Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phương pháp dạy học Văn thuyết minh cho học sinh lớp 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.21 KB, 20 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn thứ hai của quá trình Công nghiệp
hoá- hiện đại hoá với mục tiêu phấn đấu là đến năm 2020, nước ta sẽ trở thành
một nước Công nghiệp. Để theo kịp xu thế chung của thế giới, chúng ta đã và
đang chú trọng đầu tư cho giáo dục với mục tiêu là: “Đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẫm mĩ và nghề
nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(điều 2 chương I- Luật giáo dục).
Để thực hiện những mục tiêu đó, ngành giáo dục đã và đang tiến hành
những đổi mới cải cách về nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục toàn
diện cho học sinh nói chung và cho học sinh THPT nói riêng. Và một trong
những yêu cầu đặt ra đối với giáo viên THPT trong thế kỉ mới là tổ chức các
hoạt động dạy- học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, lấy
học sinh làm trung tâm Bộ môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài quy luật
chung đó. Môn Ngữ văn hiện nay được xây dựng trên quan điểm tích hợp: ba
phân môn Văn học, Tiếng việt, Làm văn được kết hợp thành một bộ môn có tên
gọi là Ngữ văn.
Làm văn là một trong ba phân môn của Ngữ văn và nó đóng vai trò quan
trọng trong việc cung cấp các tri thức cơ bản về các kiểu văn bản. Bài làm văn là
sản phẩm tinh thần, kết tinh sự nhận thức, vốn sống, là bằng chứng thể hiện
năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng, tạo lập văn bản để bộc lộ xúc cảm, trí tuệ,
tình cảm nhân văn của học sinh. Nhiệm vụ chủ yếu của Làm văn trong nhà
trường là rèn luyện các kĩ năng: tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, dựng đoạn…
Thành thục các kĩ năng này học sinh sẽ viết được bài văn rõ ràng, mạch lạc, đầy
đủ ý, đúng yêu cầu.
Từ vị trí, nhiệm vụ của phân môn Làm văn có thể thấy đây là phân môn
có vai trò quan trọng giúp học sinh tạo lập văn bản nói hoặc viết phục vụ mục
đích giao tiếp. Tuy nhiên thực tế giảng dạy môn Làm văn hiện nay còn một số
vấn đề bất cập sau:
Trước hết, giáo viên còn tâm lí “ngại”khi giảng dạy Làm văn vì cho rằng


phân môn này khó. Còn học sinh cũng có tâm lí “sợ”trước mỗi bài kiểm tra
Làm văn, học sinh còn viết lan man, nghĩ gì viết nấy, không có định hướng. Từ
thực tế trên cho thấy, để giúp học sinh viết được một bài văn có chất lượng,
người giáo viên phải có phương pháp hướng dẫn học sinh các kĩ năng viết văn
theo từng bước có đề cương cụ thể mạch lạc.
Trong nhà trường, văn bản tự sự, miêu tả, hành chính công vụ được học
rất sớm ở tiểu học. Nhưng văn bản thuyết minh thì lại là một kiểu văn bản hoàn
toàn mới lạ đối với các em học sinh. Điều đó gây ra không ít khó khăn đối với
cả người dạy và người học . Đây là kiểu bài chưa có tính truyền thống như kiểu
bài tự sự, miêu tả, nghị luận. Vì chưa có tính truyền thống nên nói chung chúng
1
ta chưa tích luỹ được những kinh nghiệm cần thiết để dạy học có hiệu quả. Cũng
cần nói thêm là vốn sống, vốn tri thức của người học sinh còn hạn chế nên khi
yêu cầu thuyết minh, các em gặp khó khăn.
Mặt khác để làm một bài văn thuyết minh, ngoài việc tìm hiểu đề và tìm
ý, lập dàn bài thì phương pháp thuyết minh là một vấn đề hết sức quan trọng.
Nắm được phương pháp thuyết minh chính là nắm được chìa khoá để mở cánh
cửa bài văn thuyết minh. Không có phương pháp, bài viết của các em sẽ trở nên
rời rạc, thiếu căn cứ, lộn xộn dẫn đến sự thiếu thuyết phục đối với người đọc,
người nghe.
Trong chương trình Ngữ văn 10 các em được học 1 tiết về phương pháp
thuyết minh (tiết 66). Như vậy là chưa đủ để các em nắm được các phương pháp
thuyết minh, khiến các em còn lúng túng khi làm bài.
Với đề tài “ Phương pháp dạy học văn thuyết minh cho học sinh lớp
10 THPT” tôi mong rằng sẽ góp phần nhỏ bé mà hữu ích cho đồng nghiệp cũng
như các em học sinh trong việc dạy và học văn thuyết minh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. Phân biệt văn thuyết minh với các kiểu văn tự sự, miêu tả, biểu
cảm, nghị luận:

Thuyết
minh
Kiểu văn bản cung cấp tri thức khách quan, xác thực, hữu ích.
Tự sự Trình bày chuỗi sự việc theo một trình tự, có nhân vật và hành
động, ngôn ngữ của nhân vật để thể hiện diễn biến sự việc
Miêu tả Tái hiện hình ảnh của người, vật, việc một cách sinh động để
người nghe, đọc như thấy nó đang ở ngay trước mắt.
Biểu cảm Bộc lộ tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ, thái độ, đánh giá chủ quan
của người viết, truyền tải cảm xúc, tình cảm ấy tới người đọc,
người nghe.
Nghị luận Người viết, người nói xác lập tư tưởng, quan điểm và thuyết phục
người đọc, người nghe đồng tình với mình
Văn thuyết minh là loại văn bản khác hẳn với tự sự (vì không có sự việc,
diễn biến), khác với miêu tả ( vì không đòi hỏi tái hiện hình ảnh một cách cụ thể
cho người đọc cảm thấy, mà cốt làm cho người ta hiểu), khác với văn bản nghị
luận ( vì ở đây cái chính là trình bày nguyên lí, quy luật, cách thức…chứ không
phải là luận điểm, suy luận, lí lẽ), nghĩa là văn bản thuyết minh là một kiểu văn
bản riêng, mà các loại văn bản tự sự, miêu tả, nghị luận không thay thế được.
2. Các dạng văn thuyết minh:
Trong văn thuyết minh thường gặp các dạng sau:
- Thuyết minh về một thứ đồ dùng
-Thuyết minh về một loài vật
2
- Thuyết minh về một phương pháp (cách làm món ăn)
- Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh
- Thuyết minh về một thể loại văn học (hoặc một tác giả văn học)
- Thuyết minh về một phong tục, một đồ chơi dân gian
3. Các yêu cầu của văn thuyết minh
a. Phải nắm bắt được đặc trưng sự vật
Việc nắm bắt được đặc trưng sự vật là vô cùng quan trọng. Đặc trưng của

sự vật chính là nét phân biệt giữa sự vật này với sự vật khác. Nắm được đặc
trưng của sự vật thì trung tâm bài văn mới được biểu đạt một cách rõ ràng, mới
giúp người đọc nắm bắt được chính xác, cụ thể đối tượng cần thuyết minh.
Để nắm bắt được đặc trưng sự vật phải nghiên cứu một cách tỉ mỉ đối
tượng được thuyết minh. Nếu như chỉ hiểu qua loa về đối tượng cần thuyết minh
thì chắc chắn yêu cầu này sẽ không thể đạt được
Ví dụ:
BÔNG CÚC MUÔN HÌNH MUÔN VẺ
“Việc chăm sóc hoa cúc đã có hơn 3000 năm lịch sử . Qua một thời kì dài
chọn lọc tự nhiên và nhân tạo, dáng vẻ của hoa cúc đã trở nên vô cùng phong
phú. Đến ngày nay, giống cúc trên toàn thế giới có đến hơn 2000
Lá và hoa cúc có nhiều biến hoá nhiều vẻ. Phân loại theo hình dạng lá thì
cúc có: cúc lá tròn, cúc lá sen, cúc lá mỏng. Phân loại theo hình dạng hoa thì
cúc có: cúc cánh hoa bằng, cúc cánh hoa hình ống, cúc cánh hoa sợi. Màu hoa
cúc, ngoài màu lam thì còn có nhiều màu khác như đỏ, vàng, trắng, lục, tím,
thôi thì đủ loại.
Giống cúc đã nhiều mà tên cũng lắm. Trải qua bao các nhà văn, các hoạ
sĩ, các nghệ nhân trồng tỉa quan sát, liên tưởng và bài viết thì tên gọi của nó
cũng có nhiều cái hay, nào là hạnh hoa, xuân vũ, thập trượng chu liêm, chu sa
đỗ đơn, thu thuỷ phù dung, xích long đằng huy, tuý Dương phi…Nghe tên mà ta
có thể hình dung ra dáng vẻ kiều diễm của hoa.
Vào cuối thu, khách dạo gót bên cánh hoa cúc, trước mắt là cảnh tượng
muôn màu khoe sắc. Những bông hoa cúc lạ mắt thướt tha, có bông như rồng
bay hổ vờn, có bông thì nõn nà đứng sát nhau, có bông thì lung linh trong suốt,
có bông thì rực rỡ như mặt trời hồng, có bông thì lại tinh khiết như ánh trăng,
có bông lất phất như lông vũ, có bông quý phái như mệnh phụ. Các bông cúc có
bông tựa, bông nghiêng, bông hướng lên, bông chúc xuống, như đang ca hát,
đang nhảy múa, đang mỉm cười…khoe sắc, khoe dáng khiến ta ngắm nhìn mãi
không chán mắt”
b. Phải làm rõ mạch thuyết minh

Mạch lạc là yếu tố cần thiết cho mọi thể văn.Với văn bản thuyết minh thì
yêu cầu này càng cao. Bởi lẽ: mục đích chính của thuyết minh là đem đến cho
người đọc một vốn hiểu biết tương đối hoàn chỉnh về đối tượng (dù chỉ là hoàn
chỉnh về một mặt, một phương diện nào đó). Vậy nên, các tầng thứ trình bày
càng rành mạch, rõ ràng, tuân theo tính quy luật của đối tượng thì chắc chắn sự
lĩnh hội ở người đọc sẽ dễ dàng và mang tính khoa học cao.
3
Sự mạch lạc trong văn thuyết minh cũng sẽ hiển thị ở trình tự trình bày.
Sự vật khách quan muôn hình muôn vẻ, bởi vậy trình tự thuyết minh cũng phải
hết sức linh hoạt. Có thể thuyết minh theo trình tự: thời gian, không gian,
phương diện, cấu trúc…miễn sao hợp lí, lôgic, rõ ràng, dễ hiểu.
4. Các phương pháp thuyết minh
a. Phương pháp nêu định nghĩa
Đây là phương pháp chỉ ra bản chất của đối tượng thuyết minh, vạch ra
phương pháp lôgic của thuộc tính sự vật bằng lời lẽ rõ ràng, chính xác, ngắn
gọn. Muốn thuyết minh chuẩn xác đối tượng theo cách định nghĩa, cần nắm
được hai vấn đề: Một là tính chất của đối tượng, nó thuộc loại nào. Hai là đặc
điểm riêng của đối tượng, tức là chỗ khác với đối tượng cùng loại. Chẳng hạn:
- Giun là động vật có đốt, gồm khoảng 2500 loài, chuyên sống ở vùng đất
ẩm.
- Hát quan họ là một lối hát đối đáp giữa hai bên trai và gái.
b. Phương pháp liệt kê.
Đây là phương pháp lần lượt chỉ ra các đặc điểm, tính chất của đối tượng
theo một trật tự nào đó.
c. Phương pháp nêu ví dụ cụ thể
Đây là phương pháp thuyết minh sự thật bằng cách nêu dẫn chứng thực tế.
Dùng cách này ta có thể thuyết minh, giải thích rõ ràng hơn, tạo ấn tượng cụ thể
cho người đọc.
d. Phương pháp so sánh.
Đây là cách đối chiếu hai hoặc hơn hai đối tượng để làm nổi bật bản chất

của đối tượng cần được thuyết minh. Có thể dùng so sánh cùng loại hoặc so sánh
khác loại nhưng đến cuối cùng là nhằm để người đọc hình dung rõ hơn về đối
tượng được thuyết minh. Sau đây là đoạn văn tiêu biểu cho phương pháp này
“ Loài cá sống dưới nước, trong đó có nhiều giống biết phát ra âm thanh.
Tiếng kêu của cá bò như tiếng ong bay qua, âm thanh vù vù… Cá mè bơi thành
đàn y như đàn chim nhỏ vậy, tiếng kêu “chíp chíp”. Cá nhám thì tiếng kêu như
tiếng lá xào xạc”sa, sa…” Cá trích thì ồn ĩ như tiếng sóng vỗ biển trong đêm.
Cá nóc và cá nhím thì lại kêu “ cù rù, cù rù ”như tiếng trống vậy. Còn các bạc
má thì tiếng kêu phát ra như cách ta lấy móng tay cạo thật nhanh trên hàng
răng lược…”
( Âm thanh của cá)
e. Phương pháp dùng số liệu
Đây là phương pháp dẫn con số cụ thể để thuyết minh về đối tượng. Bài
văn thuyết minh càng có thêm tính khoa học chính là nhờ vào phương pháp này.
Đoạn văn thuyết minh về hoa quân tử lan là dùng phương pháp này.
“ Ta chỉ cần chăm sóc đúng cách, từ khi trồng đến khi đơm hoa chỉ
khoảng 3 năm. Năm nào cây giống đâm chồi lá thì năm sau sẽ được 5 đến 6 lá,
hai năm sau là 8 đến 10 lá, ba năm sau là 15 đến 20 lá. Lúc này sẽ đơm hoa.
Nếu ta chăm sóc không đúng cách thì giống quý sẽ bị kém đi, không đơm hoa
được”
4
g. Phương pháp phân loại phân tích
Đối với những loại sự vật đa dạng, sự vật có nhiều bộ phận cấu tạo, có
nhiều mặt người ta dùng phương pháp này. Đây là cách chia đối tượng ra từng
loại, từng mặt để thuyết minh
Chẳng hạn, muốn thuyết minh về một thành phố, có thể đi từng mặt: vị trí
địa lí, khí hậu, dân số, lịch sử, con người, sản vật…
h. Dùng hình thức tự thuật.
Một trong những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn thuyết
minh là cho sự vật tự thuật về mình .

Như vậy, khi làm một bài văn thuyết minh phải vận dụng nhiều phương
pháp khác nhau. Bởi vì văn bản thuyết minh do yêu cầu nội tại, đòi hỏi sự đa
dạng của các phương pháp trình bày. Đây là một đặc trưng quan trọng trong
phương pháp viết bài văn thuyết minh.
5. Quy trình làm bài văn thuyết minh.
Làm một bài văn thuyết minh cũng phải tiến hành qua 5 bước: Tìm hiểu
đề , tìm ý, lập dàn ý, viết văn bản, kiểm tra.
II.THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Thực tiễn trong quá trình dạy và học văn thuyết minh ở trường THPT,
giáo viên và học sinh gặp một số thuận lợi và khó khăn,
Trước hết, văn thuyết minh là kiểu loại văn bản mới mẻ nhưng cũng rất
thông dụng trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội nhất là đã học ở THCS. Vì vậy,
người giáo viên có điều kiện tìm được nhiều ví dụ quen thuộc trong đời sống
hàng ngày để học sinh có thể tìm hiểu và thấy được kiểu văn bản này mang tính
ứng dụng lớn. Từ đó có thể khích lệ các em sử dụng kiểu văn bản thuyết minh
vào những trường hợp cụ thể, thích hợp.
Bên cạnh đó, trong quá trình làm bài văn thuyết minh, học sinh được chủ
động tìm hiểu và tiếp cận với nhiều tri thức đôi khi là rất mới mẻ về các vật
dụng có thể nói là quen thuộc trong đời sống (Ví dụ: chiếc bút bi, cái nón…).
Điều này đem đến sự hứng thú cho học sinh trong học tập và tạo cho các em thói
quen tìm hiểu sự vật một cách cặn kẽ để tạo lập được những văn bản mang tính
khoa học. Qua đó, năng lực tư duy và biểu đạt của học sinh được nâng cao.
Tuy nhiên việc dạy và học văn thuyết minh còn gặp một số khó khăn.
Trước hết, ta thấy tài liệu viết chuyên về văn thuyết minh không nhiều bằng các
kiểu loại văn bản khác như tự sự, miêu tả, nghị luận. Vì thế người giáo viên ít có
tài liệu tham khảo để bồi dưỡng thêm những hiểu biết về đặc trưng của kiểu loại
văn bản này .
Bên cạnh đó, để hướng dẫn các em viết được một bài văn thuyết minh tốt,
xuất phát từ đặc trưng của bộ môn, người giáo viên phải tìm tài liệu về đối tượng
thuyết minh. Ví dụ tìm hiểu về nguồn gốc của chiếc nón, lịch sử ra đời của

chiếc bút bi… Có nhiều nguồn để tìm những tư liệu này . Nhưng để tìm được tư
liệu đủ và phong phú về một đối tượng thuyết minh cũng là một công việc mất
thời gian. Nhiều sự vật, hiện tượng trong đời sống dù quen thuộc nhưng cũng rất
5
khó tìm tư liệu cho thật chính xác. Với điều kiện như vậy, việc tìm tư liệu về các
đối tượng thuyết minh cũng đặt ra nhiều khó khăn cho người giáo viên.
Về phía chương trình: một số tiết lí thuyết tương đối nặng. Mặc dù cách
làm bài văn thuyết minh cũng có nét tương tự như các kiểu văn bản khác qua các
bước: tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài. Tuy nhiên văn thuyết minh cũng có
những đặc điểm riêng nên cần có thêm thời gian để hướng dẫn học sinh một
cách cụ thể các thao tác. Ví dụ thao tác tìm ý rất quan trọng nhưng cũng không
có bài riêng. Đây là một khó khăn đặt ra cho người giáo viên. Bên cạnh đó, vì
thời gian tiết học ít nên người giáo viên cũng không thể hướng dẫn cụ thể từng
bước cách làm bài văn thuyết minh dẫn đến học sinh chưa làm tốt một số bước
khi làm bài văn thuyết minh.
Đối với học sinh, thực tế việc viết văn thuyết minh cũng có những hạn
chế. Để viết tốt một bài văn thuyết minh, bên cạnh các kĩ năng làm bài văn, học
sinh còn cần có các tri thức về đặc điểm, tính chất, lai lịch, nguồn gốc của đối
tượng cần thuyết minh. Tuy nhiên, với một số sự vật, hiện tượng, học sinh rất
khó tìm thấy tư liệu, đặc biệt là tư liệu về nguồn gốc, lịch sử. Có nhiều nguồn để
học sinh tìm tư liệu như qua sách báo, internet…Nhưng không phải em nào cũng
có điều kiện để tìm được tư liệu đủ và chính xác. Điều này dẫn đến khâu tìm ý
của học sinh gặp khó khăn. Bài làm của các em còn chưa có nhiều ý phong phú,
các ý tản mạn hay sự sắp xếp ý của các em cũng còn chưa thực sự hợp lí, khoa
học nên bài viết còn lan man.
Trong quá trình viết bài, học sinh cũng chưa thực sự đảm bảo về ngôn
ngữ. Văn thuyết minh đòi hỏi cách trình bày tri thức khoa học. Vì vậy học sinh
cũng cần viết câu văn mang phong cách khoa học, chính xác, ngược lại với cách
viết văn biểu cảm…
Có thể nói, trên thực tế, việc hướng dẫn để học sinh viết tốt bài văn thuyết

minh là một công việc đòi hỏi nhiều sự nỗ lực của giáo viên. Và chính người
học sinh cũng cần có nhiều cố gắng trong quá trình học văn thuyết minh. Bởi lẽ,
hiện nay, nhiều học sinh xuất hiện tâm lí ngại khi phải làm bài văn thuyết minh.
Điều đó dẫn đến việc một số học sinh còn có thói quen ỷ lại vào văn mẫu để trả
bài trên lớp. Nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng bài văn thuyết minh do học
sinh tạo lập có chất lượng chưa cao…
Xuất phát từ thực tiễn dạy và học văn thuyết minh trong chương trình
Ngữ Văn 10 (những thuận lợi, khó khăn, những việc đã làm được, những hạn
chế gặp phải), việc hướng dẫn các kĩ năng làm văn gắn với kiểu văn bản thuyết
minh cho học sinh là điều cần thiết. Đặc biệt, văn thuyết minh là kiểu bài cung
cấp tri thức khoa học nên vấn đề phương pháp càng cần được quan tâm để giúp
học sinh có chất liệu phong phú để viết bài giúp các em tự tin hơn, cố gắng tạo
ra được một bài văn thuyết minh tốt- một sản phẩm mang tính cá nhân người
viết.
III. GIẢI PHÁP VÀ CÁCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN VẤN ĐỀ
1.Phương pháp dạy lý thuyết “Phương pháp thuyết minh”:
6
Trong dạy học tập làm văn nói chung và trong dạy học văn thuyết minh
nói riêng thì phương pháp phân tích và dạy học theo mẫu, có thể nói là phương
pháp tối ưu hơn cả. Nhưng muốn sử dụng thành thạo và hiệu qủa phương pháp
này thì người giáo viên phải nắm được bản chất, quy trình thực hiện, ưu điểm,
hạn chế và một số lưu ý của phương pháp này
1.1. Nhận thức chung.
Phương pháp dạy học theo mẫu là phương pháp thông qua mẫu cụ thể về
lời nói để giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu dặc điểm của mẫu, cơ chế tạo
mẫu, biết cách tạo ra những lời nói theo định hướng của mẫu .
Quy trình thực hiện phương pháp này gồm 4 bước:
- Bước 1: Giáo viên chọn lọc giới thiệu mẫu chứa hiện tượng ngôn ngữ cần
tìm hiểu.
- Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích mẫu để nhận biết các bộ

phận tạo thành mẫu và đặc điểm của mẫu.
- Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh mô phỏng mẫu để tạo ra lời nói của
mình (khuyến khích sự sáng tạo của học sinh).
- Bước 4:Giáo viên hướng dẫn học sinh kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm
về sản phẩm tiếp nhận hoặc sản sinh ra lời nói qua rèn luyện theo mẫu.
Một số lưu ý:
* Tiêu chuẩn mẫu văn:
- Mẫu được giới thiệu cần đảm bảo tính chính xác, đảm bảo tính tư tưởng
- Mẫu có sự hấp dẫn giúp học sinh hứng thú và sáng tạo khi tạo lập theo
mẫu.
- Mẫu ngắn gọn, chứa đựng nhiều nội dung lý thuyết cần giảng, dễ quan sát.
- Mẫu cần đảm bảo tính thẫm mỹ, đảm bảo việc giáo dục cho học sinh biết
nhìn nhận, thưởng thức và đánh giá cái đẹp một cách đúng đắn.
- Mẫu phải phù hợp với tâm lý học sinh.
- Mẫu phải phù hợp với đối tượng nhận thức trong từng trường hợp cụ thể
* Nguồn mẫu văn:
- SGK, SGV, sách bài tập.
- Sách báo và các tài liệu bên ngoài
- Giáo viên tự viết
- Giáo viên lựa chọn, sửa chữa, nâng cao những bài, những đoạn viết phù
hợp từ những bài tập làm văn của học sinh.
* Phân tích mẫu:
- Vấn đề hệ thống câu hỏi phân tích - tổng hợp được tính toán kỹ lưỡng để
tới mục đích hình thành khái niệm lý thuyết.
- Vấn đề học sinh đọc mẫu, trả lời các câu hỏi và tự hình thành khái niệm lý
thuyết
1.2. Minh hoạ: Minh hoạ cụ thể phương pháp dạy học theo mẫu trong dạy
học phương pháp thuyết minh trong văn thuyết minh:
a. Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích:
* Bước 1: Cung cấp mẫu:

7
Giáo viên cho học sinh đọc kĩ mẫu
BÁNH CỐM
Thuở ban đầu người làm bánh cốm chỉ suy nghĩ đơn giảnlà muốn làm loại
bánh gần giống như bánh chưng, nhưng khác với bánh chưnglà có ngọt. Bởi vậy
nguyên liệu làm bánh cốm cũng là gạo nếp và đậu xanh. Loại gạo nếp làm bánh
cốm là gạo nếp non được chế biến ra dạng cốm, dùng làm vỏ bánh. Nhân bánh
được làm từ đậu xanh và dừa. Cả nhân và vỏ bánh đều được xào lẫn với đường
tạo cho bánh vị ngọt, thơm ngon.
Bánh cốm có ngon hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu chọn
nguyên liệu. Cốm làm bánh phải là cốm già, nếu non quá khi xào với đường sẽ
bị nhão không dùng làm vỏ bánh được. Nếu bánh được làm đúng vào mùa cốm,
người ta thường pha thêm cốm tươi để bánh dẻo và thơm mùi cốm mới. Trước
khi xào đường, cốm được ủkhoảng một giờ đồng hồ. Tiếp đến là làm nhân bánh.
Đậu xanh thường dùng là loại đậu của vùng Thái Bình, Sơn La, Bắc Ninh vì
loại đậu này khi ngâm nước có độ nở vừa phải. Còn đậu xanh của các vùng
khác, đặc biệt là đậu trồng ở khu vực phía Nam, khi ngâm nước nở nhiều, dễ bị
thiu, không thể dùng làm nhân bánh được.
Những người chuyên làm bánh cho rằng chẳng có một công thức cụ thể nào
để làm bánh cốm. Bí quyết để có bánh ngon hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm và
thói quen của mỗi người làm bánh. Ví dụ ở khâu ủ cốm, nhiều người cho rằng
khi đặt tay lên bề mặt cốm cảm giác hết độ dính thì mới đem xào đường. Do vậy
tuỳ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí hậu, tuỳ loại cốm, thời gian ủ có xê dịch đôi
chút. Khi xào cốm phải xác định thời gian vừa phải, không kĩ quá làm vỏ bánh
bị cứng, hoặc không quá nhanh, cốm chưa kịp ngấm đường, không để được lâu.
Khi xào nhân cũng vậy, phải xào cho đến khi nước bốc hơi hết, chỉ còn lại
đường và đậu dính quyện vào nhau mới ngon. Bánh cốm làm xong được ướp
hương hoa bưởi và một số vị thuốc bắc hoặc bằng vani, vừa nhanh, vừa tiện.
Hàng Than là một phố chuyên làm bánh cốm của Hà Nội. Ở phố này có tới
hơn 20 cửa hàng bánh cốm với những cái tên gần giống nhau như Ạn Ninh,

Ninh Hương, Anh Ninh, Nguyên Ninh…Có những gia đình nổi tiếng với năm đời
làm bánh cốm. Bánh cốm ở đây đặc biệt bán chạy vào mùa cưới, khi mà các gia
đình của họ nhà trai mua bánh cốm, chè sen, hạt sen…làm đồ ăn hỏi. Bình
thường số lượng bánh cốm làm ra mỗi ngày không nhiều, chỉ vài trăm chiếc,
chủ yếu là làm theo đơn đặt hàng. Và có lẽ người ta theo đuổi nghề này bởi đó
là nghề cha truyền con nối và những người làm bánh cốm không muốn để mất
đi một nghề mà tổ tiên để lại cho họ.
(Theo Tạp chí Việt Nam hương sắc)
*Bước 2: Phân tích đặc điểm của mẫu.
Giáo viên đưa các câu hỏi gợi ý để giúp học sinh tìm hiểu đặc điểm của mẫu.
Có thể chia học sinh thành nhóm nhỏ để các em trao đổi tìm câu trả lời.
(1) Đối tượng thuyết minh của văn bản là gì ?
8
(2)Tác giả đã đề cập đến nhiều mặt của chiếc bánh cốm, đó là những mặt
nào?
Học sinh thảo luận theo nhóm trả lời.
*Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào mẫu vừa phân tích để luyện
viết câu nêu định nghĩa, giải thích về đối tượng thuyết minh.
Học sinh chọn một đối tượng thuyết minh bất kỳ để viết câu định nghĩa theo
mô hình: A là B.
Ví dụ:
(1) Ca dao-dân ca là loại tác phẩm trữ tình dân gian…(bài làm của học
sinh)
(2) Văn Miếu Quốc Tử Giám là biểu tượng về truyền thống hiếu học của
dân tộc Việt.
(3) Hà Nội- thủ đô của nước Việt Nam, là một thủ đô văn hiến với bề dày
văn hóa-lịch sử 1000 năm…(bài làm của học sinh)
* Bước 4: Giáo viên hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá lẫn nhau, rút
kinh nghiệm về câu vừa được tạo lập của học sinh (đối chiếu mẫu):
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát 3 bài làm của 3 học sinh để nhận xét.

Gợi ý trả lời:
- Mẫu 1: Định nghĩa quá rộng, chưa nêu rõ được đặc điểm riêng của ca dao-
dân ca
- Mẫu 2: Giới thiệu được đối tượng thuyết minh là Văn Miếu Quốc Tử Giám
nhưng vẫn còn chung chung, trừu tượng.
- Mẫu 3: Đã nêu được đối tượng cụ thể để thuyết minh là Hà Nội và nêu
khái quát về vai trò, vị trí và giá trị của Hà Nội: thủ đô nước Việt Nam, thủ đô
văn hiến, bề dày văn hoá- lịch sử 1000 năm.
Kết luận về phương pháp nêu định nghĩa, giải thích cho bài văn thuyết minh:
- Không nên nêu định nghĩa quá rộng, quá hẹp hay trùng lặp.
- Không định nghĩa một cách quá trừu tượng, chung chung.
b. Phương pháp liệt kê:
* Bước 1: Giáo viên cung cấp mẫu văn:
“Ta đến Viện Nghiên cứu các bệnh tim mạch, bác sĩ viện trưởng
cho biết: Chất ni-cô-tin của thuốc lá làm các động mạch co thắt lại, gây
những bệnh nghiêm trọng như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ
tim. Có thấy một bệnh nhân bị tác động mạch chân lên những cơn đau như
thế nào, rồi phải cắt dần từng ngón chân đến cả bàn chân; có thấy những
người 40-50 tuổi đã chết đột ngột vì nhồi máu cơ tim; có thấy những khối
ung thư ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê ghớm của thuốc lá…”.
(Ôn dịch thuốc lá- Nguyễn Khắc Viện)
*Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, phân tích đặc điểm của
mẫu:
Đọc đoạn văn trên và trả lời câu hỏi:
(1) Đoạn văn trên sử dụng biện pháp gì? Biện pháp đó có tác dụng như thế
nào trong việc diễn đạt nội dung thuyết minh?
9
(2) Để sử dụng tốt phương pháp liệt kê trong văn thuyết minh, cần phải chú
ý điều gì?
* Bước 3: Thực hành theo mẫu:

Giáo viên yêu cầu học sinh viết đoạn văn (khoảng 3 câu) về đối tượng bất
kỳ, trong đó sử dụng phương pháp liệt kê. Ví dụ về 2 bài làm của học sinh:
(1) Mai rất đa dạng và phong phú, nếu dựa vào màu sắc thì mai sẽ có 4 loại
chính: hoàng mai, bạch mai, thanh mai và hồng mai. Nhưng mai vàng lại là loại
hoa mà tôi thích nhất…
(2) Đời sống của trâu rất đa dạng và phong phú. Trâu có rất nhiều loại: có
con màu đen, có con lại màu trắng, và lại có con màu vàng nữa…
* Bước 4: Nhận xét, đánh giá:
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và nhận xét 2 mẫu của 2 bạn:
Gợi ý trả lời:
- Mẫu 1: Chọn đối tượng thuyết minh là 1 loại hoa- hoa mai. Việc liệt kê các
loại khác nhau của hoa mai giúp cho bài viết giàu kiến thức phong phú, thể hiện
sự am hiểu của người viết về hoa mai.
- Mẫu 2: Đối tượng thuyết minh là con trâu, một con vật quen thuộc của nhà
nông. Người viết đã liệt kê các loại trâu khác nhau dựa theo màu sắc da chứng tỏ
trâu cũng có nhiều chủng loại đa dạng.
c. Phương pháp nêu ví dụ:
* Bước 1: Giáo viên cung cấp mẫu:
Ngày nay đi các nước phát triển, đâu đâu cũng nổi lên chiến dịch chống
thuốc lá. Người ta cấm hút thuốc lá ở tất cả các nơi công cộng, phạt nặng
những người vi phạm (ở Bỉ từ năm 1987, vi phạm lần thứ nhất phạt 40 đôla, tái
phạm phạt 500 đôla).
(Ôn dịch thuốc lá- Nguyễn Khắc Viện).
* Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, phân tích đặc điểm mẫu:
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc mẫu và trả lời các câu hỏi:
(1) Chỉ ra các ví dụ được sử dụng trong đoạn văn trên và nêu tác dụng của
nó trong việc trình bày cách xử phạt những người hút thuốc lá nơi công cộng?
(2) Khi sử dụng phương pháp nêu ví dụ, cần chú ý những điều gì?
* Bước 3: Thực hành theo mẫu:
Giáo viên yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn thuyết minh về đối tượng bất

kỳ, có sử dụng phương pháp nêu ví dụ:
Cây lúa đòi hỏi một lượng nước lớn hơn nhiều so với các cây trồng khác.
Việc gieo trồng lúa là một công việc chứa đựng các yếu tố mâu thuẫn tại một
vài khu vực, chẳng hạn tại Hoa Kỳ và Australia, là các khu vực mà việc gieo
trồng lúa chiếm tới 7% tài nguyên nước của các quốc gia này nhưng chỉ tạo ra
0,02% GDP.
* Bước 4: Nhận xét đánh giá:
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và đánh giá bài làm của bạn:
Gợi ý trả lời: Đối tượng thuyết minh là một loại cây- cây lúa. Đoạn văn sử
dụng phương pháp nêu ví dụ về việc gieo trồng lúa ở Hoa Kỳ và Ausstralia
10
chiếm tới 7% lượng nước của quốc gia nhưng chỉ tạo ra 0,02% GDP. Qua đó
người viết cho thấy cây lúa sử dụng rất nhiều nước.
d. Phương pháp dùng số liệu:
* Bước 1: Giáo viên cung cấp mẫu:
Sản xuất gạo toàn cầu đã tăng lên đều đặn từ khoảng 200 triệu tấn vào năm
1960 tới 600 triệu tấn vào năm 2004. Gạo đã xay xát chiếm khoảng 68% trọng
lượng thóc ban đầu. Năm 2004, ba quốc gia sản xuất lúa gạo hàng đầu là Trung
Quốc( 31% sản lượng thế giới), Ấn Độ( 20%) và Inđônêxia(9%).
* Bước 2: Hướng dẫn học sinh phân tích đặc điểm của mẫu:
Yêu cầu học sinh đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
(1) Đoạn văn trên cung cấp những số liệu nào? Nếu không có số liệu thì có
thể làm sáng tỏ được vấn đề thuyết minh không?
(2) Khi sử dụng số liệu trong phương pháp thuyết minh, phải chú ý điều gì?
* Bước 3: Thực hành theo mẫu:
Học sinh dựa vào mẫu để viết một đoạn văn thuyết minh có sử dụng phương
pháp trên:
Gạo là nguồn thu nhập và cuộc sống của hàng triệu nông dân trên toàn thế
giới. Họ dùng khoảng 150 triệu hecta hàng năm để trồng lúa, với sản lượng
khoảng 600 triệu tấn. Châu Á là nơi sản xuất và cũng là nơi tiêu thụ khoảng

90%lượng gạo toàn thế giới. Châu Phi gần như toàn bộ 38 nước đều trồng lúa,
song diện tích lúa ở Madagasca và Nigieria chiếm 60% tổng diện tích lúa là 8,5
triệu hecta của châu lục này.
*. Bước 4: Nhận xét, đánh giá:
Yêu cầu học sinh quan sát bài làm của bạn và nêu nhận xét, đánh giá.
Gợi ý trả lời:
- Đoạn văn trên thuyết minh về vai trò của gạo đối với thế giới, nhất là
người nông dân.
- Đoạn văn đã sử dụng số liệu minh hoạ: 150 triệu hecta, 600 triệu tấn, 90%
lượng gạo thế giới được tiêu thụ ở châu Á,38 nước châu Phi trồng lúa, tổng diện
tích là 8,5 triệu hecta, Madagasca và Nigieria chiếm 60% tổng diện tích
- Tác dụng: cung cấp số liệu chính xác, thuyết phục người đọc về sự hiện
diện của cây lúa, vai trò của nó trong đời sống nông dân, nhất là khu vực châu
Á, châu Phi .
e. Phương pháp so sánh:
* Bước 1: Giáo viên cung cấp mẫu:
“ Ôn dịch thuốc lá đe doạ sức khoẻ và tính mạng loài người còn nặng
hơn cả AIDS… Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc
gặm nhấm như tằm ăn dâu”.
( Ôn dịch thuốc lá- Nguyễn Khắc Viện)
* Bước 2: Hướng dẫn học sinh quan sát và phân tích đặc điểm của mẫu.
Học sinh đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
(1) Đoạn văn trên sử dụng phương pháp gì? Tác dụng của phương pháp đó?
(2) Muốn sử dụng phương pháp này có hiệu quả phải lưu ý điều gì?
11
* Bước 3: Thực hành theo mẫu:
Yêu cầu học sinh viết đoạn thuyết minh về một đối tượng bất kỳ, có sử dụng
phương pháp so sánh:
Hàng ngàn hòn đảo ở Hạ Long với muôn dáng vẻ khác nhau như những
viên ngọc bích long lanh đính trên chiếc khăn voan xanh biếc. Từ trên cao nhìn

xuống, Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ, sống động với những tác
phẩm tạo hình tuyệt mĩ của tạo hoá
( Bài làm của học sinh)
* Bước 4: Nhận xét đánh giá:
Yêu cầu học sinh đọc đoạn bài làm của bạn và nhận xét
Gợi ý trả lời:
- Đoạn văn thuyết minh về vịnh Hạ Long
- Đoạn văn đã sử dụng phương pháp so sánh: so sánh hàng ngàn hòn đảo với
những viên ngọc bích đính trên chiếc khăn voan xanh biếc; so sánh Hạ Long với
bức tranh thuỷ mặc khổng lồ, sống động.
- Tác dụng: làm cho đối tượng thuyết minh trở nên thơ mộng, gần gũi với
con người, làm nổi bật vẻ đẹp của kỳ quan thiên nhiên thế giới- Hạ Long.
2. Phương pháp dạy thực hành về “ Phương pháp thuyết minh”
Giờ dạy thực hành về phương pháp thuyết minh là việc soi sáng, củng cố lý
thuyết về phương pháp thuyết minh mà học sinh đã được học trước đó, đồng
thời cũng là lúc các em được hình thành và rèn luyện những kĩ năng tạo lập văn
bản thuyết minh theo những phương pháp đã học .
Giờ thực hành về phương pháp thuyết minh được tiến hành theo 3 bước:
2.1. Bước 1: Xác định nội dung lý thuyết.
- Học sinh nắm được các phương pháp thuyết minh cơ bản .
- Nắm được đặc điểm, cách làm, tác dụng của mỗi phương pháp thuyết
minh.
- Vận dụng kiến thức về các phương pháp trong các bài cụ thể.
2.2. Bước 2: Luyện tập dựa trên cơ sở lý thuyết.
Giáo viên xây dựng hệ thống bài tập theo ba mức độ: nhận biết, thông
hiểu, vận dụng (dựa trên nội dụng lý thuyết)
a. Kiểu bài nhận biết:
Đọc đoạn văn thuyết minh sau và cho biết người viết đã sử dụng các
phương pháp thuyết minh nào?
Khu di tích đền Hùng gồm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, lăng vua

Hùng thứ 6, đền Giếng ở phía Đông Nam dưới chân núi Nghĩa Lĩnh( vì trong
đền có Giếng Ngọc, nơi công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa là hai con gái của
vua Hùng thứ 18 thường soi giếng để chải tóc, vấn khăn , nên gọi là đền Giếng).
Gợi ý trả lời: Đoạn văn sử dụng phương pháp liệt kê, giải thích.
b. Kiểu bài thông hiểu:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi nêu bên dưới:
12
CẢNH BÁO TỪ NƯỚC NGỌT CÓ GAS
Một nghiên cứu mới đây trên báo Cancer Epidemiology đã kết luận,
uống nhiều nước ngọt có gas sẽ làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tuỵ. Nghiên cứu
được thực hiện trên 648.387 người Trung Hoa cư trú ở Singapore, được theo
dõi trong 14 năm, tất cả đều tiêu thụ 2 lon nước ngọt có gas hoặc nhiều hơn mỗi
tuần. Và hầu hết đã bị tăng 87% nguy cơ ung thư tuyến tuỵ. Nước ngọt có gas
có mật độ đường cao làm tăng mức insulin trong cơ thể, điều này góp phần vào
sự phát triển tế bào ung thư tuyến tuỵ.
Ngược lại, các nhà nghiên cứu đã không tìm thấy sự liên quan giữa
việc uống nước trái cây và các triệu chứng ung thư tuyến tuỵ. Bởi vì nước trái
cây có ít chất đường, nhiều chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, chúng ta lại ít dùng
loại này so với nước ngọt có gas.
Ung thư tuyến tuỵ là nguyên nhân gây tử vong thứ 4 đối với cả nam lẫn
nữ, chiếm 6% các bệnh ung thư liên quan đến tử vong …
Để bảo vệ sức khoẻ, tránh uống nước ngọt có gas hoặc uống ít hơn 2
lon mỗi tuần để ngăn ngừa nguy cơ phát triển bệnh ung thư tuyến tuỵ. Nên ăn
nhiều trái cây và cà chua. Uống vitamin C và E không có tác dụng giảm nguy
cơ ung thư và có thể phản tác dụng. Bác sĩ chỉ khuyên bệnh nhân dùng nước
ngọt có gas sau khi phẫu thuật, do sự tác động của khí carbonic trong nó lên
lưỡi và thực quản giúp kích thích dạ dày, gây ra động tác “ợ”.
( Báo Thanh Niên)
- Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không? Vì sao?
- Văn bản trên đã sử dụng những phương pháp thuyết minh nào?

- Em rút ra được kinh nghiệm gì khi sử dụng các phương pháp thuyết
minh?
Gợi ý trả lời:
- Văn bản trên là văn bản thuyết minh vì nó cung cấp cho người đọc
nhiều tri thức khoa học khách quan về những tác hại của nước ngọt có gas, từ đó
giúp người đọc có sự hiểu biết để bảo vệ sức khoẻ cho bản thân và cho những
người xung quanh.
-Văn bản trên đã sử dụng nhiều phương pháp thuyết minh khác nhau:
so sánh, nêu số liệu, giải thích…
-Có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh trong một
văn bản thuyết minh. Các phương pháp sẽ làm cho đối tượng thuyết minh được
trở nên rõ ràng, có sức thuyết phục đối với người đọc( nghe)
c. Kiểu bài vận dụng:
Giáo viên đưa ra đề bài cho học sinh tiến hành luyện tập:
Đề bài: Thuyết minh về con trâu trong công việc nhà nông
Dựa vào kiến thức lý thuyết chung về dạng bài thuyết minh về loài vật,
học sinh trao đổi với nhau để lập dàn ý chi tiết cho bài thuyết minh về con trâu.
Mở bài: Giới thiệu chung về con trâu: một con vật rất quen thuộc trong
đời sống, công việc của người nông dân Việt Nam từ xưa tới nay.
Thân bài:
13
- Đặc điểm chung của loài trâu
- Những bộ phận cơ thể đặc trưng nhất .
- Tập tính sinh trưởng của loài, quá trình tiến hoá.
- Cách nuôi dưỡng, chăm sóc
- Lợi ích, giá trị, ý nghĩa của loài vật đó trong đời sống con người.
Kết bài: Nhấn mạnh ý nghĩa của loài vật đó đối với con người
Sau khi tạo lập dàn ý chi tiết,học sinh viết các đoạn văn để tạo văn bản hoàn
chỉnh sao cho đúng yêu cầu đã nêu ra. Chú ý các em khi viết phải kết hợp nhiều
phương pháp thuyết minh.

Bài viết của học sinh:
Con trâu là con vật rất quen thuộc, thân thiết, gắn bó với nhân dân ta. Nó
giúp người nông dân Việt Nam trong lao động và sản xuất. Chính vì thế mà
cha ông xưa vẫn đánh giá nó là “đầu cơ nghiệp” đối với nhà nông.
Trâu thuộc lớp động vật nhai lạivà rất dễ nuôi. Nó mang lại cho nhân dân nhiều
lợi ích. Con trâu có bộ lông màu đen hoặc xam xám. Đôi khi cũng có con màu
trắng nhưng rất ít. Nó đi bằng bốn chân, nó thích nghi với cả môi trường nước
và cạn. Đầu nó đặc biệt với chiếc mồm nhô ra, hàm răng khoẻ như một chiếc
máy nghiền. Đôi mắt to. Đặc trưng nhất là đôi song dài cong cong, cứng cỏi,
vừa hiên ngang vừa nặng nề, vướng víu. Tuy nó sống trên cạn nhưng khi trời
nắng, nó thường tới những nơi có nước để ngâm mình.
Hai chân trước của nó ngắn hơn hai chân sau, mỗi chân gồm hai móng. Ở
giữa là khối thịt đệm nhỏ để bảo vệ cặp móng. Khi trâu ăn, lưỡi trâu đảo thức
ăn qua lại. Hai hàm nghiến rào rạo, trông vừa ngon lành vừa khoẻ khoắn. Đây
là loài nhai lại nên gần như lúc nào ta cũng thấy chúng ăn. Lúc vội vã thì ăn
qua quýt, lúc thư thả thì nhai lại chậm rãi, nghiền ngẫm. Bộ da trâu rất cứng và
dày, vừa để tránh rét khi lạnh, tránh nắng khi nóng, vừa để bảo vệ nó nữa. Mỗi
năm trâu cái sinh một con. Thú vị nhất là ở chỗ, mẹ được gọi là trâu nhưng con
lại gọi là nghé.
Trâu có rất nhiều lợi ích trong sản xuất và lao động đối với nông dân. Nó là
sức kéo chủ yếu giúp nhà nông cày, bừa, thu hoạch. Ngày nông nhàn cũng chả
thiếu việc , nó chở gỗ, gạch, ngói…để xây nhà. Rồi trăm nghìn công việc khác.
Nó giúp con người giảm bớt công sức lao động. Nó cho con người nguồn thực
phẩm thịt, sừng và da làm hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Nó luôn gần gũi, thân
thiết với người lao động. Trâu không giống bò, nó không cho sữa nhưng nó
mạnh hơn, khoẻ hơn. Trâu giúp người dân nhiều lợi ích nên người ta rất yêu
quý nó. Tình cảm của người nông dân đối với nó thật là tha thiết bởi lòng biết
ơn và yêu quý như người thân.Từ xưa cha ông ta đã biết nói với con trâu:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta

Và họ đã thể hiện tấm lòng yêu quý và chung thuỷ với con trâu:
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
14
Hiện nay tuy nước ta có nền nông nghiệp đã được kết hợp với máy móc hiện
đại nhưng trâu vẫn là con vật thân thuộc đối với mọi người. Nó là hình ảnh đã
đi sâu vào tình cảm của người dân Việt Nam. Hình ảnh của nó có trong ca dao,
dân ca và cả trong các loại hình nghệ thuật khác.
*Nhận xét, đánh giá:
- Người viết đã cho người đọc những hiểu biết về loài trâu với nhiều thông
tin, chính xác, khách quan và cũng rất thú vị.
- Bài làm đã sử dụng một số phương pháp thuyết minh: định nghĩa, so
sánh, liệt kê…
2.3. Bước 3: Nhận xét, đánh giá:
a. Ưu điểm:
- Các vấn đề đưa ra tuân thủ theo mức độ từ dễ đến khó và phù hợp với nội
dung lý thuyết.
- Rèn được cho học sinh kỹ năng nhận diện, phát hiện và luyện viết văn
thuyết minh.
- Các em học sinh không bị nhầm lẫn giữa các phương pháp và vận dụng
khá thành thạo trong bài viết của mình.
- Ở kiểu bài nhận diện, phát hiện, đa số các em tìm và gọi tên đúng các
phương pháp thuyết minh và nêu được tác dụng của chúng.
- Ở kiểu bài vận dụng, các em biết vận dụng tổng hợp các kiến thức về văn
thuyết minh để làm bài như: tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn…
- Cũng có nhiều bài làm của học sinh tương đối công phu trong việc tìm tòi
tài liệu, không bị nhầm sang các phương thức biểu đạt khác.
b. Hạn chế:
- Một số bài của học sinh còn chưa biết sắp xếp theo trình tự hợp lý nên bài
thuyết minh còn lan man, trùng lặp.

- Học sinh giỏi và học sinh xuất sắc chưa thực sự được phân loại.
IV. KIỂM NGHIỆM
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng bài làm của một số lớp khối 10-
trường THPT Bỉm Sơn- Thanh Hoá sau khi tổ chức thực hiện giải pháp vấn
đề trên như sau:
Lớp
0-5điểm 5-6,5điểm 6,5- <8điểm 8-10điểm
SL % SL % SL % SL %
10C5
40HS
2 5 14 35 20 50 4 10
10C6
44HS
5 11,3 16 36,3 20 45,4 3 7
10C9
44HS
3 7 16 36,3 22 49,7 3 7
15
KẾT LUẬN
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập
của học sinh là một quá trình lâu dài. Không thể ngày một, ngày hai mà đông
đảo giáo viên từ bỏ được kiểu dạy học truyền thụ kiến thức theo kiểu tiếp thu
thụ động đã quen thuộc từ trước. Việc phát triển các phương pháp dạy học tích
cực đòi hỏi cả thầy và trò phải tìm hiểu, nghiên cứu, phải mất nhiều thời gian,
công sức hơn, nghĩa là phải làm việc nhiều hơn. Ví dụ như để hướng dẫn học
sinh cách nắm bắt phương pháp nói chung và phương pháp thuyết minh nói
riêng, người giáo viên phải tìm hiểu, nghiên cứu về phương pháp giảng dạy sao
cho hiệu quả tốt nhất.
Trước hết giáo viên phải cung cấp cho học sinh những mẫu cụ thể để
qua mẫu các em hình dung đến những yêu cầu về phương pháp thuyết minh phù

hợp với đối tượng. Giáo viên cũng cần có phương pháp phân tích mẫu để hình
thành cho học sinhkhái niệm lý thuyết. Từ lý thuyết được tiếp nhận, người giáo
viên cũng cần được quan tâm đến quá trình thực hành luyện tập của các em để
qua đó có những sự tự đánh giá về hiệu quả giảng dạycách vận dụng phương
phápthuyết minh phù hợp với đối tượng. Chính sản phẩm, bài viết của các em là
căn cứ đẻ người giáo viên đánh giá phương pháp giảng dạy của mình. Từ đó có
thể rút được kinh nghiệm quý báu trong quá trình giảng dạy văn thuyết minh nói
riêng và giảng dạy Tập làm văn nói chung.
Bên cạnh đó, trong thực tiễn, việc áp dụng phương pháp dạy học sinh
cách nắm bắt và vận dụng phương pháp thuyết minh trong văn thuyết minh là
yêu cầu cần thiết được đặt ra. Nếu người giáo viên hình thành được cho học
sinhkĩ năng vận dụng phương pháp thuyết minh hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho
các em viết tốt bài tập làm văn thuyết minh. Từ đó khắc phục được một trong
những điểm còn hạn chế trong việc viết bài của học sinh là viết lan man, thiếu ý
hoặcn đối tượng thuyết minh chung chung, thiếu độ tin cậy, khách quan…
Như vậy, để nâng cao chất lượng học tập làm vănnói chung và văn
thuyết minh noí riêng cho học sinh, người giáo viên cần đổi mới phương pháp
giảng dạy, tìm ra những cách dạy đổi mới, hiệu quả. Đặc biệt, đối với kiểu văn
bản mới đưa vào chương trình là văn thuyết minh thì người giáo viên càng cần
học tập và nghiên cứu để rút ra những điều cần thiết, bổ ích cho hoạt động dạy
học của mình. Người giáo viên cần ý thức được rằng, để học sinh có thể tạo
được một bài văn thuyết minh thì người giáo viên cần phải có sự chỉ đạo, hướng
dẫn chứ không phải làm thay cho học sịnh. Chính vì vậy, cần hình thành cho học
sinh các kĩ năng cần thiết khi viết bài tập làm văn thuyết minh để đảm bảo cho
các em có thể vận dụng linh hoạt vào các dạng bài văn thuyết minh khác nhau.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, do điều kiện thời gian có hạn, mà vấn
đề khá phức tạp, bản thân chỉ giải quyết được một phần nào đó của vấn đề, đề tài
đưa ra. Tôi rất mong nhận được những lời đóng góp của bạn bè đồng nghiệp để
cùng tiếp tục suy nghĩ hoàn thiện với mục đích góp phần vào việc đưa chất
lượng dạy học Làm văn ở trường THPT đạt kết quả tốt hơn.

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK và SGV Ngữ Văn 10, NXB Giáo dục, năm 2006.
2. Thiết kế Ngữ Văn 10, NXB Giáo dục, năm 2008
3. Phương pháp dạy học Ngữ văn tập 1,2- Phan Trọng Luận, NXB ĐHSP
2007
4. Phương pháp dạy học Ngữ văn- Nguyễn Viết Chữ- NXB ĐHSP
5. Thực hành Làm văn lớp 10- Lê A- NXB Giáo dục, năm 2009
6. Kinh nghiệm viết một bài văn- Nguyễn Đăng Mạnh- NXB
Giáo dục, năm 2007
7. Một số bài làm văn của học sinh lớp 10 Trường THPT Bỉm Sơn- Thanh
Hoá
17
MỤC LỤC
TT Nội dung Trang
A. Đặt vấn đề 1
B. Giải quyết vấn đề 2
I Cơ sở lý luận của vấn đề 2
1 Phân biệt văn thuyết minh với các kiểu văn tự sự, miêu tả, biểu
cảm, nghị luận
2
2 Các dạng văn thuyết minh 2
3 Các yêu cầu của văn thuyết minh 3
4 Các phương pháp thuyết minh 4
5 Quy trình làm bài văn thuyết minh 5
II Thực trạng của vấn đề 5
III Giải pháp và cách tổ chức thực hiện vấn đề 6
1 Phương pháp dạy lý thuyết “Phương pháp thuyết minh” 6
1.1 Nhận thức chung 7
1.2 Minh họa 7

2 Phương pháp dạy thực hành về “Phương pháp thuyết minh” 12
2.1 Bước 1: Xác định nội dung lý thuyết 12
2.2 Bước 2: Luyện tập dựa trên cơ sở lý thuyết 12
2.3 Bước 3: Nhận xét, đánh giá 15
IV Kiểm nghiệm 15
C. Kết luận 16
18
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT BỈM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN THUYẾT MINH
CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT
Người thực hiện: Trịnh Thị Thanh Hải
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Ngữ Văn
THANH HOÁ NĂM 2013
19
20

×