Tải bản đầy đủ (.docx) (155 trang)

BÀI GIẢNG PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH dạy học bộ môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.26 KB, 155 trang )

Mục lục
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO
DỤC MẦM NON
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về chương trình giáo dục
1.1.2. Giới thuyết về chương trình giáo dục mầm non

1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.
1.2.5.

1.2. PHÂN LOẠI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON
Chương trình khung
Chương trình được tổ chức theo mơn học
Chương trình được tổ chức theo các chủ đề
Chương trình được tổ chức theo các sự kiện
Chương trình được tổ chức theo các hoạt động
1.3. CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON QUA CÁC THỜI KÌ
1.3.1. Chương trình giáo dục mầm non giai đọan từ năm 1976-1986

1.3.2. Chương trình giáo dục mầm non giai đoạn từ năm 1987 đến đầu thập kỉ 90
1.3.3. Chương trình giáo dục mầm non giai đoạn từ 1995 đến 2002
1.3.4. Chương trình giáo dục mầm non giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2016
1.3.5. Chương trình giáo dục mầm non giai đoạn từ năm 2016 đến nay.

CHƯƠNG II. PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM
NON
2.1. Khái niệm phát triển chương trình giáo dục mầm non
2.2. Sự cần thiết của việc phát triển chương trình giáo dục mầm



non
2.2.1. Phát triển chương trình giáo dục mầm non nhằm thực hiện

chủ trương đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo
nói chung và giáo dục mầm non nói riêng của Đảng và Nhà
nước.
2.2.2. Phát triển chương trình giáo dục mầm non phù hợp với sự đổi mới chương
trình giáo dục ở các cấp học.
2.2.3. Phát triển chương trình giáo dục mầm non nhằm khắc phục những hạn chế,
bất cập của chương trình giáo dục mầm non hiện hành.
2.2.4. Phát triển chương trình giáo dục mầm non cho phù hợp với

Trang
3
3
3
6
9
9
9
10
10
11
12
12
13
15
17
22

25
25
28
28

29
29
29

những thay đổi của trẻ em thời hiện đại.
1


2.2.5. Phát triển chương trình giáo dục mầm non phù hợp với xu hướng đổi mới
giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng trên thế giới và trong
nước
2.3. NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC

30

30

MẦM NON
2.3.1. Nguyên tắc 1: Phát triển chương trình giáo dục mầm non

31

phải đảm bảo thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non.
2.3.2. Nguyên tắc 2: Phát triển chương trình giáo dục mầm non


32

phải đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn.
2.3.3. Nguyên tắc 3: Phát triển chương trình giáo dục mầm non

33

phải đảm bảo sự phát triển của trẻ.
2.3.4. Nguyên tắc 4: Phát triển chương trình giáo dục mầm non

34

phải đảm bảo tính tồn diện
2.3.5. Ngun tắc 5: Phát triển chương trình giáo dục mầm non cần

35

đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình- nhà trường và
cộng đồng.
2.3.6. Nguyên tắc 6: Phát triển chương trình giáo dục mầm non
2.4.

phải đảm bảo tính pháp chế.
Nội dung phát triển chương trình giáo dục mầm non
2.4.1. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm

37
37
37


non.
2.4.2. Tổ chức các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề cho trẻ

ở trường mầm non.
2.4.3. Xây dựng trường mầm non thành cộng đồng học tập nhằm phát triển chương
trình giáo dục mầm non.
2.5. Quy trình phát triển chương trình giáo dục mầm non

CHƯƠNG III: THỰC HÀNH CÁC HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN
CHƯƠNG TRÌNH DẠY HỌC BỘ MÔN
NỘI DUNG 1: THỰC HÀNH CHƯƠNG 1
Hoạt động 1: Thực hành tìm hiểu, phân tích những vấn đề chung về
chương trình giáo dục mầm non.
Hoạt động 2: Thực hành phân tích chương trình giáo dục mầm non qua
các thời kì, những điểm mạnh và yếu của chương trình giáo dục mầm non.

52
69
85
91
91
91
92

2


NỘI DUNG 2: THỰC HÀNH CHƯƠNG 2
Hoạt động 1: Thực hành lập các loại kế hoạch, tổ chức hoạt động giáo
dục theo chủ đề.

Hoạt động 2: Thực hành xây dựng nhà trường thành thành cộng đồng học
tập qua 3 nội dung: xây dựng mối quan hệ trẻ- trẻ, giữa đồng nghiệp với
đồng nghiệp, công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và cộng đồng.

PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO

94
94
98
106
151

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON

1.1. KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về chương trình giáo dục
Quá trình giáo dục bao gồm nhiều thành tố cấu thành, trong đó chương trình
giáo dục đóng vai trị then chốt, quan trọng. Khái niệm chương trình giáo dục xuất
hiện từ rất sớm, được phổ biến từ những năm 20 của thế kỉ XIX và sử dụng rộng rãi,
chuyên nghiệp với tư cách là một thuật ngữ chuyên ngành tại Hoa Kì, một số nước
có nền giáo dục phát triển giữa thế kỉ XX.
Chương trình giáo dục (Curriculum) có gốc Latinh là Currere, có nghĩa là “to
run” (chạy, điều hành) hoặc diễn giải thành “to run a course” - điều hành một khoá
học). Cùng từ cách định nghĩa này, chương trình giáo dục thường được đề cập đến là
“một khố học” (Course of Study). Khái niệm chương trình hay chương trình giáo
dục qua quá trình phát triển thường được nhận hiểu là một khoá học, một nội dung
quyết định thực hiện một khố học. Theo cách hiểu này, chương trình giáo dục gồm
một số đặc điểm như:

i) Chương trình giáo dục bao gồm các môn học thường xuyên như ngữ pháp,
đọc, hùng biện, logic, toán học (cho các trường tiểu học và trung học) và những môn
học tinh tuý nhất của thế giới phương Tây (bắt đầu đưa vào từ cấp trung học);
ii) Chương trình giáo dục gồm các mơn học chủ yếu trong 5 lĩnh vực lớn như:
Tiếng mẹ đẻ và ngữ pháp, văn chương và viết; 2Toán học; 3Các môn khoa học; 4Lịch
sử; 5Ngoại ngữ;
1

3


iii) Chương trình giáo dục gồm tồn bộ kiến thức của các môn học. Giáo dục
được xem như một quá trình nhằm giúp người học nắm bắt các nội dung kiến thức
cấu tạo nên các mơn học.
iv) Chương trình giáo dục là một hệ thống các khố học hay mơn học cần phải có
để được tốt nghiệp hoặc được cấp chứng nhận đã học xong một ngành học.
Bên cạnh đó, từ những điểm nhìn khác nhau, các nhà khoa học cũng đề cập đến
những cách hiểu, cách tiếp cận về chương trình khác nhau. Cụ thể:
 Chương trình là một tập hợp các mơn học
 Chương trình là một tập hợp các nội dung/các tài liệu
 Chương trình là một trình tự các khoa học
 Chương trình là tất cả những gì xảy ra trong nhà trường bao gồm cả các hoạt
động ngoại khoá, sự giảng dạy và các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau
 Chương trình là những gì được giảng dạy trong và ngồi nhà trường, do nhà
trường định hướng
 Chương trình là chuỗi kinh nghiệm mà người học đã trải qua trong nhà trường
(hay có được dưới sự dẫn dắt của nhà trường) nhằm giúp tăng cường tính kỉ luật,
phát triển năng lực tư duy và hành động
 Chương trình là những gì mà từng cá nhân người học thu nhận được do kết
quả của việc học tập trong nhà trường

Cùng với yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhiều mơn học mới được đưa
thêm vào chương trình giáo dục dẫn đến những chuyển biến trong nội hàm khái niệm
chương trình. Các chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế chương trình giáo dục bắt đầu
phân loại chương trình giáo dục thành các nhóm/loại khác nhau: chương trình tổng
thể, chương trình mơn học, chương trình đặc thù/chun biệt các ngành hoặc phân
ngành... Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng chương trình có tính phát triển liên tục
cùng với q trình phát triển của quá trình giáo dục trên cơ sở những chuyển biến
của bối cảnh văn hoá, kinh tế, xã hội. Điều này được thể hiện rõ nét qua các giai
đoạn khác nhau ngay trong cách thức nhận hiểu, định nghĩa về chương trình. Cụ thể
là, giữa những năm 50 của thế kỉ XX, ảnh hưởng của xã hội tới nhà trường ngày
càng rõ nét. Người học từ những định hướng của chương trình giáo dục sẽ khơng chỉ
học những gì có trong trường học mà cịn với kĩ năng được trang bị, nỗ lực tiếp nhận
nhiều kinh nghiệm phong phú trong đời sống. Định nghĩa về chương trình giáo dục
do vậy được mở rộng, không quan niệm đơn thuần là những nội dung được hoàn bị
trong nhà trường mà là tất cả các hoạt động học tập được kế hoạch hố bởi trường
học nhằm đạt được những mục đích của giáo dục. Các chuyên gia xây dựng và phát
4


triển chương trình giáo dục cũng cho rằng cần tiếp nhận chương trình với tư cách là
một kế hoạch nhằm cung cấp những cơ hội học tập để đạt được những mục đích,
mục tiêu cụ thể cho một nhóm đối tượng ở một nhà trường nào đó. Giai đoạn từ
những năm 60 của thế kỉ XX, các nhà giáo dục chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả của
chương trình. Chương trình giáo dục khơng chỉ lưu ý đến những gì người học phải
làm trong q trình học tập mà cịn là những gì họ sẽ học được từ những việc làm đó.
Hơn thế nữa, chương trình giáo dục là những hoạt động học tập được hoạch định và
chỉ đạo bởi nhà trường nhằm giúp người học phát triển năng lực cá nhân và xã hội
một cách liên tục.
Từ những năm 90 và đến giai đoạn khởi đầu của thế kỉ XXI, những quan niệm về
chương trình giáo dục có sự thay đổi to lớn, ghi nhận nhiều các quan điểm, tư tưởng

về chương trình với những cấp độ, bình diện khác nhau. Có thể dẫn ra một số định
nghĩa cụ thể như sau:
1

William Doll Jr. (1993) cho rằng một hệ thống giáo dục theo trình tự tuyến tính
và định lượng như hiện nay sẽ nhường chỗ cho một hệ thống giáo dục đa dạng và
phức tạp hơn, ít có tính ổn định hơn. Một hệ thống như vậy, như chính cuộc sống, sẽ
luôn vận động, thay đổi và tất yếu dẫn đến sự linh hoạt, phát triển của của chương
trình giáo dục.
2

K.Frey nêu định nghĩa: “Chương trình giáo dục là sự trình bày, diễn tả có hệ
thống việc dạy học được dự kiến trong một khoảng thời gian xác định mà sản phẩm
của sự trình bày đó là một hệ thống xác định các thành tố khác nhau nhằm chuẩn bị,
thực hiện và đánh giá một cách tối ưu việc dạy học”.
3

Carter V. Good trong “Từ điển Giáo dục” khẳng định: “Chương trình giáo dục là
một nhóm có hệ thống các khố học hoặc trình tự các mơn học địi hỏi sự tốt nghiệp
hay chứng nhận trong một lĩnh vực học tập”.
4

Franklin Bobbit cho rằng: “Hiểu chương trình như chuỗi những điều mà thanh
thiếu niên phải thực hiện và trải qua bằng cách triển khai các khả năng giải quyết tốt
các vấn đề mà họ sẽ phải ứng xử khi trưởng thành”.
5

Hollis L. Caswell và Doak S. Campbell coi chương trình là tất cả các kinh
nghiệm mà trẻ em có được dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
6


J. Gaylen Saylor, William M. Alexander, Arthur J. Lewis đưa ra định nghĩa:
“Chương trình giáo dục là một bản kế hoạch nhằm cung cấp tập hợp các cơ hội học
tập cho mọi người để họ được thụ hưởng nền giáo dục đó”.
[1-6dẫn theo tài liệu “Xây dựng chương trình học” (Developing the Curriculum),
Nguyễn Kim Dung dịch, NXB Giáo dục, 2006]

5


7

Tim Weling nhấn mạnh: “Chương trình là một bản thiết kế tổng thể cho một
hoạt động đào tạo. Hoạt động đó có thể chỉ là một khố đào tạo kéo dài một vài giờ,
một tuần hoặc vài năm. Bản thiết kế tổng thể đó cho ta biết tồn bộ nội dung cần đào
tạo, chỉ rõ ra những gì ta có thể trơng đợi ở người học sau khố học; nó phác hoạ ra
quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, đồng thời cho biết các phương
pháp đào tạo và cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó
được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ”.
[7dẫn theo Phạm Văn Lập, “Giáo dục học đại học, NXB Giáo dục, 2000, tr.34]
Định nghĩa của Weling (1993) được các nhà nghiên cứu tán đồng bởi sự nhìn
nhận đa diện về chương trình giáo dục từ cả góc độ chức năng, vị trí (bản thiết kế
tổng thể cho một hoạt động đào tạo) lẫn những quy ước về thời gian, nội dung, quy
trình, phương pháp đào tạo và kiểm tra đánh giá. Đặc biệt, khi chuẩn đầu ra - kết quả
mong đợi của nhà sư phạm với người học được thể hiện như một trong những yếu tố
cơ bản của chương trình, định nghĩa này được xem là tiêu biểu cho quan điểm phát
triển giáo dục hiện đại.
Cho đến nay, xuất phát từ những bình diện tiếp nhận khác nhau tương ứng với
những nghiên cứu khác nhau, vẫn tồn tại nhiều định nghĩa với những nét khu biệt về
chương trình giáo dục. “Từ điển bách khoa quốc tế về giáo dục” (Oxfofd) cũng

thống kê và ghi nhận 9 định nghĩa về chương trình giáo dục; trong khi nhà nghiên
cứu Reisse tổng hợp tới 27 định nghĩa chia thành 3 nhóm khác nhau. Điểm gặp gỡ
của các định nghĩa từ các khảo cứu nói trên là chương trình giáo dục được đặt trong
bối cảnh những tác động của văn hoá, kinh tế, xã hội với các bước tiến khổng lồ về
khoa học kĩ thuật và công nghệ; đồng thời được xem là tập hợp mục tiêu và giá trị có
thể được hình thành ở người học thông qua các hoạt động được kế hoạch hoá và tổ
chức trong nhà trường, gắn liền với đời sống. Mức độ đáp ứng các mục tiêu thể hiện
tính hiệu quả của một chương trình giáo dục. Bên cạnh đó, chương trình giáo dục
cũng được nhìn nhận theo quan điểm cấu trúc. Theo đó, đa số các nhà khoa học đều
thống nhất cho rằng chương trình giáo dục là một phức hợp các thành tố cấu thành:
mục tiêu học tập, phạm vi, mức độ và nội dung học tập, các phương pháp, hình thức
tổ chức học tập và đánh giá kết quả học tập. Cũng từ những khảo cứu lí luận nói
trên, có thể khẳng định rằng, chương trình giáo dục là một khái niệm động, ngày
càng được mở rộng, phát triển trên cơ sở bối cảnh văn hoá, kinh tế, xã hội và những
yêu cầu cấp thiết đổi mới giáo dục. Về cấu trúc tổng thể, một chương trình giáo dục
bao gồm hai thành phần chính: (1) sự hình dung trước những thành tựu mà người
học sẽ đạt được sau một thời gian học tập; (2) cách thức, phương tiện, con đường,
điều kiện để kết quả mong đợi đó trở thành hiện thực. Về nội dung, chương trình
giáo dục là kế hoạch tổng thể, hệ thống hoạt động giáo dục tại nhà trường. Thơng
thường, chương trình giáo dục sẽ được cụ thể hố, tường minh thơng qua các nhân
tố: i) mục đích/mục tiêu giáo dục; ii) chuẩn đầu ra; iii) nội dung giáo dục (với độ
rộng và sâu tương ứng với chuẩn đầu ra); iv) phương thức giáo dục và hình thức tổ
chức giáo dục (với các phương pháp, phương tiện, công cụ dạy học phù hợp),; v)
6


phương thức đánh giá kết quả giáo dục (trong sự so sánh, đối chiếu với chuẩn đầu ra
của chương trình).
1.1.2. Giới thuyết về chương trình giáo dục mầm non
Cũng như quan niệm về chương trình giáo dục, khái niệm chương trình giáo dục

mầm non có sự thay đổi theo thời gian, đi cùng với sự phát triển của văn hoá và đời
sống xã hội. Chương trình giáo dục mầm non phản ánh q trình xã hội hố đứa trẻ,
phản ánh sự tích luỹ kinh nghiệm sống thơng qua chế độ sinh hoạt hàng ngày, thông
qua các hoạt động, thông qua các kinh nghiệm giao tiếp và thực tế theo kế hoạch đã
đề ra hoặc là phát sinh thêm. Chương trình giáo dục mầm non bao gồm mục tiêu
giáo dục, nội dung phương pháp và hình thức giáo dục trẻ, điều kiện thực hiện quá
trình, giáo dục trẻ và đánh giá q trình giáo dục đó.
Chương trình giáo dục trẻ là sự sống còn của nhà trường Mầm non trong hệ
thống giáo dục của một quốc gia. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu giáo dục đưa ra
định nghĩa về chương trình giáo dục mầm non trong đó có thể kể đến một số hướng
tiếp cận sau:
i) Hướng tiếp cận thứ nhất cho rằng chương trình giáo dục mầm non là tập hợp
những kiến thức, kĩ năng và giá trị mà trẻ cần phải học. Để trang bị cho trẻ, các nhà
giáo dục đã xây dựng một hệ thống các môn học, hoạt động như: Cho trẻ làm quen
với môi trường xung quanh, Làm quen tác phẩm văn học, Làm quen với tác phẩm
âm nhạc, mĩ thuật, thể dục, làm quen chữ cái... Đây là khuynh hướng tiếp cận
chương trình giáo dục từ góc độ nội dung.
ii) Hướng tiếp cận thứ hai được xem là phổ biến vào đầu thế kỉ XX, xem chương
trình giáo dục mầm non như kế hoạch dạy học theo dự tính, chú trọng các nhân tố
then chốt: Dạy ai? Dạy cái gì? Dạy lúc nào? Dạy như thế nào? Quan điểm này đề
cao vai trò của giáo viên với tư cách người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động giáo
dục trong nhà trường và do vậy thường bị cho là có chứa các tư tưởng sai lầm dẫn
đến mài mòn sự sáng tạo, chủ động hay tính tích cực của trẻ.
iii) Hướng tiếp cận thứ ba khẳng định rằng chương trình giáo dục mầm non được
xây dựng dựa trên tất cả các hoạt động giáo viên tác động lên trẻ trong lớp học và
các hoạt động diễn ra tự phát, khơng có trong kế hoạch nhưng lại tác động tích cực,
giúp trẻ phát triển. Phổ biến giữa thế kỉ XX, quan điểm này nhìn nhận chương trình
như một phức hợp các hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không loại trừ
các hoạt động nảy sinh do những đặc trưng riêng của từng nhóm trẻ, từng độ tuổi,
từng mơ hình sinh hoạt.

iv) Hướng tiếp cận thứ 4 được đề xuất vào cuối thế kỉ XX, trong đó trọng tâm
của chương trình giáo dục mầm non được dịch chuyển về kết quả sẽ đạt được. Các
giáo viên, các nhà trường có thể đi theo nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng từ
7


chương trình giáo dục chung (chương trình tổng thể, chương trình quốc gia) sẽ cần
thiết xây dựng hoạt động phù hợp với thực tiễn; đặc biệt, phù hợp với khả năng nhận
thức, nhu cầu, hứng thú của người học.
Suy cho cùng, các cơ sở giáo dục đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là nâng cao
hiệu quả, chất lượng dạy học, đảm bảo để trẻ có được những bước khởi đầu vững
chắc, cần thiết cho quá trình phát triển sau này. Vì thế, các nhà khoa học, các nhà sư
phạm luôn chú trọng cải thiện các phương thức, nguồn học liệu và các thành tố cấu
trúc quá trình giáo dục. Rõ ràng, chất lượng giáo dục mầm non chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố: chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ, trẻ, người giáo viên, các hoạt
động đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, mơi trường giáo dục, cơng tác tổ chức, quản lí
giáo dục, các chính sách phát triển dài hạn và thường niên, sự kết nối giữa nhà
trường - gia đình - xã hội... Trong hệ thống các nhân tố có mối quan hệ ràng buộc đó,
chương trình giáo dục mầm non đóng vai trị then chốt, khởi đầu, tác động trực tiếp
đến chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Cùng vì thế, các nhà nghiên cứu về giáo dục
mầm non ln nỗ lực tìm kiếm và xây dựng chương trình giáo dục trẻ nhằm đáp ứng
được mục tiêu giáo dục toàn diện, gia tăng cho trẻ khả năng hồ nhập vào cuộc sống
xã hội, hình thành những nhận hiểu sơ giản và kĩ năng nền tảng để chuẩn bị vào học
ở trường phổ thông.
Trong hệ thống giáo dục quốc gia, giáo dục mầm non giữ vị trí tiền đề, đảm bảo
cho giáo dục phổ thơng về sau vận hành một cách khoa học. Tuy nhiên, khác với
chương trình giáo dục phổ thơng về tính ổn định trong nội dung, chương trình giáo
dục mầm non mang đặc trưng của sự hồ quyện giữa tính ổn định tương đối - phần
được hoạch định chung cho trẻ ở một độ tuổi cụ thể và tính khơng ổn định hơn phần đề xuất phù hợp với từng vùng miền, từng cơ sở, từng đối tượng trẻ. Trong
chương trình giáo dục mầm non, chương trình khung là cơ sở cho cán bộ quản lí và

giáo viên hoạch định các chiến lược chủ chốt để giáo dục trẻ, từ đó biên soạn
chương trình chi tiết với độ linh hoạt riêng để tiến hành dạy trẻ ở các cơ sở, các địa
phương. Nói cách khác, chương trình giáo dục mầm non là kết quả của sự hợp tác
mang tính chiến lược, khoa học giữa các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí bậc học
mầm non và các giáo viên mầm non.
Về tính pháp lí, chương trình giáo dục mầm non là căn cứ để triển khai và chỉ
đạo cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non cả nước, đồng
thời là căn cứ để đào tạo bồi dưỡng giáo viên mầm non, tăng cường cơ sở vật chất và
đảm bảo các điều kiện thực hiện các hoạt động giáo dục mầm non đạt chất lượng
theo các quy chuẩn cụ thể. Một chương trình giáo dục khoa học, phù hợp lẽ tất nhiên
sẽ tạo ra hiệu quả, giúp trẻ phát triển về nhiều mặt: thể chất, trí tuệ, đời sống tinh
thần, các kĩ năng sống,... Mục tiêu cuối cùng của một chương trình giáo dục, trong
đó bao gồm chương trình giáo dục mầm non là hướng đến hình thành nhân cách cho
trẻ, tạo được bước chuyển linh hoạt, vững chắc để trẻ tiếp cận và từng ngày hồ nhập
tốt vào hệ thống giáo dục phổ thơng, vào cộng đồng.

8


Giữ vai trò khởi đầu, quan trọng và nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân,
giáo dục mầm non mang những đặc trưng riêng và do vậy, chương trình giáo dục cần
có sự hoạch định gắn với các tính chất có tính khu biệt này. Hơn thế nữa, mỗi lứa
tuổi mầm non lại cần đến một cách giáo dục phù hợp với thể chất, ngôn ngữ và nhận
thức trên cơ sở phơng nền văn hố ở mỗi khu vực, địa phương. Điều này dẫn đến
những thay đổi để hài hịa và mang lại hiệu quả cao trong chương trình giáo dục
mầm non. Trải qua một quá trình hình thành và phát triển, chương trình giáo dục
mầm non hiện đại có nhiều ưu điểm trong rèn luyện tồn diện các kĩ năng, giúp trẻ
hình thành khả năng ngơn ngữ, có tri thức và khát vọng khám phá thế giới xung
quanh, khám phá các tác phẩm văn học, các sản phẩm và giá trị tinh thần của nhân
loại. Thực tế cho thấy, khi chương trình được cải tiến và phát triển, trẻ được tham gia

vào hệ thống giáo dục mầm non đều hoạt ngôn hơn, diễn đạt mạch lạc hơn, tiếp thu
ngơn ngữ nhanh, có các kĩ năng cơ bản như chăm sóc bản thân, quan sát, hợp tác,
vận động... Chương trình giáo dục mầm non hiện đại chú trọng hoạt động vui chơi
và trải nghiệm, giúp phát triển thể chất (như cải thiện các chỉ số về chiều cao, cân
nặng, vận động,...) và kĩ năng hoà nhập nhanh với thế giới xung quanh, với cộng
đồng (như sự tự tin, biết quản lí cảm xúc, biết cách giao tiếp với người già, người lớn
tuổi hơn mình hay các bạn đồng trang lứa, biết bày tỏ ý kiến và lắng nghe...). Với
cấu trúc động, chương trình giáo dục mầm non ở Việt Nam và trên thế giới hiện nay
được đánh giá cao ở việc gia tăng phát triển trí tuệ cảm xúc xã hội (EQ), chú trọng
tính cá thể của mỗi đứa trẻ và đề xuất nhiều hơn các hoạt động bổ trợ giúp đánh
thức, khơi dậy tiền năng của trẻ ở nhiều lĩnh vực khác nhau như âm nhạc, hội hoạ,
múa, nhảy, cờ vua, lắp ráp hình,...
1.2. PHÂN LOẠI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON
Chương trình giáo dục mầm non, như đã trình bày ở trên, ln giữ vai trị, vị trí
quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Sự phân loại chương trình giáo dục
mầm non là cần thiết trong các hoạt động nghiên cứu, phát triển chương trình nhằm
giúp các nhà sư phạm hiểu rõ hơn đến các loại/kiểu/cấu trúc chương trình trong tính
hệ thống của nó; đồng thời nhận hiểu vai trò, đặc trưng của từng loại/kiểu/cấu trúc để
vận dụng linh hoạt vào thực tiễn. Chương trình giáo dục mầm non, từ điểm nhìn của
cấu trúc sẽ được phân loại như sau:
1.2.1. Chương trình khung
Chương trình khung là văn bản do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chung cho
tất cả các cơ sở giáo dục mầm non trong cả nước, thể hiện mục tiêu giáo dục mầm
non; cụ thể hố các u cầu về ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ
tuổi; quy định việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ em phát triển về
ngôn ngữ, thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ; hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát
triển của trẻ em ở tuổi mầm non. Chương trình khung giáo dục mầm non cung cấp
những nội dung cơ bản, cốt lõi, chuẩn mực thực hiện trong tồn quốc. Nó là căn cứ
để triển khai và chỉ đạo cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục
9



mầm non trong cả nước, đồng thời là căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm
non, tăng cường cơ sở vật chất và đảm bảo các điều kiện thực hiện chương trình giáo
dục mầm non có chất lượng.
1.2.2. Chương trình được tổ chức theo mơn học
Đây là kiểu thiết kế và tổ chức chương trình ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn
được sử dụng rộng rãi, do đó, người ta cịn gọi đây là kiểu chương trình truyền
thống. Trong các chương trình được thiết kế theo kiểu này, nội dung và kĩ năng lĩnh
hội được chia thành những lĩnh vực riêng biệt gọi là môn học. Mỗi mơn học có logic
riêng và việc dạy và học diễn ra theo một trình tự rõ ràng do các chuyên gia xây
dựng chương trình quyết định. Việc thiết kế chương trình theo kiểu này mang tính
chất đóng và do quỹ thời gian có hạn nên nhiều khi khơng thể đưa vào chương trình
những nội dung mới cập nhật và thiết thực cho người học một cách kịp thời. Đặc
biệt, đối với trẻ mầm non việc phân chia một cách rạch rịi ranh giới giữa các “mơn
học” là khơng phù hợp với đặc điểm phát triển mang tính tổng thể của trẻ. Tuy
nhiên, chúng ta khơng nên phủ nhận hồn tồn cách tiếp cận này trong xây dựng
chương trình, vì nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển ở người học các
năng lực và kĩ năng một cách sâu sắc và vững chắc.
1.2.3. Chương trình được tổ chức theo các chủ đề
Kiểu chương trình này được thiết kế là để khắc phục sự phân chia riêng biệt các
môn học bằng cách tích hợp nội dung các mơn học cụ thể thành những lĩnh vực kiến
thức rộng hơn (ví dụ: trong một số chương trình giáo dục mầm non nước ngồi, Tốn
và Tìm hiểu mơi trường xung quanh được tích hợp lại thành mơn Khoa học). Thơng
thường, theo cách tiếp cận này, các đơn vị kiến thức thuộc các mơn học riêng lẻ được
tích hợp theo nội dung xoay quanh một chủ đề (ví dụ: Chủ đề Quả có thể có các hoạt
động tìm hiểu về quả, nặn quả, hát các bài hát về quả...). Tuy nhiên, chương trình
thiết kế theo kiểu này cũng có một số hạn chế, người học có nguy cơ học các kiến
thức bề nổi liên quan đến chủ đề mà thiếu đi những kiến thức và kĩ năng sâu. Do đó,
để phát huy ưu điểm của chương trình tích hợp theo chủ đề và hạn chế những nhược

điểm của nó, địi hỏi đội ngũ giáo viên phải có trình độ chun mơn vững chắc, có
hiểu biết về các chủ đề và lựa chọn thời điểm cũng như nội dung hoạt động để cung
cấp và hình thành cho sáng tạo cao để có thể lựa chọn thời điểm cũng như hoạt động
thích hợp cho việc khám phá trẻ những hiểu biết sâu và kĩ năng mang tính hệ thống.
1.2.4. Chương trình được tổ chức theo các sự kiện
Đây là kiểu chương trình được xây dựng và tổ chức thực hiện dựa trên những sự
kiện gần gũi với cuộc sống của người học và những vấn đề mà người học quan tâm.
Kiểu chương trình này đã tạo ra được mối quan hệ giữa nội dung chương trình và
cuộc sống, giúp cho người học có khả năng vận dụng những gì học được vào giải
quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Do đó, chương trình kiểu này có một số
10


ưu điểm nổi bật là:
- Làm cho việc học của người học (hay của trẻ) trở nên có ý nghĩa.
- Làm cho người học có khả năng thích ứng tốt hơn.
- Bằng việc học tập theo chương trình, người học có thể tự rút ra kinh nghiệm
bản thân và học hỏi lẫn nhau.
Tuy nhiên, việc xây dựng chương trình theo kiểu này rất khó đối với giáo viên
trong việc lựa chọn nội dung giáo dục thích hợp.

11


1.2.5. Chương trình được tổ chức theo các hoạt động
Các chương trình giáo dục được tổ chức theo hoạt động nhằm khắc phục sự thụ
động và đơn điệu trong học tập cũng như khắc phục sự tách rời khỏi nhu cầu và mối
quan tâm của học sinh trong chương trình truyền thống. Trong giai đoạn đầu khi thực
hiện chương trình kiểu này, trẻ em được phép tự do theo đuổi những sở thích và ham
muốn của mình thơng qua các hoạt động tìm hiểu, khám phá và thí nghiệm. Tuy

nhiên, khó khăn của việc thực hiện chương trình theo kiểu này là làm thế nào để kết
hợp một cách có hiệu quả hoạt động với học tập. Khi hoạt động học tập càng phức
tạp, càng nâng cao thì việc hướng hoạt động trực tiếp vào kiến thức ngày càng trở
nên khó hơn. Mặc dù vậy, việc tổ chức chương trình theo kiểu này đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến việc xây dựng chương trình trong những năm gần đây. Ngồi ra, cịn tồn
tại nhiều kiểu thiết kế chương trình khác, như chương trình được thiết kế dưới hình
thức trị chơi, chương trình mạng, chương trình dự án...
Việc xác định rõ quan điểm tiếp cận và hình thức thiết kế chương trình khơng
chỉ cần thiết trong việc xây dựng chương trình giáo dục mầm non nói chung mà cả
trong việc thiết kế chương trình ở từng nội dung giáo dục và học tập. Mỗi một
chương trình có thể xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau.
Việc lựa chọn các quan điểm tiếp cận khi xây dựng chương trình phụ thuộc vào mục
đích giáo dục trẻ, đặc biệt là quan điểm về sự học và phát triển của trẻ của người xây
dựng chương trình.
Ví dụ, chương trình cải cách mẫu giáo đã sử dụng chủ yếu là cách tiếp cận mục
tiêu và cách tiếp cận nội dung; hình thức thiết kế nội dung hoạt động học tập được
phân chia theo các mơn học. Hoặc chương trình giáo dục mầm non mới ban hành
tháng 9 năm 2009 thì lại được thiết kế chủ yếu theo cách tiếp cận tích hợp và cách
tiếp cận phát triển; thể hiện ở quan điểm chỉ đạo việc thực hiện chương trình theo
hướng tích hợp theo chủ đề, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chăm sóc và giáo dục, giữa
các mặt giáo dục với nhau để hình thành và phát triển ở trẻ những năng lực chung và
phát triển tồn diện thơng qua các hoạt động chủ đạo phù hợp với từng lứa tuổi; nội
dung chương trình khơng phân chia thành các mơn học mà theo các lĩnh vực phát
triển với các mức độ khác nhau theo từng độ tuổi. Thậm chí trong một ngày hoạt
động của trẻ ở trường mầm non cũng có thể kết hợp nhiều cách tiếp cận khác nhau:
có thời điểm thực hiện theo cách tiếp cận truyền thổng (ví dụ như giờ học), có thời
điểm thực hiện theo cách tiếp cận cá nhân; có lúc trẻ phải hoạt động theo ý tưởng và
sự hướng dẫn của người lớn, nhưng có lúc trẻ lại được tự khởi xướng hoạt động theo
sở thích của mình. Như vậy, có thể thấy rằng việc vận dụng các quan điểm, các cách
tiếp cận trong xây dựng và phát triển chương trình là rất linh hoạt chứ không nhất

thiết chỉ theo một cách tiếp cận nào đó.

12


1.3. CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON QUA CÁC THỜI KÌ
Các chương trình chăm sóc trẻ trong trường mầm non đã được nghiên cứu từ
những năm 80 của thế kỉ XX và được thực hiện trong phạm vi toàn quốc. Ngành
giáo dục mầm non đã trải qua một thời kì dài xây dựng và phát triển. Qua mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế xã hội, các loại chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ mầm
non đã lần luợt ra đời, đáp ứng các yêu cầu đổi mới của đất nước
1.3.1. Chương trình giáo dục mầm non giai đọan từ năm 1976-1986
Lần đầu tiên trong lịch sử của giáo dục Việt Nam đã nghiên cứu xây dựng
Chương trình ni dạy trẻ nhà trẻ và Chương trình mẫu giáo cải tiến được tiến hành
nghiên cứu xây dựng trên cơ sở khoa học giáo dục mầm non theo từng độ tuổi.
Trong từng lứa tuổi đã đưa ra mục tiêu, nội dung, phương pháp..., chăm sóc giáo dục
trẻ có sự khác nhau. Chương trình này có tác dụng tích cực đến sự phát triển trí tuệ,
ngơn ngữ và hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ.
 Về Chương trình ni dạy trẻ từ 3 đến 36 tháng ở nhà trẻ
Nội dung chương trình được chia theo từng lứa tuổi: từ 3 đến 12 tháng; từ 12 đến
24 tháng; từ 24 đến 36 tháng; Về chăm sóc: rèn luyện ăn ngủ, vệ sinh theo từng độ
tuổi, theo thời gian biểu, rèn luyện sức khỏe; về giáo dục: bao gồm các trò chơi rèn
luyện các giác quan, rèn luyện vận động, nhận xét tập nói, một số thể loại trò chơi,
hát, múa, kể chuyện, vẽ, nặn, xếp hình, xâu hạt.
Những ưu điểm của chương trình: Lần đầu tiên trong lịch sử của giáo dục nhà trẻ
đã nghiên cứu xây dựng được chương trình ni dạy trẻ từ 3 đến 36 tháng; Trong
từng lứa tuổi đã đưa ra mục tiêu, nội dung, phương pháp. chăm sóc - giáo dục trẻ có
sự khác nhau giữa các năm tuổi; Chương trình có tác dụng tích cực đến sự phát triển
trí tuệ, ngơn ngữ và hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ nhỏ; Chương trình đã quy
định chặt chẽ toàn bộ thao tác và làm dây chuyền của từng giáo viên trong nhóm trẻ.

Do đó đã quản lí được giáo viên về thời gian.
Những tồn tại của chương trình: Mục tiêu chung, mục tiêu riêng trong từng lứa
tuổi mang tính chung chung chưa rõ ràng, chưa cụ thể; Nội dung chương trình chưa
đề cập đầy đủ 2 nội dung chăm sóc và giáo dục. Sự kết hợp giữa chăm sóc và giáo
dục chưa được thể hiện rõ nét; Nội dung của từng mặt giáo dục trong từng năm tuổi
còn nghèo nàn, rời rạc. Yêu cầu của một số nội dung đề ra có chỗ cao, có chỗ thấp so
với khả năng của trẻ; Chăm sóc và giáo dục trẻ mang nặng tính giáo dục đồng loạt,
chưa chú trọng đến sự phát triển cá biệt của từng trẻ. Chưa tạo điều kiện cho trẻ
được hoạt động tích cực; Tồn bộ nội dung chương trình được quy định một cách
chặt chẽ, giáo viên khơng được thay đổi bất kì một nội dung nào. Do đó, giáo viên bị
hạn chế khả năng chủ động sáng tạo. Vì phải làm việc theo dây chuyền, thực hiện
các thao tác chăm sóc - giáo dục theo đúng quy chế nên các giáo viên không còn đủ
13


sức lực và thời gian để trị chuyện tình cảm với trẻ.
 Về Chương trình mẫu giáo cải tiến
Chương trình mẫu giáo gồm 12 môn học được nghiên cứu cải tiến thành chương
trình giáo dục mẫu giáo cải tiến 6 mơn học.
Những ưu điểm của chương trình: Đây là chương trình lần đầu tiên có nội dung
giáo dục được cấu trúc theo hai phương thức: Giáo dục và Giáo dưỡng thông qua tổ
chức cuộc sống hàng ngày cho trẻ. Giáo viên chủ động tích cực trong hoạt động với
hai phương thức đặc trưng: Quan sát và đàm thoại. Hoạt động vui chơi lần đầu tiên
được xem xét và nhìn nhận như một phương tiện giáo dục có hiệu quả đối với trẻ. So
với chương trình cũ thì chương trình cải tiến đã có những phương pháp giáo dục phù
hợp hơn với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi, đồng thời hướng đến khắc phục tình
trạng “phổ thơng” hóa giáo dục mẫu giáo.
Những hạn chế của chương trình: Phương pháp giáo dục cịn mang tính áp đặt từ
phía giáo viên (ngay cả đối với tổ chức trò chơi cho trẻ), phương pháp dạy học cịn
mang nặng dùng lời mơ tả, trò chơi là một phương pháp giáo dục dạy học có hiệu

quả ở lứa tuổi này ít được sử dụng. Những ưu điểm của chương trình cải tiến thể
hiện ở nội dung giáo dục trong chương trình này được cấu trúc lại theo hai phương
thức giáo dục và giáo dưỡng. So với chương trình cũ, chương trình cải tiến đã hướng
đến cải tiến những phương pháp giáo dục phù hợp hơn với đặc điểm tâm sinh lí của
lứa tuổi, đồng thời hướng đến khắc phục tình trạng “phổ thơng hố” giáo dục mẫu
giáo. Mặc dù chương trình giáo dục mầm non đã trải qua hai lần cải tiến song
chương trình này vẫn còn bộc lộ những tồn tại nhất định như: phương pháp giáo dục
cịn mang tính áp đặt từ phía giáo viên (ngay cả việc tổ chức trị chơi cho trẻ), giáo
viên nghiêng về dùng lời mô tả, chưa biết sử dụng trò chơi như một phương pháp
dạy học, giáo dục có hiệu quả ở lứa tuổi này.
1.3.2. Chương trình giáo dục mầm non giai đoạn từ năm 1987 đến đầu thập kỉ
90
Trên cơ sở quán triệt tinh thần Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị khóa IV, Nghị
quyết của Trung ương Đảng khóa V và khắc phục những tồn tại của Chương trình
ni trẻ nhà trẻ và Chương trình mẫu giáo cải tiến, tiếp tục thực hiện những chủ
trương đổi mới và phát triển chương trình giáo dục mầm non, Chương trình chăm
sóc giáo dục trẻ em nhà trẻ và trẻ mẫu giáo đã ra đời vào những năm đầu thập kỉ 90
của thế kỉ XX (ban hành năm 1994 theo Quyết định số 1006 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo). Chương trình này chịu ảnh hưởng sâu sắc những thành tựu tiến bộ của nền
giáo dục Đông Âu và Liên Xơ. Nội dung chương trình được xây dựng theo nguyên
tắc cơ bản của giáo dục mầm non, đồng thời chương trình dựa trên các nguyên tắc
chỉ đạo chung mang tính khoa học phù hợp với độ tuổi mầm non được dựa trên cơ sở
lí thuyết hoạt động cho trẻ phù hợp với đặc điểm phát triển của từng lứa tuổi, kết hợp
14


hài hịa giữa ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục để trẻ phát triển toàn diện, lấy hoạt
động vui chơi làm con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Mặt khác, chương trình cịn được xây dựng trên cơ sở chú trọng giáo dục trẻ trong
quá trình hoạt động, nhấn mạnh tổ chức các hoạt động chủ đạo phù hợp với từng độ

tuổi. Mục tiêu giáo dục nhằm thực hiện giáo dục và phát triển trẻ tồn diện trên các
mặt: đức, trí, thể, mĩ. Nội dung giáo dục trong chương trình được cấu trúc lại thành 2
phần, bao gồm: nội dung chăm sóc sức khỏe và nội dung giáo dục - phát triển. Trong
phần này, nội dung giáo dục được cấu trúc theo 3 hoạt động cơ bản (hoạt động vui
chơi, hoạt động học tập và hoạt động lao động tự phục vụ). Trong đó, hoạt động học
tập được cấu trúc không phải là 12 môn học như cũ mà cấu trúc thành 6 “môn học”.
Chương trình đã tổ chức theo cách tiếp cận hoạt động và theo nội dung mơn học;
đảm bảo tính hệ thống, liên tục, kế thừa trong nhiệm vụ chăm sóc - giáo dục trẻ giữa
các lớp tuổi.
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ (từ 3 đến 36 tháng): Chương trình
đã thực hiện được những nguyên tắc cơ bản của giáo dục mầm non như chương trình
có mục đích rõ ràng, nội dung chương trình phục vụ cho mục tiêu đào tạo theo Quyết
định 55 [3] của Bộ giáo dục và Đào tạo. Chương trình được xây dựng trên cơ sở đặc
điểm tâm sinh lí lứa tuổi, thể hiện rõ sự kết hợp chặt chẽ giữa chăm sóc và giáo dục,
coi trọng hoạt động giao lưu cảm xúc và hoạt động với đồ vật, đồ chơi như là con
đường cơ bản hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Quan hệ cô - trẻ được thể hiện
là quan hệ mẹ con thân thương. Chăm sóc giáo dục cho từng trẻ là đặc điểm cơ bản
của lứa tuổi này, khắc phục dần tình trạng chăm sóc giáo dục đồng loạt.
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo từ 3-6 tuổi: Chương trình đã
hướng đến thực hiện mục tiêu giáo dục và đảm bảo nội dung giáo dục tồn diện trên
các mặt: thể, trí, đức, mĩ. Nội dung giáo dục thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nội
dung chăm sóc và giáo dục. Chương trình đã thể hiện việc giáo dục trong trường mẫu
giáo là có mục đích, có kế hoạch và được tổ chức thực hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau. Chương trình coi trọng hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi
nhưng cũng coi trọng việc học tập và hoạt động khác (lễ hội và lao động). Hoạt động
học tập được biên soạn theo các mơn (Thể dục, Tạo hình, Giáo dục âm nhạc, Làm
quen với văn học, Làm quen với môi trường xung quanh, Hình thành các biểu tượng
tốn sơ đẳng). Các môn học đều được xác định mức độ yêu cầu nội dung cụ thể cho
từng độ tuổi. Nội dung giáo dục được sắp xếp theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức
tạp, từ dễ đến khó giúp cho giáo viên dễ dàng xây dựng kế hoạch và thiết kế triển

khai các hoạt động giáo dục. Chương trình cũng đã chú ý đến việc chuẩn bị cho trẻ
những kĩ năng cần thiết để sau này dễ dàng thích nghi với việc học tập ở trường phổ
thơng.
Như vậy, chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ 0 đến 6 tuổi được thiết kế và
thực hiện trong giai đoạn này đã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ, tạo
được vị trí cần thiết của giáo dục mầm non trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Tuy nhiên chương trình vẫn thể hiện một số hạn chế sau đây:
15


- Về mục tiêu: Chưa chú trọng giáo dục hình thành các giá trị nhân cách như: tính
độc lập, tự tin, hành vi văn minh trong giao tiếp, tự giác, năng động, tự chủ, dễ hịa
nhập với bạn bè, nhóm lớp... Mục tiêu chưa chú trọng đầy đủ đến nhiệm vụ chuẩn bị
cho trẻ vào lớp 1.
- Về nội dung: Nội dung giáo dục còn nặng về cung cấp kiến thức cho trẻ mà coi
nhẹ việc rèn luyện kĩ năng, thói quen cần thiết cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày.
Một số nội dung chưa cập nhật và còn mờ nhạt:
+ Phần chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng chỉ dừng lại ở việc đưa ra yêu cầu cho
người chăm sóc trẻ, chưa thành nội dung giáo dục trẻ (như giáo dục dinh dưỡng,
giáo dục môi trường);
+ Sự phân phối nội dung trong các hoạt động chưa cân đối, chưa làm rõ vị trí, vai
trị, chức năng của hoạt động chủ đạo. Q trình giáo dục trẻ cịn nặng về nội dung
dạy học;
+ Chương trình thiếu các nội dung giáo dục mang tính tồn cầu và cấp thiết hiện
nay ở nước ta như: giáo dục nhân văn, giáo dục giới tính, giáo dục mơi trường, giáo
dục an tồn giao thơng, giáo dục pháp luật sơ đẳng phù hợp với trẻ;
+ Nội dung giáo dục mang tính dân tộc, chưa quán triệt trong các hoạt động giáo
dục, nhất là các nội dung về truyền thống văn hóa của các địa phương khác nhau, các
dân tộc khác nhau trên toàn quốc;
- Về phương pháp : Cách thức và cách vận dụng các phương pháp đặc trưng cho

lứa tuổi mầm non và các phương pháp nhằm phát huy tư duy tích cực của trẻ cịn
thấp. Trẻ ít được hoạt động và rất thụ động. Giáo viên nói nhiều hoặc làm mẫu là
chính. Phương pháp giáo dục mang tính đồng loạt.
1.3.3. Chương trình giáo dục mầm non giai đoạn từ 1995 đến 2002
Trước những yêu cầu của thời kì mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, trước xu
thế đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới giáo dục mầm nói riêng trong khu vực và
trên thế giới, đặc biệt trong xu thế hội nhập vào cộng đồng quốc tế và khu vực, các
chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non hiện hành đã bộc lộ những hạn chế,
đặc biệt thể hiện ở việc thực hiện các phương pháp chăm sóc - giáo dục trẻ và việc tổ
chức các hoạt động giáo dục. Đây cũng là giai đoạn mà xu hướng đổi mới về phương
pháp và hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục là những vấn đề cấp bách.
Chương trình đối mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục. Lần đầu tiên, nội
dung chương trình đã tổ chức các nội dung giáo dục theo hướng tích hợp chủ đề và
đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục theo hướng tiếp cận tích hợp. Trong
đó, mỗi chủ đề đều xác định các đơn vị kiến thức, kĩ năng, thái độ cần cung cấp và
hình thành ở trẻ và đều nhằm phát triển tổng thể các mặt: thể lực, ngôn ngữ, nhận
16


thức, tình cảm, xã hội. Sử dụng hình thức mạng “mở” giúp giáo viên nhìn rõ các mối
liên quan giữa các nội dung kiến thức và các hoạt động mang tính tích hợp trong
phạm vi chủ đề này với chủ đề khác. Đồng thời Chương trình cịn khuyến khích giáo
viên áp dụng các phương pháp dạy học khác nhau một cách sáng tạo. Tạo điều kiện
cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học bằng cách xây dựng các góc hoạt động
để có cơ hội sử dụng các phương pháp và kĩ thuật nhằm tích cực hóa hoạt động tư
duy của trẻ (giao nhiệm vụ để trẻ suy nghĩ giải quyết vấn đề, gợi mở, sử dụng các
câu hỏi mở, động não, trò chơi phân vai theo chủ đề) và phương pháp cùng tham gia
(nhóm nhỏ). Giáo viên có thể xác định, lựa chọn và tổ chức nhiều hoạt động để tạo
điều kiện cho trẻ có thể “học” qua chơi, “học” qua thực hành. Nhờ đó, trẻ có thể lĩnh
hội kiến thức và kĩ năng liên quan đến chủ đề một cách tự nhiên và có được những

kinh nghiệm mang tính tích hợp cần cho cuộc sống của trẻ. Khuyến khích giáo viên
tận dụng các điều kiện hồn cảnh ở trong môi trường lớp học và trường học, các
nguyên vật liệu sẵn có và các phế liệu thích hợp và an tồn với trẻ để hướng dẫn trẻ
tìm hiểu, khám phá và làm các sản phẩm mới mang tính sáng tạo. Khi tổ chức các
hoạt động, giáo viên có thể tổ chức lồng ghép, đan cài để tạo thành một chỉnh thể.
Chương trình cịn nhấn mạnh vào q trình giáo dục, dạy học và việc đánh giá
thường xuyên hoạt động dạy và học dựa vào các mục tiêu, yêu cầu đề ra trong từng
chủ đề. Đây cũng là chương trình sử dụng các phương pháp dạy học tích cực có hiệu
quả. Qua đó, trẻ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo cơ hội cho trẻ tìm tịi,
khám phá, trải nghiệm, phát triển tư duy. Phương pháp này đã khuyến khích trẻ tích
cực hoạt động cá nhân và hoạt động trong nhóm/ lớp, đồng thời tạo mối quan hệ giao
tiếp giữa trẻ với nhau và giữa trẻ với cơ giáo. Để áp dụng tốt phương pháp dạy học
tích cực trong giáo dục mầm non, trước hết, giáo viên cần :
- Dựa vào vốn kinh nghiệm của trẻ, khai thác khả năng hoạt động của trẻ, tạo
mọi cơ hội để trẻ phát triển khả năng tự khám phá, tìm tịi, trải nghiệm... đối tượng
nhận thức;
- Kích thích động cơ bên trong của trẻ, gây hứng thú, lôi cuốn trẻ vào các hoạt
động; tạo các tình huống có vấn đề cho trẻ hoạt động, đặc biệt là hoạt động nhận
thức;
- Phát hiện những biểu hiện tích cực hoạt động của trẻ để tạo tình huống, cơ hội
và kích thích trẻ tham gia hoạt động;
- Khuyến khích trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động và trải nghiệm, tự hoàn
thiện. Tôn trọng sự suy nghĩ sáng tạo của trẻ, chống gò ép, áp đặt, áp đặt làm cho trẻ
thụ động;
Chương trình đổi mới hình thức các hoạt động giáo dục trẻ là một chương trình
có nhiều ưu điểm, cụ thể là:
- Chương trình với hướng tiếp cận chủ đề đã tạo ra sự tác động đồng bộ đến trẻ;
17



- Nội dung giáo dục sẽ được lặp đi, lặp lại thơng qua chủ đề, vì vậy sẽ tác động
đến trẻ, hình thành ở trẻ khả năng nhận thức và những kĩ năng bền vững;
- Giảm tải các nội dung đưa vào các hoạt động nhằm phát huy được tính tích cực
hoạt động chủ đạo của trẻ;
- Chương trình tạo điều kiện cho giáo viên được học hỏi và trau dồi kinh nghiệm,
hình thành những kĩ năng cần thiết cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường
mầm non, từ đó giáo viên sẽ trở nên linh hoạt và sáng tạo hơn.
Chương trình chính là khâu đổi mới cơ bản, đổi mới thực hiện từ những năm
2000 đến năm 2009, tạo điều kiện cho đổi mới một cách đồng bộ tồn bộ chương
trình, là một bước đệm quan trọng để chuyển sang chương trình Giáo dục mầm non
mới.
1.3.4. Chương trình giáo dục mầm non giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2016
Sau nhiều năm nghiên cứu và thực nghiệm, tháng 9/2009, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã cho ban hành chương trình giáo dục mầm non mới mang tính chất là chương
trình khung. Từ chương trình khung này, Ban Giám hiệu và các giáo viên của từng
trường phải nắm vững chương trình giáo dục mầm non và quan điểm thực hiện
chương trình; biết xác định và thực hiện các nội dung, phương pháp chăm sóc, giáo
dục trẻ phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, trường, lớp và các nhu cầu
khác nhau của từng trẻ; biết cách đánh giá, điều chỉnh chương trình cũng như quá
trình tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non một cách
phù hợp.
Từ năm học 2010 - 2011, chương trình mới này được xem là chương trình chính
thức sử dụng vào q trình chăm sóc giáo dục trẻ ở tất cả các cơ sở giáo dục mầm
non trên tồn quốc và được gọi là chương trình giáo dục mầm non (khơng đi kèm
khái niệm mới).
Chương trình Giáo dục mầm non mới được biên soạn trên cơ sở quy định của
Luật Giáo dục và đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo kí ban hành theo
Thông tư số 17/2009/TT- BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009.
Chương trình được ban hành xuất phát từ những lí do: Thực hiện chủ trương đổi
mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và giáo dục mầm non nói

riêng của Đảng và Nhà nước; Sự đổi mới chương trình của các cấp học, đặc biệt là
tiểu học; Những bất cập, hạn chế của Chương trình cải cách được ban hành từ năm
1994, 1995 như chương trình chủ yếu tập trung đề cập nội dung giáo dục mà chưa
thể hiện đầy đủ các thành tố khác của chương trình, nội dung trong các hoạt động
giáo dục chưa mang tính tích hợp, chưa tạo được sự gắn kết, nội dung các hoạt động
học tập còn nặng về cung cấp kiến thức riêng lẻ, chưa coi trọng việc hình thành và
phát triển các năng lực, kĩ năng sống cho trẻ; Những ưu điểm của Đổi mới hình thức
18


thực hiện từ năm 2000; Những nhu cầu và sự phát triển của trẻ trong những năm gần
đây có sự thay đổi; Những xu hướng đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục mầm
non nói riêng trên thế giới và trong nước.
Chương trình GDMN được tiến hành nghiên cứu xây dựng từ năm 2002 theo quy
trình khoa học với sự tham gia của các nhà khoa học, nhà sư phạm, cán bộ quản lí,
giáo viên mầm non. Chương trình ban hành là chương trình khung có kế thừa những
ưu việt của các chương trình chăm sóc giáo dục trẻ trước đây. Chương trình GDMN
mới đã tiếp thu những tinh hoa của chương trình GDMN trong và ngồi nước. Tư
tưởng cốt lõi của chương trình được thể hiện một cách nhất quán theo các quan điểm
sau:
- Chương trình mầm non hướng đến sự phát triển toàn diện của trẻ;
- Chương trình tạo điều kiện cho trẻ phát triển liên tục;
- Chương trình đảm bảo đáp ứng sự đa dạng của các vùng miền, các đối tượng
trẻ.
Cấu trúc của chương trình giáo dục mầm non mới:
- Phần một: Những vấn đề chung;
- Phần hai: Chương trình giáo dục nhà trẻ;
- Phần ba: Chương trình giáo dục mẫu giáo.
Những vấn đề chung, bao gồm các nội dung: Mục tiêu giáo dục mầm non; Quan
điểm xây dựng và phát triển chương trình; Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo

dục mầm non và đánh giá trẻ; Cấu trúc chương trình; Quy định về hướng dẫn thực
hiện chương trình.
Chương trình giáo dục nhà trẻ và Chương trình giáo dục mẫu giáo đều bao gồm:
- Mục tiêu: Phần này đề cập mục tiêu phát triển tồn diện cuối độ tuổi về thể
chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm - xã hội và thẩm mĩ;
- Kế hoạch thực hiện: Phần này đề cập phân phối thời gian trong năm học và chế
độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở các cơ sở Giáo dục mầm non.
- Nội dung:
+ Ni dưỡng và chăm sóc sức khỏe: Phần này đề cập việc tổ chức ăn uống, ngủ,
vệ sinh, sức khỏe và an toàn cho trẻ;

19


+ Giáo dục: Nội dung giáo dục được xây dựng theo các lĩnh vực phát triển và
theo độ tuổi.
Nội dung giáo dục nhà trẻ được chia thành 4 lĩnh vực: giáo dục phát triển thể
chất, giáo dục phát triển nhận thức, giáo dục phát triển ngôn ngữ, giáo dục phát triển
tình cảm - xã hội và thẩm mĩ.
Nội dung giáo dục mẫu giáo được chia thành 5 lĩnh vực: giáo dục phát triển thể
chất, giáo dục phát triển nhận thức, giáo dục phát triển ngơn ngữ, giáo dục phát triển
tình cảm - xã hội và giáo dục phát triển thẩm mĩ.
- Kết quả mong đợi: Phần này mô tả những gì trẻ trong độ tuổi cần và có thể thực
hiện nhằm định hướng cho giáo viên tổ chức hướng dẫn có hiệu quả các hoạt động
giáo dục phát triển thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm - xã hội, thẩm mĩ, chuẩn
bị tốt cho trẻ khi nhập học ở trường phổ thơng.
- Các hoạt động giáo dục, hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục: Phần này
đề cập các hoạt động giáo dục cơ bản, các hình thức tổ chức và phương pháp giáo
dục trẻ.
- Đánh giáo sự phát triển của trẻ: Phần này đề cập mục đích, nội dung, phương

pháp, thời điểm, cách đánh giá trẻ hàng ngày và đánh giá sự phát triển của trẻ theo
giai đoạn.
Những điểm mới của chương trình:
- Chương trình giáo dục trẻ nhà trẻ và trẻ mẫu giáo được cấu trúc thành một
chương trình chung với tên gọi: Chương trình giáo dục mầm non.
- Chương trình giáo dục mầm non cấp quốc gia mang tính chất khung
- Nội dung chương trình gồm những nội dung cốt lõi, cơ bản phù hợp theo từng
độ tuổi
- Chương trình có độ mở, cho phép linh hoạt nhằm tăng cường tính chủ động của
giáo viên trong việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể phù hợp với kinh
nghiệm sống và khả năng của trẻ, điều kiện thực tế của địa phương;
- Các hoạt động giáo dục, hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục; đánh giá
sự phát triển của trẻ được đưa vào như là một thành tố của chương trình;
- Kết quả mong đợi được đưa vào chương trình nhằm định hướng cho giáo viên
tổ chức, hướng dẫn có hiệu quả các hoạt động giáo dục phát triển thể chất, nhận
thức, ngơn ngữ, tình cảm - xã hội, thẩm mĩ, chuẩn bị tốt cho trẻ khi vào học ở trường
phổ thông.
20


 Mục tiêu:
- Mục tiêu được xây dựng cho trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ và cuối độ tuổi mẫu giáo
theo lĩnh vực phát triển của trẻ nhằm hướng đến phát triển tồn diện về thể chất,
nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm - xã hội, thẩm mĩ;
- Chú trọng hình thành ở trẻ những chức năng tâm lí, năng lực chung của con
người. Phát triển tối đa tiềm năng vốn có, hình thành những kĩ năng sống cần thiết
cho trẻ và phù hợp với yêu cầu của gia đình, cộng đồng, xã hội;
- Chuẩn bị tốt cho trẻ vào học giai đoạn sau;
 Nội dung giáo dục:
Nội dung giáo dục xây dựng theo các lĩnh vực phát triển của trẻ: 4 lĩnh vực phát

triển với chương trình nhà trẻ và 5 lĩnh vực phát triển với chương trình mẫu giáo.
Nội dung chăm sóc giáo dục trẻ được đổi mới theo hướng đảm bảo tính tích hợp
giữa nội dung ni dưỡng, chăm sóc sức khỏe với giáo dục phát triển, góp phần nâng
cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non hiện nay. Bổ sung một
số nội dung thiết thực đảm bảo giáo dục trẻ toàn diện và gắn với cuộc sống thực
hàng ngày của trẻ. Hệ thống các chủ đề hoặc các vấn đề giáo dục được thiết kế theo
sơ đồ hình “mạng lưới” với hình thức mạng mở. Mỗi chủ đề lớn được xây dựng
hướng tới thực hiện mục tiêu cụ thể. Mạng hoạt động tích hợp cho phép giáo viên tổ
chức, phối hợp các hoạt động giáo dục trong mối liên hệ hỗ trợ tác động qua lại, lẫn
nhau giữa hoạt động trọng tâm với các hoạt động có tính chất bổ trợ, nhằm mở rộng
và thực hiện nội dung chủ đề có hiệu quả. Các hoạt động và phương tiện giáo dục
được tổ chức lồng ghép, đan cài và mang tính tích hợp được lựa chọn phù hợp với
chủ đề giáo dục đáp ứng nhu cầu hứng thú và phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa
phương và nhóm lớp.
 Phương pháp giáo dục:
- Tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động với các hình thức đa dạng, phong
phú, đáp ứng nhu cầu, hứng thú và hoạt động tích cực của trẻ;
- Tạo cơ hội cho trẻ hoạt động, trải nghiệm, khám phá bằng vận động thân thể và
các giác quan dưới nhiều hình thức;
- Chú trọng tổ chức hoạt động chủ đạo của từng lứa tuổi;
- Chú trọng đến việc trẻ “học như thế nào” hơn là “học cái gì”, coi trọng quá trình
hơn là kết quả hoạt động; học một cách tích cực qua tìm hiểu, trải nghiệm, học thông
qua sự hợp tác giữa trẻ với người lớn và giữa trẻ với trẻ;
- Coi trọng tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động: tạo mơi trường kích thích trẻ
21


hoạt động tích cực, sáng tạo và phát triển phù hợp với từng cá nhân trẻ; xây dựng các
khu vực hoạt động; tận dụng các điều kiện, hoàn cảnh sẵn có của địa phương; sử
dụng các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương;

- Chú trọng việc giao tiếp, gắn bó giữa người lớn với trẻ và trẻ với trẻ;
- Phối hợp các phương pháp hợp lí nhằm tăng cường ở trẻ tính chủ động, tích cực
hoạt động, đảm bảo trẻ “học mà chơi, chơi mà học”;
- Coi trọng tiếp cận cá nhân trong chăm sóc, giáo dục trẻ.
 Đánh giá sự phát triển của trẻ:
- Có sự phối hợp nhiều phương pháp, hình thức đánh giá;
- Chú trọng đánh giá sự tiến bộ của từng trẻ, trên cơ sở đó giúp giáo viên điều
chỉnh kế hoạch giáo dục, tổ chức các hoạt động giáo dục tiếp theo cho phù hợp với
hoạt động thực tế và với trẻ;
- Coi trọng đánh giá trẻ thường xuyên qua quan sát hoạt động hàng ngày.
Những điểm mới trong cấu trúc cũng như nội dung của chương trình cho thấy
chương trình được xây dựng theo hướng đổi mới đã giúp giáo viên có cái nhìn tổng
thể về nội dung chương trình, những gì trẻ cần phát triển, cần được phát triển đồng
bộ phù hợp với độ tuổi để trẻ phát triển một cách toàn diện. Nội dung giáo dục trong
chương trình được thể hiện và cấu trúc theo mạng chương trình và theo các mức độ
phù hợp các độ tuổi. Qua đó, giúp giáo viên, các nhà quản lí nhận thấy được các mức
độ nội dung khác nhau theo các độ tuổi, giáo viên sẽ chủ động, linh hoạt hơn trong
việc thực hiện nội dung chương trình, lựa chọn tích hợp nội dung giáo dục phù hợp
với chủ đề và phù hợp với độ tuổi của trẻ. Để thực hiện chương trình này, địi hỏi
giáo viên phải ln tìm ra cái mới để đáp ứng nhu cầu và hứng thú tìm tịi trải
nghiệm của trẻ, giúp trẻ phát triển tốt theo yêu cầu của chương trình; đặc biệt,
chương trình cịn có thêm phần hướng dẫn dành cho trẻ khuyết tật, nội dung phối
hợp với gia đình nhà trường và cộng đồng, các kiến thức về chăm sóc và ni
dưỡng. Như vậy, chương trình giáo dục mầm non mới là một chương trình mềm dẻo
và linh hoạt, có độ mở, giúp giáo viên linh hoạt lựa chọn nội dung, phương pháp để
phù hợp với khả năng của trẻ và tình hình thực tế của địa phương.
Chương trình giúp giáo viên liên tục được học hỏi và trau dồi kinh nghiệm, từ đó
trở thành cá nhân năng động, tích cực, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển giáo
dục của nước nhà.
[Dẫn theo tài liệu: Chu Thị Hồng Nhung: Tình hình đổi mới giáo dục mầm non

tại Việt Nam qua các giai đoạn, tạp chí khoa học ĐHSP TP HCM số 57, 2014, trang
91-99 ]
22


23


1.3.5. Chương trình giáo dục mầm non giai đoạn từ năm 2016 đến nay.
Ngày 30/12/2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 28/2016/TTBGDĐT sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Chương trình giáo dục mầm non ban
hành kèm theo Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT
Những điểm cơ bản của Thông tư sửa đổi như sau:
 Về bố cục
Thông tư sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Chương trình GDMN ban hành
kèm theo Thơng tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có 4 Điều và sắp xếp như sau:
Điều 1. Quy định những nội dung sửa đổi, bổ sung
Điều 2. Quy định bãi bỏ và thay đổi từ ngữ
Điều 3. Quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện
Điều 4. Hiệu lực thi hành

Về
nội
dung
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Chương trình giáo dục mầm non ban
hành kèm theo Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo như sau:
Sửa đổi, bổ sung mục tiêu giáo dục tình cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ ở
Chương trình giáo dục nhà trẻ và giáo dục phát triển thể chất, giáo dục phát triển
thẩm mỹ ở Chương trình giáo dục mẫu giáo.

Sửa đổi, bổ sung nhu cầu khuyến nghị năng lượng cho trẻ/ ngày cập nhật theo
quy định mới của Bộ Y tế.
Sửa đổi, bổ sung một số từ ngữ diễn đạt tránh nhầm lẫn giữa nội dung và hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục thể chất, giáo dục phát triển nhận thức, giáo dục phát
triển ngôn ngữ, giáo dục phát triển thẩm mỹ.
Sửa đổi, bổ sung đánh giá sự phát triển của trẻ, làm rõ mục đích, nội dung,
phương pháp, lưu hồ sơ về đánh giá sự phát triển của trẻ.
Bổ sung cụm từ “phát triển chương trình giáo dục mầm non phù hợp với văn
hóa, điều kiện của địa phương, của nhà trường, khả năng và nhu cầu của trẻ” vào
khoản 1 thuộc Phần bốn, Hướng dẫn thực hiện chương trình để làm rõ tính chất của
chương trình khung quốc gia, các CSGDMN phát triển phát triển chương trình giáo
dục phù hợp với văn hóa, điều kiện của địa phương, của nhà trường, khả năng và
nhu cầu của trẻ, cần phải đưa phát triển chương trình nhà trường phù hợp để nâng
cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Khoản này được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Căn cứ vào Chương trình Giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành, các Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các cơ sở
giáo dục mầm non xây dựng kế hoạch năm học, tổ chức thực hiện; phát triển chương

24


trình giáo dục mầm non phù hợp với văn hóa, điều kiện của địa phương, của nhà
trường, khả năng và nhu cầu của trẻ.”
Điều 2. Bãi bỏ và thay đổi từ ngữ
Bãi bỏ, thay đổi một số từ ngữ để làm rõ nội dung và hoạt động giáo dục, mức
độ, kết quả mong đợi, phân hóa từng độ tuổi, đảm bảo Chương trình khung quốc gia.
Chương trình GDMN có nhiều ưu điểm giúp nâng cao chất lượng cơng tác chăm
sóc, nuôi dạy trẻ. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện chương trình GDMN sau sửa
đổi, các cơ giáo gặp một số lúng túng trong việc sử dụng từ ngữ khi soạn giáo án, vì
chương trình có thay đổi một số cụm từ để phù hợp với hoạt động của từng lứa tuổi.

Đồng thời, một số giáo viên lúng túng với việc xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ cho
phù hợp với chủ đề, dựa trên kế hoạch của trường, từng cơ xây dựng kế hoạch cụ thể
cho lớp của mình. Chương trình sau sửa đổi khuyến khích cơ và trị cùng nhau học
và làm đồ chơi để vận dụng vào tiết học tiếp theo, thay vì lúc trước chỉ có cô làm
việc này. Với sự thay đổi này, giúp cho mỗi trẻ mầm non tiếp cận và thỏa sức sáng
tạo theo ý thích của mình"
Như vậy, có thể thấy rằng, trải qua các thời kì phát triển của ngành giáo dục mầm
non, chương trình giáo dục mầm non đã có những bước phát triển đáng kể về chất
lượng chương trình cũng như cấu trúc, nội dung và quan điểm xây dựng và phát triển
chương trình. Đặc biệt trong chương trình giáo dục mầm non mới này, muốn ứng
dụng nó để thực hiện cho một trường mầm non cụ thể, các cán bộ quản lí và giáo
viên mầm non phải biết cách phát triển chương trình. Đổi mới giáo dục mầm non và
đổi mới chương trình giáo dục mầm non là tất yếu trong xu hướng đổi mới của giáo
dục và đào tạo nói chung. Đây là xu hướng tất yếu phù hợp với điều kiện của đất
nước và trình độ của giáo viên, góp phần nâng cao chất lượng của công tác giáo dục.

25


×