Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

(Luận án tiến sĩ) Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.38 KB, 182 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--o0o--

HOÀNG VĂN HẠNH

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐỐN
VƠ TỘI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--o0o--

HOÀNG VĂN HẠNH

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐỐN
VƠ TỘI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các thông tin, số liệu nêu trong luận án là trung thực. Các
luận điểm kế thừa trong luận án được trích dẫn rõ ràng. Kết
quả nghiên cứu của luận án chưa từng được công bố trong
công trình nào khác.
Nghiên cứu sinh

Hồng Văn Hạnh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................... 10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ............................................ 10
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi .......................................................... 22
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................. 27
1.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu, câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu ................. 31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 36
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................................................................................ 37
2.1. Khái niệm, ý nghĩa của bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội

trong pháp luật tố tụng hình sự ......................................................................... 37
2.2. Chủ thể có trách nhiệm bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội
trong pháp luật tố tụng hình sự ......................................................................... 50
2.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong
pháp luật tố tụng hình sự .................................................................................. 57
2.4. Các yếu tố bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp
luật tố tụng hình sự ........................................................................................... 62
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 69
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NGUN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................... 70
3.1. Thực trạng quy định về bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội
trong pháp luật tố tụng Việt Nam hiện nay ...................................................... 70
3.2. Thực tiễn bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay........................................................................ 92
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ...................................................................................... 131


Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
TĂNG CƢỜNG BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VƠ
TỘI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY .. 132
4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố
tụng hình sự .................................................................................................... 132
4.2. Giải pháp hồn thiện mơ hình tố tụng và pháp luật về bảo đảm thực
hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội ..................................................................... 141
4.3. Giải pháp tăng cường bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội.... 151
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ...................................................................................... 162
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................ 163
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ CĨ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN....................................................................................... 165

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 166


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố Tụng hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

NCS

Nghiên cứu sinh

NXB


Nhà xuất bản

NTSĐVT

Ngun tắc suy đốn vơ tội

CTTP

Cấu thành tội phạm

CQĐT

Cơ quan điều tra

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự ln là một
vấn đề quan tâm của hệ thống tố tụng hình sự bất kỳ quốc gia nào. Trong đó, việc
quy định và bảo đảm thực hiện trên thực tế ngun tắc suy đốn vơ tội là một nội
dung rất quan trọng nhằm bảo đảm quyền con người tron quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Suy đốn vơ tội xuất hiện lần đầu tiên ở thời La Mã cổ đại vào thế kỷ thứ

VI khi Hoàng đế La Mã ban hành bản tóm lược Luật La Mã. Người ta đã khẳng
định rằng, trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo, thuộc bên khẳng định chứ
không phải bên phủ định, những tư tưởng này chỉ được các quan toà áp dụng trong
tố tụng dân sự. Đây được coi là cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vơ
tội (presomtion of innonce). Tuy nhiên, suy đốn vơ tội chỉ chính thức được xem
như một nguyên tắc mang tính công cụ của pháp luật bởi luật gia người Pháp Jean
Lemoine nhằm ủng hộ cho suy luận mang tính pháp lý rằng hầu hết mọi người
không phải là tội phạm [44]. Suy đốn vơ tội là một trong những ngun tắc cơ bản
trong của tố tụng hình sự và được coi như một công cụ để bảo vệ quyền con người ở
nhiều nước trên thế giới. Nguyên tắc này chính thức được ghi nhận trong Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hịa Pháp năm 1789, theo đó tại Điều 9
quy định “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, nếu
xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho việc
bắt giữ đều bị pháp luật xử phạt nghiêm khắc”. Tiếp đó, Điều 11, Tuyên bố chung
về quyền con người (được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
10/12/1948) ghi nhận: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội có quyền được coi là vô tội cho
đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tòa xét xử công
khai với mọi đảm bảo biện hộ cần thiết” và Điều 14, Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16/12/1966
cũng ghi nhận “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội
cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”. Cho
đến nay, hầu hết pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận suy đốn vơ tội là một
ngun tắc cơ bản của tố tụng hình sự.

1


Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng hình sự,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, cũng như các văn bản quy
phạm pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền suy đốn vơ tội trong q trình giải quyết

vụ án hình sự. Các quan điểm của Đảng về suy đốn vô tội cũng như bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự được thể hiện trong các
Nghị quyết như: Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nội dung các quan điểm này được
thể chế hóa trong hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Dưới góc độ pháp lý, năm 1982, Việt Nam gia nhập Cơng ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị năm 1966 và cam kết thực hiện các nguyên tắc của Cơng
ước này, trong đó có ngun tắc suy đốn vơ tội. Lần đầu tiên, suy đốn vơ tội được
ghi nhận với tư cách là một nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên (năm
1988) của nước ta (Điều 10), là một quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp
năm 1992 (Điều 72). Tuy nhiên trong những giai đoạn này, ngun tắc suy đốn vơ
tội chưa được ghi nhận bằng tên gọi chính xác và cụ thể, mà chỉ là nội sung của suy
đốn vơ tội được thể hiện trong các quy định của Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 và Điều 9, Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Đến năm 2013
Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận tại khoản 1
Điều 13 nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội, cụ thể là: “Người bị buộc tội được
coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Thể chế hóa quy định của Hiến
pháp 2013, ngun tắc suy đốn vơ tội cũng đã được quy định tại Điều 13 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi khơng đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ
để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”
Theo các quy định của pháp luật, nội dung cơ bản của ngun tắc suy đốn vơ tội
được thể hiện là người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng

2



minh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và nếu cơ quan có thẩm quyền khơng
chứng minh được căn cứ buộc tội thì phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội.
Như vậy, trong suốt lịch sử xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam có
thể thấy, nhưng quan điểm, tư tưởng về suy đốn vơ tội đã dược dần dần hình thành
và ngày càng cụ thể hóa. Điều này góp phần quan trọng vào việc bảo đảm quyền co
người trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hình sự cho thấy, việc bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đoán vơ tội thời gian qua cũng cịn những bất cập cả về thể chế và
quá trình áp dụng, nhất là việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này được đặt trong
mối quan hệ biện chứng với các nguyên tắc tố tụng hình sự khác được Bộ luật Tố
tụng hình sự quy định. Đầu tiên phải kể đến các hạn chế, tồn tại của mơ hình tố tung
hình sự Việt Nam với đặc trưng là mơ hình tố tụng thẩm vấn có tăng cường thêm
các yếu tố tranh tụng, do đó vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng nhà nước
trong việc chứng minh tội phạm là rất rõ nét, trong khi đó vai trị của các chủ thể
khác, đặc biệt là bên bị buộc tội là rất mờ nhạt. Điều này làm ảnh hưởng đáng kể
đến vấn đề bảo đảm suy đốn vơ tội. Ngồi ra, các quy định cũng như thực hiện quy
định về chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam cịn nhiều hạn chế về
nguyên tắc, mọi chứng cứ do người có thẩm quyền thu thập đúng trình tự, thủ tục
đều có giá trị pháp lý ngang nhau nên phải được đánh giá, sử dụng như nhau nhưng
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa thể hiện được điều này. Vẫn cịn sự bất bình
đẳng trong thu thập, đánh giá chứng cứ. Bộ luật tố tụng hình sự quy định luật sư có
quyền thu thập tài liệu, đồ vật, nhưng lại chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục
thu thập chứng cứ của luật sư. Giá trị pháp lý của tài liệu, đồ vật do luật sư thu thập
không cao, thậm chí khơng được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận. Điều này
cũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trên
thực tế. Bên cạnh đó, việc nhận thức, tuân thủ nguyên tắc này cũng còn những hạn
chế, bất cập, nhất là trong một số vụ án hình sự, người tiến hành tố tụng bức cung,
dùng nhục hình hay xét xử chỉ căn cứ vào hồ sơ vụ án mà khơng bảo đảm tính tranh

trụng trong hoạt động xét xử đã dẫn đến những việc oan, sai cho bị can, bị cáo.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường bị nhìn nhận là người phạm tội, thậm chí,
họ cịn bị đối xử một cách thô bạo mặc dù rất nhiều trường hợp sau đó họ được Tịa

3


án tuyên là không phạm tội. Như vậy, theo cách suy diễn này, có lẽ việc tiến hành tố
tụng đang theo hướng “suy đốn có tội” mà khơng phải “suy đốn vơ tội”. Điều này
gây ra thiệt hại khơng nhỏ đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, xâm phạm đến
uy tín, danh dự của họ và dẫn đến tình trạng oan, sai trong tố tụng.
Trong những năm trước khi có Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015, khi chưa có qui định chính thức về nguyên tắc này, nên đã xảy ra
nhiều vụ án oan sai, xâm phạm thô bạo quyền con người, để lại hậu quả vô cùng
nặng nề , sử dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng không đúng, thiếu căn cứ, chà
đạp lên quyền con người, sau đó vụ án được xem xét lại thì họ hồn tồn vơ tội.
Đồng thời ảnh hưởng khơng nhỏ đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, đến
đường lối đổi mới và cải cách nền tư pháp nước ta. Chính vì tầm quan trọng như
vậy, nên ngun tắc suy đốn vơ tội ln được sự quan tâm của nhà nước, mà còn
trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như hoạt
động áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Do đó, việc Bảo đảm thực hiện ngun tắc
suy đốn vơ tội là một điều kiện căn bản để bảo vệ quyền con người, quyền cơng
dân trong pháp luật tố tụng hình sự. Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm xác
định những thiếu sót tồn tại về xây dựng pháp luật, về áp dụng pháp luật và đề ra
các giải pháp bảo đảm thực hiện tốt hơn ngun tắc suy đốn vơ tội, đặc biệt là
những điều kiện bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội, trong các giai đoạn
tố tụng trên thực tế, góp phần đem đến sự bình đẳng trong hoạt động tố tụng hình sự
giữa một bên là Nhà nước với bộ máy đầy quyền lực của các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng hùng hậu với một bên yếu thế là người bị tình nghi, bị can,
bị cáo. Với những lý do được phân tích ở trên, nên nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề

tài “Bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, pháp luật và thực tiễn về bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, luận án đưa ra những đánh giá, nhận

4


xét và đề xuất các định hướng, giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện hiệu quả
nguyên tắc suy đoán vơ tội trong tố tụng hình sự.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu ở trên, luận án xác định các nhiệm
vụ chủ yếu sau đây:
Một là, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
liên quan đến việc bảo đảm thực hiện hiệu quả ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố
tụng hình sự, từ đó, rút ra những vấn đề cần kế thừa, những vấn đề tiếp tục nghiên
cứu làm rõ trong nội dung luận án.
Hai là, nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm thực hiện
ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự.
Ba là, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm thực hiện nguyên
tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay, đánh giá và chỉ ra
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân chủ yếu.
Bốn là, đề xuất các định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm thực
hiện hiệu quả ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận cũng như pháp

luật về bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự được thể
hiện trong các cơng trình khoa học đã được công bố và các văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước cũng như thực tiễn bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội
trong q trình giải quyết các vụ án hình sự ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo
đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay trong các giai đoạn của tố tụng hình sự.
Về khơng gian, nghiên cứu thực tiễn thực thi pháp luật về bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đoán vơ tội trong tố tụng hình sự trong phạm vi cả nước.
Về thời gian, Luận án sẽ khảo sát thực trạng bảo đảm thực hiện ngun tắc
suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở

5


Việt Nam từ thời điểm Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành
ngày 01/01/2018 đến hết năm 2020, đồng thời có sự so sánh với thực tiễn áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự các vụ án hình sự, bị oan, sai các giai đoạn trước
khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp trong lĩnh vực hình sự và
tố tụng hình sự về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình
sự, bảo đảm quyền con người. Để thực hiện nghiên cứu đề tài, Luận án cũng sử
dụng nhiều phương pháp nghiên cứu truyền thống, cụ thể là:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng để phân tích cũng như luận giải
những vấn đề lý luận và thực trạng quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện ngun
tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự, lập luận về các giải pháp tăng cường bảo

đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vơ tội trong tố tụng hình sự tại Chương 2,
Chương 3, Chương 4 của luận án.
- Phương pháp hệ thống: Được sử dụng ở nhiều giai đoạn khác nhau trong
quá trình triển khai nghiên cứu luận án. Bước đầu, phương pháp này được sử dụng
để hệ thống hoá các tài liệu, cơng trình, bài viết để tổng quan tình hình nghiên cứu
và những vấn đề tiếp tục nghiên cứu trong luận án tại Chương 1. Trong giai đoạn
triển khai nghiên cứu, phương pháp này được sử dụng để hệ thống hoá những hiểu
biết, tri thức lý luận liên quan đến bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội
trong pháp luật tố tụng hình sự ở Chương 2, Chương 3 và Chương 4.
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng nhằm mục đích thực hiện thu thập
và xử lý một cách hợp lý, hiệu quả các số liệu thực tiễn liên quan có ý nghĩa phục
vụ luận giải và làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu của luận án tại Chương 3.
- Phương pháp lịch sử: Được sử dụng để tìm hiểu quy định của pháp luật và
quá trình sửa đổi bổ sung pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự qua các thời kỳ, vận dụng khi
nghiên cứu các quan điểm, học thuyết tại Chương 2.

6


- Phương pháp so sánh: Được dùng để so sánh những sự thay đổi về quan
điểm, nhận thức, tư duy về bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố
tụng hình sự qua từng giai đoạn, từng văn bản pháp luật tố tụng hình sự nhằm phục
vụ những mục tiêu cụ thể của luận án. Phương pháp này được sử dụng để so sánh
tại Chương 2 và 3 của luận án.
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng trong việc thống kê số liệu, làm rõ
thực tiễn bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình
sự tại Chương 3 của luận án.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Được sử dụng khi nghiên cứu một số
quan điểm, học thuyết điển hình về bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội

trong tố tụng hình sự tại Chương 2, nghiên cứu một số trường hợp điển hình.
- Phương pháp xã hội học: Được sử dụng điều tra xã hội học phục vụ cho quá
trình nghiên cứu luận án. Phương pháp này có ý nghĩa dự báo khoa học, nhằm dự báo
về các xu hướng phát triển và các yêu cầu bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ
tội trong tố tụng hình sự ở Việt Nam trong tương lai.
Bên cạnh đó, luận án cịn sử dụng một số phương pháp tiếp cận đa ngành và
liên ngành luật học, nghiên cứu khác của pháp luật về bảo đảm thực hiện ngun tắc
suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự, bao gồm: Phương pháp quy nạp và diễn dịch,
mô tả, nghiên cứu văn bản, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, quan sát... để chọn lọc
tri thức khoa học và kinh nghiệm ở trong và ngồi nước...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là cơng trình ở cấp độ luận án tiến sĩ tiếp cận hệ thống và toàn diện vấn
đề bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự.
Luận án có những đóng góp mới như sau:
Thứ nhất, luận án xây dựng hệ thống lý luận về bảo đảm pháp lý thực hiện
ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự như: Khái niệm, đặc
điểm ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự; khái niệm, đặc
điểm của bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình
sự; chủ thể, phạm vi, tầm quan trọng và các biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên
tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự, khái quát các chuẩn mực pháp

7


luật quốc tế về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố
tụng hình sự.
Thứ hai, đánh giá mức độ bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội
trong tố tụng hình sự qua các quy định pháp luật Việt Nam kể từ khi Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Có so sánh, đối chiếu mức độ tương
thích của quy định pháp luật Việt Nam với các chuẩn mực pháp lý quốc tế và pháp

luật của một số quốc gia. Bên cạnh đó, Luận án cũng đánh giá thực tiễn thực hiện
việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự ở
Việt Nam, từ đó, chỉ ra những kết quả tích cực, những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân.
Thứ ba, luận án xác định các quan điểm định hướng và đề xuất hệ thống các
giải pháp có tính tồn diện nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện ngun
tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả thực hiện việc bảo đảm
thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, Luận án góp phần vào việc luận giải các cơ sở lý luận về bảo
đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vơ tội trong tố tụng hình sự vừa có tính đặc thù
phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị của Việt Nam, vừa phù hợp với các
tiêu chí pháp lý quốc tế về quyền con người, đặc biệt là những vấn đề lý luận về bảo
đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự. Kết quả nghiên cứu
của Luận án đóng góp cho sự phát triển lý luận chung về bảo đảm thực hiện ngun
tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự ở Việt Nam với các nội dung như khái
niệm, nội dung bảo đảm, phương thức, hệ thống tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về bảo
đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự.
Về mặt thực tiễn, về mặt lập pháp, kết quả nghiên cứu của luận án có những
đóng góp trong việc đưa ra các kiến giải lập pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đặc biệt là pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm thực hiệ
ngun tắc suy đốn vơ tội trong q trình giải quyết vụ án hình sự.
Về hoạt động thực tiễn các kết quả nghiên cứu của luận án có những đề xuất
nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả về tổ chức và thực hiện pháp luật về bảo đảm

8


ngun tắc suy đốn vơ tội trong q trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong thời gian tới.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong
giảng dạy, học tập và nghiên cứu pháp luật về tố tụng hình sự cũng như pháp luật về
quyền con người, quyền công dân tại các trường đào tạo luật cũng như các cơ sở
nghiên cduwus pháp luật tại Việt Nam.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phần phụ
lục, luận án được kết cấu gồm 04 chương, bao gồm:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm thực hiện ngun
tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự.
Chƣơng 3: Thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đoán vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 4: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.

9


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo đảm
thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự
Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu về ngun tắc suy đốn vơ tội dưới các góc độ và phạm vi khác nhau. Trong đó
nhóm các cơng trình được cơng bố nhiều nhất là vấn đề lý luận về nguyên tắc suy
đốn vơ tội cũng như bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng
hình sự. Có thể kể đến các cơng trình như sau:
* Nhóm các cơng trình là các luận văn, luận án, đề tài khoa học:
Luận văn Thạc sĩ luật học“Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự

Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mạnh Toàn (Viện Nhà nước và pháp luật, 1999).
Trong luận văn của mình, theo tác giả, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là chủ thể
của quyền được suy đốn vơ tội. Nội dung của suy đốn vơ tội gồm: (i) Xã hội, Nhà
nước khơng được đối xử với những người bị buộc tội như những người có tội và
buộc họ phải chịu hình phạt, ngược lại phải coi họ như một cơng dân bình thường
khác, tức là mọi quyền lợi của họ phải được bảo đảm thực hiện, không tước bỏ các
quyền tự do, quyền dân chủ và các quyền khác mà pháp luật đã ban cho họ; (ii) Quá
trình chứng minh tội phạm phải là quá trình do luật định và các hành vi, hoạt động
chứng minh đó phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, triệt để theo quy định của
pháp luật; (iii) Trong quá trình buộc tội thì các bảo đảm cho quyền bào chữa của
người bị buộc tội được thực hiện, bảo đảm nguyên tắc truy cứu trách nhiệm trên cơ
sở lỗi, bảo đảm sự bình đẳng cho các bên trong quá trình buộc tội và bào chữa [78,
tr.12]. Tác giả đã nêu rất chi tiết về các nội dung của nguyên tắc suy đốn vơ tội,
tuy nhiên các nội dung này vẫn chưa thực sự đầy đủ và chưa có những đánh giá
chuyên sâu.
Luận án tiến sĩ luật học “Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thành Long tại tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội năm 2010. Đây là cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện nhất

10


về nguyên tắc này. Tác giả đưa ra khái niệm: Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật
tố tụng hình sự là những tư tưởng chủ đạo, cơ bản mang tính xuất phát điểm, bảo
đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khơng bị coi là có tội khi lỗi của họ chưa được
cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
và chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật [39, tr.33]. Cũng theo
tác giả, ngun tắc suy đốn vơ tội gồm bốn nội dung: (i) Người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo được suy đốn vơ tội cho đến khi có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật; (ii) Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố

tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh
là mình vơ tội; (iii) Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu
không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định thì
phải được giải thích có lợi cho họ; (iv) Bản án kết tội của Tịa án khơng được dựa
trên những giả định [39, tr.41, 51, 59, 65]. Tác giả cũng tập trung làm rõ sự thể hiện
của nguyên tắc này qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, xét xử sơ thẩm và xét xử
phúc thẩm. Bằng việc tác giả phân tích các quy định của pháp luật về căn cứ ra
quyết định đình chỉ vụ án, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quy định về giới
hạn xét xử, thẩm quyền xét xử… đã cho thấy suy đốn vơ tội là một nguyên tắc rất
quan trọng, cần được cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ trong suốt quá trình giải
quyết vụ án. Cuốn sách được xuất bản năm 2011, do đó, những kết luận mà tác giả
đưa ra là dựa trên nghiên cứu của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đến thời điểm
hiện tại, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, những nội dung này đều đã có những sự thay đổi nhất định.
Luận văn thạc sĩ luật học “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam” của tác giả Lâm Anh Tuấn tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2016. Đây là cơng trình nghiên cứu về ngun tắc suy đốn vơ tội có cập nhật
đầy đủ những quan điểm mới và quy định mới về vấn đề này được thể hiện trong
Hiến pháp 2013 cũng như Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trong cơng trình của
mình tác giả cũng đưa ra quan điểm về nguyên tắc suy đốn vơ tội như sau: Ngun
tắc suy đốn vô tội là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
theo đó một người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi tội phạm của họ
được chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã

11


có hiệu lực pháp luật. Ngồi ra tác giả cịn đưa ra quan điểm ucar mình về nội dung
của nguyên tắc suy đốn vơ tội, cũng như ý nghĩa của nguyên tắc này đặc biệt là
trong việc bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân trong tố tụng hình sự.

Luận văn thạc sĩ “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự Việt
Nam” của tác giả Phạm Nguyễn Việt Cường, tại Học viện khoa học xã hội năm
2019. Trong luận văn của mình, tác giả đưa ra phân tích về khái niệm, đặc điểm của
suy đốn vơ tội cũng như ngun tắc suy đốn vơ tội, đồng thời phân tích nội dung
thể hiện của ngun tắc suy đốn vơ tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Một nội dung đặc sắc của luận văn này đó là tác giả đưa ra phân tích về mối quan
hệ của ngun tắc suy đốn vơ tội với các ngun tắc khác trong tố tụng hình sự
Việt Nam như nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc xác định sự
thật của vụ án hình sự…
Luận văn thạc sĩ luật học “Bảo đảm ngun tắc suy đốn vơ tội trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Văn Phúc, tại
Học viện Khoa học xã hội năm 2020. Trong luận văn này, tác giả phân tích một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong
một giai đoạn tố tụng cụ thể là giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Theo đó, tác
giả cho rằng khái niệm bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là Việc Tịa án và những người có thẩm quyền ở
cấp xét xử lần đầu vụ án hình sự có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật và tạo các điều kiện cần thiết để bảo đảm cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo không bị coi là có tội cho đến khi có Bản án kết tội của Tòa án. Đồng
thời tác giả cũng đưa ra phân tích về nội dung của bảo đảm ngun tắc suy đốn vơ
tội gồm có: bảo đảm người bị buộc tội được suy đốn vơ tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án có hiệu lực pháp
luật; bảo đảm trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng,
người bị buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh mình vơ tội; bảo
đảm mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm đối với người bị buộc tôi,
nếu không bị loại trừ theo trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định thì
phải được giải thích có lợi cho họ; bảo đảm bản án kết tội của tịa án khơng được
dựa trên những giả định…

12



* Nhóm các cơng trình là các giáo trình, sách chuyên khảo:
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của “Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội năm 2018, trong giáo trình này, nội dung về
chương 3 thể hiện về các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam, trong đó
có phân tích một cách khái quát nhất về nguyên tắc suy đốn vơ tội và sự thể hiện
của ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, của Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2019, trong đó giáo trình dành 01
chương phân tích về hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam
trong đó có ngun tắc suy đốn vơ tội. Đồng thời đưa ra phân tích về sự thể hiện
của nguyên tắc suy đốn vơ tội trong hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam.
Sách chuyên khảo“Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt
Nam” của các tác giả Hồng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (Nxb. Công an nhân dân,
1999) tập trung làm sáng tỏ nội dung của các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình
sự, trong đó có ngun tắc suy đốn vơ tội. Theo các tác giả, ngun tắc suy đốn
vơ tội là một bước tiến trong nhận thức của lồi người theo hướng tơn trọng và bảo
đảm quyền con người trong tố tụng hình sự [83. tr.76]. Các tác giả đã khẳng định ý
nghĩa của nguyên tắc này trong tố tụng hình sự, nêu lên những nội dung của nguyên
tắc, khẳng định nguyên tắc suy đoán vơ tội “là ngun tắc mang tính định hướng
cho tồn bộ q trình tố tụng hình sự. Nó khơng chỉ khẳng định quyền phán quyết
cuối cùng về sự có tội hay khơng có tội của cơng dân là thuộc thẩm quyền của tịa
án mà nó cịn xác định thái độ cần phải có của các chủ thể tiến hành tố tụng ở tất cả
các giai đoạn tố tụng hình sự”. Ngồi phần khái niệm chung, cuốn sách trình bày về
mười nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, do đó ngun tắc suy đốn vơ tội
chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện.
Ngay sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được thơng qua, tác giả
Nguyễn Hịa Bình cùng tập thể tác giả đã cho ra đời cuốn “Những điểm mới trong
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” (Nxb. Chính trị quốc gia, 2016). Cuốn sách tập

trung phân tích, làm rõ những điểm mới, tiến bộ của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, trong đó có sự thay đổi mạnh mẽ về cách nhìn nhận đối với các nguyên tắc
trong tố tụng hình sự. Trong cuốn sách, GS.TSKH. Đào Trí Úc đã thực hiện chuyên

13


đề “Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015”. Tác giả trình bày về nội dung của các ngun tắc trong
tố tụng hình sự, trong đó nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội được tác giả phân
tích trên cơ sở quy định của Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khẳng định,
ngun tắc suy đốn vơ tội có địa chỉ là người bị buộc tội và sự suy đoán được đặt ra
theo hướng suy diễn về sự vô tội mà khơng phải là suy diễn về sự có tội [2. Tr.72].
* Nhóm các cơng trình là các kỷ yếu hội thảo khoa học, bài viết trên tạp chí:
Năm 2016, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học với
chủ đề “Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, tác giả Nguyễn
Văn Tuân đã đóng góp cho hội thảo chuyên đề “Những nguyên tắc cơ bản trong Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015” và có những phân tích khá cụ thể về nội dung của
ngun tắc suy đốn vơ tội.
Vẫn là nghiên cứu về ngun tắc suy đốn vơ tội, nhưng PGS.TS.LS. Phạm
Hồng Hải lại tiếp cận dưới góc độ hẹp hơn, bài viết “Ngun tắc suy đốn vơ tội
dưới góc độ chứng minh trong vụ án hình sự ở Việt Nam” đã thể hiện mối quan hệ
giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh vụ án, đồng
thời cũng nêu ra các nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội. Ngồi ra, cịn có một
số bài viết về vấn đề này như: bài viết “Có cần ghi nhận ngun tắc suy đốn vơ
tội” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 12/2011; bài
viết “Bàn về nguyên tắc suy đốn vơ tội” của tác giả Hồng Huyền Trang đăng trên
Tạp chí Nghề luật số 4/2014; bài viết “Bên tách trà xn ngẫm về ngun tắc suy
đốn vơ tội” của tác giả Nguyễn Minh Tâm đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
số 1/2014; bài viết “Một số ý kiến về ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng

hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh Thế Hưng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số
3/2010; bài viết “Bàn thêm về việc có nên ghi nhận nguyên tắc suy đốn vơ tội” của
tác giả Ngơ Cường đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 18/2011, bài viết “Ngun
tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Mạnh
Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 15/2012; bài viết “Nguyên tắc suy đốn vơ tội”
của tác giả Nguyễn Thái Phúc đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2016;
bài viết “Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc xác định sự

14


thật của vụ án” của tác giả Nguyễn Duy Dũng đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 12/2015.
Ngồi ra cịn có thể kể đến bài viết “Sự thể hiện của ngun tắc suy đốn vơ
tội trong chế định về xét xử của luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh
Thế Hưng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2010; bài viết “Quy định ngun
tắc suy đốn khơng phạm tội để bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội” của
tác giả Nguyễn Quang Hiền đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 13/2010; bài
viết “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong Hiến pháp năm 2013” của tác giả Phạm
Hồng Phong đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3/2014; bài viết “Sự thể hiện
ngun tắc suy đốn vơ tội trong chế định chứng minh và chứng cứ của luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh Thế Hưng đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 10/2008; bài viết “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự” của tác
giả Vũ Gia Lâm đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2014; bài viết “Nguyên tắc suy
đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí đăng
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2011; bài viết “Hiến pháp năm 2013 với
ngun tắc suy đốn vơ tội và trách nhiệm triển khai thi hành của ngành Kiểm sát
nhân dân” của tác giả Nguyễn Văn Quảng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2014.
Các cơng trình nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự về ngun tắc suy đốn vơ tội
khơng có nhiều và cũng chưa phân tích được hết quy định của pháp luật về bảo đảm

thực hiện nguyên tắc này trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự.
Những cơng trình nghiên cứu kể trên đã làm rõ được một số vấn đề có tính
chất lý luận về ngun tắc suy đốn vơ tội như chủ thể, nội dung và ý nghĩa. Nghiên
cứu sinh sẽ tiếp thu những vấn đề đã được làm sáng tỏ và thừa nhận rộng rãi, đồng
thời cũng tiếp tục phát triển, nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề lý luận về
ngun tắc suy đốn vơ tội mà các cơng trình trước đó chưa làm được.
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu về thực tiễn bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đoán vơ tội
Ngồi nghiên cứu vấn đề lý luận về ngun tắc suy đốn vơ tội cũng như bảo
đảm ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, cũng có nhiều
cơng trình nghiên cứu về thực tiễn bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội
trong tố tụng hình sự. Có thể kể đến như:

15


* Nhóm các cơng trình là các luận án, luận văn thạc sĩ luật học:
Trong luận án tiến sĩ luật học “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thành Long tại Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội năm 2010, tác giả đã nêu thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đốn vơ tội trong
các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Tác giả căn cứ vào số người bị tạm giữ, số người
bị khởi tố bị can, số bị can bị truy tố, số bị can được Viện kiểm sát đình chỉ vì khơng có
tội, số bị cáo bị đưa ra xét xử, số bị cáo được tuyên không phạm tội… để đánh giá việc
thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trên thực tế. Tác giả đã chỉ ra những kết quả đã
đạt được và những tồn tại, hạn chế, đồng thời, nêu hai nguyên nhân chính dẫn đến
những hạn chế là về mặt nhận thức và quy định của pháp luật.
Trong luận văn thạc sĩ luật học “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lâm Anh Tuấn tại Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2016 tác giả đã phân tích một số vấn đề về thực tiễn áp dụng
ngun tắc suy đốn vơ tội thơng qua phân tích tỷ lệ người bị bắt, tạm giữ khơng đủ

căn cứ khởi tố hình sự, thực trạng vấn đề mớm cung, dùng nhục hình đối với bị can
bị cáo ở Việt Nam cũng như bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng còn nhiều
hạn chế những nội dung này đều được tác giả đưa ra các số liệu để luận giải minh
chứng một cách đầy đủ.
Trong luận văn thạc sĩ “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam” của tác giả Phạm Nguyễn Việt Cường, tại Học viện khoa học xã hội năm
2019 tác giả đưa ra nhận xét về thực tiễn áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội ở Việt
Nam như sau: Ngun tắc suy đốn vơ tội ra đời đã khắc phục được những tồn tại,
thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Các cơ quan THTT mà trước hết
là cơ quan điều tra Công an các cấp đã có rất nhiều nỗ lực, phát hiện, khởi tố, điều
tra theo quy định của pháp luật, đặc biệt là thực hiện nghiêm các quy định của pháp
luật trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn; tích cực chấn chỉnh khắc phục tồn tại,
thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. VKS cũng kiểm sát chặt chẽ hơn
việc phê chuẩn các quyết định bắt người, khởi tố, truy tố. Tòa án nhân dân đã chú
trọng hơn trong công tác xét xử, bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tịa. Nhờ đó
tình hình oan, sai đã giảm so với trước đây, chỉ xảy ra một vài vụ án oan, còn án sai
cũng chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Đồng thời tác giả luận văn này cũng đưa ra một số phân

16


tích về các biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy đốn vơ tội trong q trình giải quyết
vụ án hình sự trong một số năm vừa qua.
Luận văn thạc sĩ luật học “Bảo đảm ngun tắc suy đốn vơ tội trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Văn Phúc, tại
Học viện Khoa học xã hội năm 2020. Trong luận văn này, tác giả cũng đã đưa ra
phân tích về nội dung liên quan đến thực tiễn bảo đảm nguyên tắc suy đốn vơ tội
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tỉnh Bắc Ninh. Lựa chọn địa bàn một tỉnh để
giải quyết vấn đề thực tiễn, tác giả luận văn này cũng đã đánh giá tổng thể về việc
thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong xét xử vụ án hình sự của Tịa án nhân

dân 2 cấp tỉnh Bắc Ninh, từ đó xác định được những hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân của vấn đề.
Trong Luận án Thạc sĩ luật học “Nguyên tắc suy đoán vơ tội trong tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mạnh Toàn, tác giả đề xuất các bảo đảm cho
ngun tắc suy đốn vơ tội gồm đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội, xét
xử công khai, bảo đảm quyền bình đẳng trước Tịa án.
* Các cơng trình nghiên cứu là các sách chun khảo:
Một số cuốn sách chuyên khảo cũng nghiên cứu về việc bảo đảm thực hiện
ngun tắc suy đốn vơ tội và mang tính định hướng cho tồn bộ q trình tố tụng
như: Cuốn “Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Tiến
Châu (Nxb. Tư pháp năm 2009). Tác giả tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý
luận và thực tiễn thực hiện chức năng xét xử và khẳng định, chức năng xét xử là
những định hướng lớn trong lĩnh vực tố tụng hình sự nhằm phân định các hoạt động
tố tụng của chủ thể có thẩm quyền khi xem xét và làm rõ các tình tiết khách quan
của vụ án, đánh giá hành vi có phạm tội hay khơng và ra bản án đối với người có
hành vi phạm tội [7, tr.41].
Nội dung của chức năng xét xử chính là việc ra phán quyết của Tòa án nhằm
kết tội đối với một người, việc kết tội chỉ diễn ra khi có đủ căn cứ cho thấy người đó
đã thực hiện một tội phạm, cịn khơng sẽ phải tun họ khơng có tội, chính là áp
dụng ngun tắc suy đốn vơ tội đối với người đó. Cuốn “Độc lập xét xử trong nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam” của tác giả Lưu Tiến Dũng (Nxb. Tư pháp năm
2012) thể hiện tư tưởng chỉ khi việc xét xử của Tịa án thực sự độc lập, khơng bị

17


phụ thuộc vào bất cứ cơ quan, tổ chức hay chủ thể, văn bản nào thì mới bảo đảm
tính chính xác, khách quan. Cuốn “Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Văn Tuân (Nxb. Tư pháp năm 2015) trình bày một số vấn đề cơ
bản nhất của tố tụng hình sự như nguyên tắc tố tụng hình sự, chủ thể, thủ tục tố tụng

hình sự và quyền con người trong tố tụng hình sự. Tác giả khẳng định ngun tắc
suy đốn vơ tội là một nguyên tắc dân chủ trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm tự
do và bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, bảo vệ cho cơng dân khơng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự vơ căn cứ, bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền
bào chữa. Chỉ có bằng bản án của Tịa án được quyết định phù hợp với các quy định
của luật, người bị buộc tội mới có thể coi là có tội trong việc thực hiện tội phạm
cũng như chịu hình phạt [82, tr.33]. Đặc biệt, tác giả cuốn sách cịn nghiên cứu về
vấn đề oan trong tố tụng hình sự - hệ quả tất yếu của việc không bảo đảm thực hiện
ngun tắc suy đốn vơ tội. “Một người bị oan trước hết họ là người vô tội và lâm
vào “vòng tố tụng” do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng [82,
tr.287], họ phải được Nhà nước bồi thường một cách thỏa đáng. Từ đó tác giả cũng
nêu định hướng cho việc giải quyết vụ án hình sự trên thực tế và việc bảo đảm thực
hiện ngun tắc suy đốn vơ tội.
* Các cơng trình là các bài viết trên tạp chí chuyên ngành luật:
Bài viết: “Thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong quy định về đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Vũ Gia Lâm
đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 12/2016, bài viết “Về cơ chế thực thi nguyên tắc suy
đốn vơ tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015” của tác giả Nguyễn Tất Thành đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 5/2016.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến một số bài viết cũng đề cập đến vấn đề này
như: bài viết “Những đảm bảo cho việc thực hiện quyền suy đốn vơ tội ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Phạm Văn Tỉnh; bài viết “Đảm bảo ngun tắc suy đốn vơ
tội trong giai đoạn xét xử của tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Đinh Thế
Hưng; bài viết “Quyền bào chữa và vai trị của luật sư bảo đảm ngun tắc suy
đốn vơ tội” của tác giả Đỗ Ngọc Thịnh; bài viết “Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự
đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp xây dựng nền tư pháp công bằng, nhân đạo, dân
chủ, nghiêm minh, trách nhiệm trước nhân dân” của tác giả Nguyễn Hịa Bình đăng

18



trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2014; bài viết “Cần hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo ngun tắc suy đốn vô tội ở giai đoạn
điều tra” của tác giả Phạm Văn Tuấn, Trần Xuân Thảo đăng trên Tạp chí Kiểm sát
số 21/2014; bài viết “Ngun tắc suy đốn vơ tội và một số kiến nghị sửa đổi, bổ
sung Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Ngọc Hịa đăng trên Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật số 7/2014; bài viết “Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vơ tội
và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự”
của tác giả Trịnh Việt Tiến đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2013; bài
viết “Hoàn thiện một số nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm
thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội” của tác giả Huỳnh Trung Trực đăng trên Tạp
chí Dân chủ và pháp luật số 8/2015.
1.1.3. Nhóm cơng trình nghiên cứu về giải pháp bảo đảm thực hiện
ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự là mối quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, vấn đề này đã được cơng bố trong một số cơng trình như sau:
* Nhóm các cơng trình là các luận án, luận văn thạc sĩ luật học:
Luận án tiến sĩ luật học “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam”, tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010, trong cơng
trình này ngồi những vấn đề lý luận thì tác giả cịn đề xuất những giải pháp nhằm
bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội. Các đề xuất của tác giả như: hồn
thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về ngun tắc suy đốn vơ tội trong đó
có việc ghi nhận đầy đủ và chính xác tên gọi và nội dung của ngun tắc suy đốn
vơ tội, cũng như sửa đổi các quy định về thủ tục tố tụng để thực hiện tốt hơn ngun
tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên do đã cơng bố từ năm 2010
trong bối cảnh hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam vẫn cịn áp dụng Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 do đó những đề xuất này khơng cịn mang tính thời sự, cũng như
cũng có những đề xuất đã được bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Ngồi ra tác giả cịn đề xuất các giải pháp về tổ chức thực hiện để thực hiện tốt hơn

ngun tắc suy đốn vơ tội trong giải quyết vụ án hình sự.

19


×