá trình sinh lý thần kinh làm cơ sở cho sự hình thành ý thức.

Quá trình sản sinh ra ý thức trong bộ óc người không đồng nhất, nhưng cũng
không tách rời, độc lập hoặc song song với quá trình sinh lý thần kinh. Đây là hai
mặt của một quá trình, quá trình sinh lý thần kinh diễn ra trong óc người mang nội
dung ý thức, tương tự như tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin.
11


Ngày nay, những thành tựu của cách mạng khoa học - cơng nghệ hiện đại đã
tạo ra những máy móc có thể thay thế một phần lao động trí óc của con người,
thậm chí có những phần việc làm nhanh và chính xác hơn con người. Song như thế
khơng có nghĩa máy móc có ý thức như con người. Máy móc khơng thể thay thế
hoạt động trí tuệ con người, vì máy móc cũng do con người tạo ra. Máy móc khơng
thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người,
máy móc chỉ hoạt động theo những qui trình mà con người sắp đặt. Chỉ có con
người với bộ óc của mình mới sản sinh ra ý thức.
Tuy nhiên, ý thức không chỉ có nguồn gốc từ bộ óc người mà ý thức cịn có
nguồn gốc từ thuộc tính phản ánh của vật chất.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc
tính này được biểu hiện ra trong sự tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với
nhau. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ
thống vật chất khác trong qúa trình tương tác của chúng. Kết quả của sự phản ánh
phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động, đồng thời bao hàm q trình
thơng tin, nghĩa là vật bị tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có q trình phát triển lâu dài từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Mỗi quá trình phát triển của vật chất có một hình
thức phản ánh tương ứng. Trong giới tự nhiên vơ sinh có hình thức phản ánh vật
lý, hố học. Những hình thức phản ánh này cịn mang tính thụ động, chưa có sự
định hướng, lựa chọn. Tương ứng với giới tự nhiên hữu sinh là hình thức phản ánh
sinh học. Phản ánh sinh học đã có sự lựa chọn định hướng, nhờ đó mà các sinh vật
thích nghi với mơi trường, duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh sinh học được thể

hiện ở sự thích ứng diễn ra giữa cơ thể với mơi trường bên ngồi của các lồi thực
vật, ở hình thức; phản xạ của các lồi động vật có hệ thần kinh và tâm lý ở động
vật có hệ thần kinh trung ương (não bộ và tuỷ sống). Tâm lý động vật là trình độ
phản ánh cao nhất ở động vật. Song, tâm lý động vật chưa phải là ý thức, vì nó cịn
bị các qui luật sinh học chi phối. ý thức chỉ ra đời ở giai đoạn phát triển cao của vật
12


chất. Bộ óc người là dạng vật chất phát triển cao, là cơ quan phản ánh. Chỉ có sự
phản ánh của bộ óc người về thế giới khách quan mới là cơ sở để hình thành ý
thức. Ý thức bắt nguồn từ thuộc tính phản ánh của vật chất, là kết qủa phát triển lâu
dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nó mang nội dung thơng tin về thế giới
khách quan về các đối tượng khách quan, về vật được phản ánh. Ý thức là sự phản
ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh,
song chỉ có bộ óc thơi thì chưa thể có ý thức. Khơng có sự tác động của thế giới
bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể
xảy ra.
1.2 Nguồn gốc xã hội của ý thức.
- Sự ra đời của bộ não người cũng như sự hình thành con người và xã hội lồi
người nhờ hoạt động lao động và giao tiếp xã hội bằng ngôn ngữ.
+ Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người và xã hội
loài người khác hoàn toàn với các động vật khác.
+ Trong quá trình lao động, con người biết chế tạo ra các cơng cụ lao động
qua đó tác động vào giới tự nhiên làm giới tự nhiên bộc lộ ra những thuộc tính của
nó. Thơng qua q trình này con người ngày càng nắm bắt sâu sắc hơn những
thuộc tính về giới tự nhiên, nhờ đó con người ngày càng hồn thiện khả năng tư
duy, làm cho bộ não ngày càng phát triển.
+ Trong quá trình hoạt động của con người, ngay từ đầu đã có sự liên kết
những thành viên xã hội bởi những mục đích chung và từ đó xuất hiện nhu cầu
giao tiếp - trao đổi kinh nghiệm với nhau. Chính những nhu cầu khách quan này

làm xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với
lao động. Đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ(1).
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là "vỏ vật chất"
của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Khơng có ngơn ngữ thì ý thức
khơng thể tồn tại và phát triển được. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là
(1)

C.Mác - Ph.Ăngghen TT, Nxb CTQG, H, 1994, t. 20, tr.645

13


công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ mà con người có khả năng trừu tượng hố và
khái qt hố, có thể truyền những kinh nghiệm của người này cho người khác, thế
hệ này cho thế hệ khác và do đó mà ý thức phát triển. Ph.Ăngghen coi lao động và
đồng thời với lao động là ngôn ngữ là "hai sức kích thích chủ yếu" làm chuyển
biến bộ óc vượn thành óc người, tâm lý động vật thành ý thức con người(1).
- Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và có ý nghĩa quyết định sự ra đời của ý thức
là nguồn gốc xã hội và ý thức là một hiện tượng xã hội, đó khơng phải hiện tượng
tự nhiên.
2. Bản chất của ý thức
Do chịu ảnh hưởng của quan điểm siêu hình, nhiều nhà duy vật trước Mác đã
coi ý thức là sự phản ánh thụ động, giản đơn máy móc. Họ khơng thấy được tính
năng động, sáng tạo, tính biện chứng của q trình phản ánh. Cịn chủ nghĩa duy
tâm thì cường điệu tính năng động của ý thức, tuyệt đối hóa vai trị của ý thức đến
mức coi ý thức sinh ra vật chất. Cả hai quan điểm trên đây đều sai lầm.
Chủ nghĩa duy vật mácxít cho rằng:
- Ý thức là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan của bộ óc con người,
thơng qua hoạt động thực tiễn.
Để hiểu đúng đắn bản chất của ý thức, trước hết phải thừa nhận ý thức là cái

phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh tồn tại khách quan
ở bên ngoài và độc lập với cái phản ánh. Vì vậy, khơng được đồng nhất hoặc tách
rời giữa vật chất và ý thức. ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, là hình ảnh
phi cảm tính của các đối tượng vật chất tồn tại cảm tính. Ý thức lấy hiện thực
khách quan làm tiền đề nhưng như mọi sự phản ánh, bị chi phối cả cái phản ánh lẫn
cái bị phản ánh.
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan của bộ óc con người nhưng bộ óc
con người là một thực thể vật chất có tổ chức cao nhất, vì vậy sự phản ánh này
khơng phải là sự phản ánh thụ động, giản đơn. Là sản phẩm của quá trình phát triển
((1)

C.Mác - Ph.Ăngghen. TT, Nxb CTQG, H, 1994, t. 29, tr.647

14


vật chất lâu dài, đồng thời cũng là sản phẩm của lịch sử xã hội lồi người, bộ óc có
khả năng phản ánh ngày càng linh loạt, sáng tạo.
+ Tính sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh. Điều đó thể hiện
trước hết ở khả năng phản ánh có chọn lọc của con người. Xuất phát từ nhu cầu
của thực tiễn, của đời sống xã hội nói chung, sự phản ánh của ý thức bao giờ cũng
tập trung vào những cái cơ bản chính yếu tuỳ theo nhu cầu của chủ thể phản ánh.
Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, không loại trừ, tách rời sự phản ánh, mà luôn
thống nhất với phản ánh, trên cơ sở của phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt
thuộc bản chất của ý thức. Chính thực tiễn xã hội tạo nên sự năng động, sáng tạo
này.
+ Tính sáng tạo của ý thức cịn thể hiện ở khả năng dự báo về tương lai, ở sự
tái tạo những hình ảnh của thế giới hiện thực trên cơ sở những quy luật vốn có của
nó hoặc những tiền đề về vật chất đã có. Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh đặc
biệt, phản ánh trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới. Quá trình ý

thức là quá trình trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, mang tính
hai chiều, định hướng và chọn lọc các thơng tin; là qúa trình mơ hình hố đối
tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần, là quá trình sáng tạo lại hiện thực
trong tư duy, mã hố các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Là hình ảnh của thế giới khách quan nhưng ý thức khơng phải là hình ảnh
vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật, mà là hình ảnh tinh thần của con
người trong quá trình “chép lại, chụp lai, phản ánh” thế giới khách quan. Theo
Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người
và được cải biến đi ở trong đó”.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan vì ý thức bao giờ cũng là ý thức của con người.
Mỗi con người đều tồn tại trong một xã hội nhất định. Ý thức phát triển tuỳ thuộc
vào sự phát triển của xã hội, vì vậy, ý thức bao giờ cũng có bản chất xã hội.
15


Câu 4: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa?
a) Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức.
- Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý
thức, sinh ra ý thức.
- Ý thức là sự phản ánh thê sgiới vật chất vào bộ não con người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trờ lại vật chất.
- ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, có tính ănng động, sáng tạo
nên có thể tác động trờ lại vật chất, góp phần cải biến thế giới vật chất.
- ý thức tác động theo cả hướng tích cực và tiêu cực. í thức phản ánh đúng
hiện thực khách quan thì có tác dụng thúc đẩy và ngược lại.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người.
- Tuy nhiên, xét đến cùng, ý thức vẫn phải phụ thuộc vào thế giới vật chất và

các điều kiện khách quan.
c) ý nghĩa phương pháp luận
- Quán triệt nguyên tắc khách quan trọng nhận thức và hành động. Nguyên tắc
này đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng, hành động theo quy
luật khách quan. Không lấy ý m,uốn chủ quan để xây dựng, hoạch định chính sách
phát triển kinh tế - xã hội… Cần tránh thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, định
kiến, khơng trung thực.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố
con người. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải nâng cao trình độ tri
thức, bồi dưỡng, rèn luyện tư duy trí tuệ, trình độ lý luận…. Chống thái độ ỷ lại,
bảo thủ trì trệ…
- Khắc phục, ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí. Đó là lối suy nghĩ và hành
động gảin đơn, nóng vội theo nguyện vọng chủ quan. Để khắc phục phải nâng cao
trình độ tư duy lý luận cho con người.
16


Câu 5: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
I. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái niệm mối liên hệ
Liên hệ là phạm trù triết học chỉ sự quy định, sự tác động qua lại lẫn nhau,
sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tás và chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính
của một sự vật, hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong
mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác; đều chịu sự chi phối, tác động ảnh
hưởng của các sự vật, hiện tượng khác.
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Chúng ta đều rõ, dù các sự vật trong thế giới đa dạng đến đâu chăng nữa thì cũng

chỉ là những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất. Cho nên, chung đều chịu sự chi
phối của quy luật vật chất . Ngay cả ý thức, tinh thần cũng chỉ là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Do vậy, ý thức tinh thần cũng bị
chi phối bởi quy luật vật chất.
2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo triết học duy vật biện chứng, mối liên hệ có các tính chất sau:
Tính khách quan- nghĩa là mối liên hệ khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người, chỉ phụ thuộc vào bản thân sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là
mối liên hệ vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng.
Tính phổ biến- nghĩa là mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư
duy; có ở mọi lúc, mọi nơi. Ngay trong cùng một sự vật, trong bất kỳ thời gian nào,
không gian nào ln có mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật.
17


Tính đa dạng, phong phú – rất nhiều mối liên hệ khác nhau phụ thuộc vào
góc độ xem xét: chẳng hạn, mối liên hệ bên trong – bên ngoài mối liên hệ tất yếu –
ngẫu nhiên; mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp; mối liên hệ chủ yếu – thứ yếu, mối
liên hệ xa – gần... Mỗi cặp mối liên hệ này có vai trị khác nhau trong q trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự phân chia các cặp mối liên hệ này cũng
chỉ là tương đối. Ví dụ, mối liên hệ này trong quan hệ này được coi là mối liên hệ
bên trong nhưng trong quan hệ khác lại được coi là mối liên hệ bên ngoài.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu mối liên hệ phổ biến cho ta ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Nguyên lý về mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm tồn diện địi hỏi:
+ Khi nhận thức sự vật phải nhận thức trong mmm với các sự vật, hiện
tượng khác; trong mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố của bản thân sự vật đó.
+ Để cải tạo sự vật trên thực tế phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp.
+ Phải biết phân loại đúng các mối liên hệ, trên cơ sở đó nhận thức đúng và

giải quyết để thúc đẩy sự vật tiến lên.
+ Chống lại quan điểm chiết trung – lắp ghép một cách máy móc vơ ngun
tắc những cái trái ngược nhau vào làm một; chống lại nguỵ biện – một kiểu đánh
tráo các mối liên hệ một cách có ý thức, có chủ định.
- Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể. Khi nhận thức sự
vật thì phải xem xét sự vật ln trong điều kiện, hồn cảnh, khơng gian, thời gian
cụ thể. Phải xem xét sự vật ra đời trong hồn cảnh nào? Nó tồn tại, vận động, phát
triển trong những điều kiện nào? Trong hoạt động thực tiễn khả năng giải quyết
vấn đề thực tiễn nào phải có những biện pháp rất cụ thể, không được chung chung.
Khi vận dụng những nguyên lý, lý luận chung vào thực tiễn phải xuất phát từ
18


những điều kiện thực tiễn lịch sử – cụ thể. Quan điểm lịch sử – cụ thể chống lại
quan điểm giáo điều. Như vậy, chính quan điểm triết học Mác-Lênin về mối liên hệ
phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử – cụ th.
- Chống lại quan điểm phiến diện, một chiều trong nhận thức cũng như trong
hành động.
- Quan điểm tồn diện địi hỏi khơng được bình quân, dàn đều khi xem xét
sự vật mà phải có trọng tâm, trọng điểm.
II. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN

1. Khái niệm phát triển
Theo triết học duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học chỉ
khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của sự vật. Nguồn gốc của s phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật.
Đó là mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Quá trình giải quyết liên tục những mâu
thuẫn đó quy định sự vận động, phát triển của sự vật.
2. Tính chất của sự phát triển

Phát triển mang tính khách quan, nghĩa là phát triển của sự vật là tự thân,
nguồn gốc của phát triển nằm ngay trong sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người, chỉ phụ thuộc vào mâu thuẫn bên trong sự vật.
Phát triển mang tính phổ biến. Phát triển diễn ra cả trong tự nhiên, xã hội và
tư duy, diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi.
Phát triển mang tính đa dạng, phong phú, tức là tuỳ thuộc vào hình thức tồn
tại cụ thể của các dạng vật chất mà phát triển diễn ra cụ thể khác nhau. Chẳng hạn,
ở thế giới hữu cơ, phát triển thể hiện ở sự tăng cường khả năng thích nghi của cơ
thể trước mơi trường; ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng
hồn thiện hơn.
19


Trong xã hội, phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã
hội phục vụ con người.
Trong tư duy, phát triển thể hiện ở việc nhận thức vấn đề gì đó ngày càng
đầy đủ, đúng đắn hơn.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về sự phát triển rút ra những ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Khi nhận thức sự vật phải nhận thức nó trong sự vận động, phát triển,
khơng nhìn nhận sự vật đứng im, chết cứng, không vận động, không phát triển.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, ngại
khó, ngại đổi mới, dễ bằng lòng với thực tại.
- Nhận thức sự vật phải thấy được khuynh hưóng phát triển của nó, để có
những phương án dự phịng. Có như vậy con người mới chủ động trong hoạt động
tránh bớt được vấp váp, rủi ro; nghĩa là, con người sẽ chủ động, tự giác hơn trong
hoạt động thực tiễn.
- Phát triển là khó khăn, phức tạp. Vì vậy, trong nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải bình tĩnh, tin tưởng vào
tương lai. Như vậy, quan điểm triết học Mác-Lênin về phát triển là cơ sở lý luận

của quan điểm phát triển.
Câu 6: Qui luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại?
1. Về phạm trù chất và lượng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có
của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính để phân biệt sự vật này với
sự vật khác.
20


Cần thấy rõ thuộc tính là cái để nhận biết chất, xác định chất, còn chất lại
được tạo thành từ kết cấu của sự vật. Trước hết, chất được tạo bởi các nhân tố tạo
thành vật. Vật được tạo thành bởi các nhân tố khác nhau thì chúng có chất khác
nhau. Chẳng hạn sự kết hợp giữa hyđrô và ôxy (H 2O) tạo thành chất nước, nhưng
sự kết hợp giữa canxi và ơxy (CaO) lại tạo thành vơi sống.
Khi nói đến chất của sự vật còn phải nhận thấy mỗi vật khơng phải chỉ có một
chất mà nó có thể có nhiều chất. Bởi vì, mỗi sự vật đều có nhiều thuộc tính và mỗi
thuộc tính lại có thể đặc trưng cho một chất. Chẳng hạn NaCl có thể gọi là chất
muối, nhưng nó lại có các thuộc tính như mặn, kết tinh, tính chất hồ tan. Vì vậy
nó có thể được gọi là chất mặn, chất kết tinh hay chất hồ tan v.v… Đồng có thuộc
tính là dẫn điện, dẫn nhiệt… Vì vậy có thể gọi nó là chất dẫn điện, chất dẫn nhiệt…
Mỗi sự vật không phải chỉ có chất mà cịn có lượng. Chất của sự vật không
bao giờ tồn tại tách rời với mặt lượng của nó. Lượng và chất là hai mặt của tính qui
định luôn cùng tồn tại trong một sự vật. Chất nào cũng phải có một lượng nhất
định và lượng nào cũng là lượng của một chất nhất định. Tuy nhiên giữa chất và
lượng cũng có những sự khác nhau nhất định. Lượng cũng là tính qui định vốn có
của vật nhưng lại biểu thị độ lớn nhỏ, trình độ phát triển cao, thấp hay tốc độ vận
động nhanh, chậm của chất.
Chính vì vậy, lượng được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui

định vốn có của sự vật, thể hiện số lượng, qui mơ, trình độ phát triển hay tốc độ
vận động của một chất.
Trong thực tế, lượng có thể biểu hiện bằng nhiều cách khác nhau nhưng cách
thức phổ biến là bằng các con số, các đại lượng hay các tập hợp… Giữa các con số
và các đại lượng, các tập hợp… có những mối quan hệ riêng vì vậy người ta có thể
tách chúng khỏi những sự vật cụ thể để tính tốn. Đó là khả năng trừu tượng hoá
cao của tư duy con người và là cơ sở để nảy sinh mơn tốn học.
Một điều cũng cần nhấn mạnh là khi nói lượng là lượng của chất. Vì vậy, một
vật có nhiều chất thì vật cũng có nhiều lượng. Chẳng hạn, mỗi con người đều có
21


những thuộc tính sinh học và thuộc tính xã hội. Nếu xem con người là một “chất
sinh học” thì lượng ở đây là chiều cao, cân nặng… Nhưng con người lại cũng có
thể xem là có “chất thanh niên”, “chất trung niên”, thậm chí là “chất chính trị”,
“chất quản lý”. Mỗi loại đó có một loại lượng khác nhau. Chẳng hạn “chất chính
trị” có lượng của nó là q trình tham gia các hoạt động chính trị, những điểm nổi
bật trong q trình này. Nhưng nếu nói đến “chất quản lý” lại phải kể đến quá trình
tham gia quản lý, những chức vụ trong quản lý, những thành tích trong quản lý mà
một người cụ thể đã từng đảm nhận và hồn thành nhiệm vụ của mình.v.v...
Như vậy, chất và lượng có sự khác nhau nhất định. Tuy nhiên sự khác biệt này
chỉ là tương đối và nhiều khi các số đo về lượng lại phản ánh “chất” là thế nào.
Chẳng hạn để xác định thể trạng của một con người, không thể không căn cứ vào
chiều cao, cân nặng, áp huyết... Mặt khác ngay bản thân các con số cũng không
phải chỉ biểu thị lượng của sự vật. Trong hệ thống các con số, chúng ta có số chẵn
và số lẻ, những số hữu tỉ và những số vô tỷ... chúng có những thuộc tính khác
nhau, vì vậy cũng có thể xem giữa chúng có sự khác biệt về chất.
2. Quan hệ biện chứng sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất.
Lượng và chất không chỉ gắn bó với nhau như ở phần trên đã đề cập, mà
chúng cịn gắn bó với nhau trong tồn bộ quá trình vận động và biến đổi của sự

vật. Do thuộc tính vận động của vật chất nên trong thế giới khách quan khơng có
cái gì là bất động, chúng ln ln biến hố dưới hình thức này hay hình thức
khác, mặc dù sự biến hố này có thể nhanh chậm khác nhau với vơ vàn các hình
thức khác nhau. Tuy vậy, sự biến đổi của bất kỳ sự vật nào dù lớn hay nhỏ, dù vô
cơ hay hữu cơ cũng đều bắt đầu từ sự biến đổi về lượng. Chẳng hạn, nước lỏng
muốn chuyển thành thể hơi, nhiệt độ của nó phải tăng từ thấp đến cao. Một con
người muốn phát triển phải có sự tăng trưởng về thể lực, về trí tuệ và khi đạt đến
một trình độ phát triển nào đó mới chuyển từ thơ ấu sang nhi đồng, từ nhi đồng
sang thiếu niên... Mọi sự “bùng nổ”, “bất ngờ” đều là kết quả của những sự tích tụ
những nguồn năng lượng hay những yếu tố nào đó đến mức phải phá vỡ chất cũ,
22


tạo ra chất mới. Mọi sự tích tụ về lượng có thể diễn ra nhanh chóng hoặc lâu dài
nhưng ở một phạm vi nào đó nó chưa thể tạo ra sự biến đổi về chất hay nói đúng
hơn, nó chưa tạo ra sự biến đổi căn bản về chất. Trong trường hợp đó, sự vật “vẫn
là nó”, nó chưa chuyển thành cái khác. Lượng và chất ở thời điểm này được xem là
thống nhất với nhau. Chẳng hạn, nước lỏng trong khoảng từ 0 oC đến 100oC dưới áp
suất 1atm, dù nhiệt độ có tăng hay giảm vẫn khơng làm cho nước lỏng biến thành
hơi. Khoảng giới hạn từ 0oC đến 100oC được gọi là độ của nước lỏng.
Vậy, độ là khoảng giới hạn mà trong đó những sự biến đổi về lượng không
làm cho chất biến đổi căn bản.
Trong thế giới, khơng có cái gì tồn tại vĩnh viễn, khơng có cái gì khơng có
giới hạn. Vì vậy, mọi cái đều có độ của nó. Trong con người từ sức mạnh cơ
bắp đến thần kinh đều có độ. Vượt khỏi giới hạn đó con người khơng đủ sức chịu
đựng. Thậm chí, như V.I.Lênin nhận định, ưu điểm mà vượt quá giới hạn của nó
cũng trở thành khuyết điểm. Điểm giới hạn của sự biến đổi về lượng trong một
chất xác định được gọi là điểm nút.
Điểm nút là điểm mà ở đó bất kỳ một sự biến đổi nào về lượng cũng tạo ra sự
biến đổi về chất. Điểm nút là điểm ở hai đầu của độ. Chẳng hạn, điểm nút của nước

lỏng là 0oC và 100oC. Khi nước ở 100oC nếu ta thêm bất kỳ một lượng nhiệt nào nó
cũng làm cho nước bốc hơi. Hoặc ngược lại, nếu nước đã ở 0 oC thì ta giảm bất cứ
lượng nhiệt nào nước cũng chuyển thành thể rắn. ở những điểm nút đó “một giọt
nước” có thể làm tràn cốc nước hay “con ruồi đỗ nặng đòn cân”. Nhận thức được
điểm nút là nhận thức được sự chín muồi, là biết được thời cơ, vận hội hoặc cũng
có thể dự báo được những nguy cơ, những tai họa có thể ập đến... Một nhà quản lý
nhận thức được điểm nút có thể có những quyết định hoạt động đúng đắn dứt khốt
để chuyển hóa hay để bảo tồn sự vật. Khơng nhận thức được điều đó, con người sẽ
hành động mù quáng, có thể gặp hậu họa hoặc bỏ lỡ thời cơ.

23


Sự chuyển biến từ chất cũ sang chất mới được gọi là “bước nhảy” hay “nhảy
vọt”. Bước nhảy là phạm trù dùng để chỉ q trình chuyển hố từ chất cũ sang chất
mới do kết quả của sự biến đổi về lượng tạo ra.
Việc nhận thức được “bước nhảy” trong quá trình phát triển là một bước tiến
trong sự nhận thức thế giới. Đó cũng là tiêu chí quan trọng để phân biệt quan điểm
biện chứng và quan điểm siêu hình. Theo quan điểm siêu hình, sự phát triển của
từng sự vật, hiện tượng cũng như của thế giới nói chung chỉ là sự tăng giảm thuần
túy về lượng. Đó là sự phát triển liên tục trong thời gian đi theo sự tiệm tiến dần
dần. Họ phủ nhận “bước nhảy” và cũng có nghĩa là phủ nhận vai trị của các cuộc
cách mạng trong sự phát triển xã hội. Phủ nhận “bước nhảy” về thực chất cũng là
phủ nhận sự biến đổi về chất. Bởi vì, khi chất cũ mất đi, chất mới ra đời thì nhất
định các nhân tố của nó phải đổi mới, các kết cấu vật chất cũng phải thay đổi và
điều đó tất yếu phải tạo ra sự gián đoạn. Học thuyết tế bào đã cho ta thấy “bước
nhảy” từ chất vô cơ sang chất hữu cơ. Học thuyết tiến hoá của Đácuyn đã cho thấy
“bước nhảy” từ loài sinh vật này lên loài sinh vật khác. Các cuộc cách mạng trong
lịch sử đã cho thấy “bước nhảy” từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh
tế - xã hội cao. Vì vậy, V.I.Lênin đã khẳng định “tính tiệm tiến mà khơng có bước

nhảy vọt thì khơng giải thích được gì cả”(1).
Tuy nhiên, bước nhảy có nhiều loại, nếu xét về thời gian có thể phân thành
bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là bước nhảy diễn
ra một cách nhanh chóng. Bước nhảy đột biến có thể diễn ra trong khoảnh khắc
như các vụ nổ hạt nhân. Nhưng trong xã hội, những cuộc cách mạng chính trị diễn
ra nhanh chóng cũng có thể được xem là bước nhảy đột biến trong xã hội. Trong xã
hội, những sự đột phá tạo nên những chuyển biến căn bản trong lĩnh vực khoa học
cơng nghệ, cũng có thể xem là những sự đột biến.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy diễn ra trong thời gian dài. Bước nhảy dần
dần khơng đồng nhất với sự biến đổi về lượng. Vì sự biến đổi về lượng chỉ diễn ra
(1)

V.I.Lênin: TT, Nxb TB, M, 1978, t. 29, tr.133

24


trong khn khổ của chất cũ, cịn bước nhảy dần dần lại là quá trình chất cũ mất đi
“dần dần” và chất mới “ dần dần” nảy sinh. Đó là q trình thay đổi về chất.
Xét về qui mơ có thể phân bước nhảy thành bước nhảy toàn bộ và bước nhảy
cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là biến đổi toàn diện về chất của sự vật còn bước nhảy
cục bộ là sự biến đổi về chất của từng bộ phận, từng mặt của sự vật đó.
Trong một cuộc cách mạng xã hội, việc chuyển từ một hình thái kinh tế - xã
hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác là bước nhảy toàn bộ. Nhưng sự
biến đổi từng bộ phận như: cách mạng chính trị, cách mạng khoa học kỹ thuật,
cách mạng văn hoá tư tưởng... là những bước nhảy bộ phận. Bước nhảy bộ phận có
thể diễn ra đồng thời cũng có thể diễn ra trước sau ở những thời điểm khác nhau.
Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ đều có thể diễn ra nhanh chóng (đột biến)
hoặc diễn ra dần dần.

Q trình lượng đổi dẫn đến chất đổi thực chất là quá trình tích tụ về lượng để
đến một thời điểm nào đó sẽ làm cho chất chuyển hố. Đặc điểm của q trình này
là khơng gây ra những chấn động mạnh, thậm chí cịn “êm ái” “dễ chịu” nhưng kết
quả thì nhiều khi to lớn, bất ngờ. Hêghen đã từng nhận xét “Lượng, khi được coi
như một giới hạn bàng quan thì đó là mặt mà từ phía ấy vật đang tồn tại nào đó bị
tấn cơng một cách bất ngờ và sự tiêu diệt”(1).
Tuy nhiên, trong sự biến đổi của thế giới khơng phải chỉ có lượng đổi dẫn đến
chất đổi vì cịn có q trình ngược lại. Thực chất của quá trình ngược lại này là khi
chất đổi sẽ làm cho lượng biến đổi với tốc độ nhanh hơn và với qui mô lớn hơn.
Trong thế giới khách quan, ứng với một chất xác định chỉ có một lượng xác định.
Trong khn khổ của chất ấy, lượng có giới hạn tối đa và tối thiểu nhưng lượng
không thể vượt được giới hạn đó. Chẳng hạn, nước nguyên chất dưới áp lực 1 atm,
thể tích của nó có thể tăng dần lên khi nhiệt độ tăng từ 0 oC đến 100oC, nhưng
lượng nước trong một nồi súp-de không thể vượt quá một giới hạn nào đó. Muốn
(1)

V.I.Lênin: TT, Nxb TB, M, 1978, t. 29,tr.133

25


×