Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.94 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING

BÀI THẢO LUẬN
CASE 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC PHẨM CHẤT
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CASE 1: HỒ CHÍ MINH TIẾP THU TINH HOA VĂN HỐ
NHÂN LOẠI
NHĨM

:7

LỚP HỌC PHẦN

: 2322HCMI0111

MƠN HỌC

: Tư tưởng Hồ Chí Minh


Hà Nội – 2023

MỤC LỤC
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ...................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................4
CASE 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG.................................................................................................................................5
Chương 1: Phân tích các chuẩn mực đạo đức mới theo tư tưởng hồ chí minh........5
1.1.  Phân biệt đạo đức cũ và đạo đức mới theo quan điểm Hồ Chí Minh............5
1.2.  Phân tích các chuẩn mực đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.............6


Chương 2: Liên hệ những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh đối với sinh viên
Trường Đại học Thương mại......................................................................................14
2.1. Thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư” nêu cao
phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới..................................................14
2.2. Yêu thương mọi người, phải đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ......................................................................................................15
CASE 1: HỒ CHÍ MINH TIẾP THU TINH HOA VĂN HỐ NHÂN LOẠI...........16
1. Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.................................................16
1.1. Học thuyết Nho giáo của Khổng Tử.................................................................16
1.2. Thiên chúa giáo của Giêsu................................................................................19
1.3. Học thuyết Tam dân của Tôn Dật Tiên...........................................................21
1.4. Chủ nghĩa Mác - Lênin......................................................................................24
2. Cách thức Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại..............................29
2.1. Tiếp thu trên cơ sở đã thấm đẫm các giá trị truyền thống tốt đẹp dân tộc
Việt Nam....................................................................................................................29
2.2. Kế thừa, phát triển sáng tạo những điểm tích cực..........................................30
2.3. Phê phán và đấu tranh loại bỏ những tư tưởng tiêu cực................................31
2.4. Cải biến để phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc và nhu cầu đất nước
.....................................................................................................................................32
KẾT LUẬN......................................................................................................................34


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
ST

HỌ VÀ TÊN

NHIỆM VỤ

T

1

Trương Tuyết Nhi

Làm đề cương chi tiết

(Nhóm trưởng)

đề tài phụ

2

Lê Minh Phương

Làm Powerpoint

3

Nguyễn Quang Nhật

Làm nội dung phần
2.1

4

Quách Thị Bảo Ngọc

Thuyết trình

5


Vũ Thị Oanh

Thuyết trình

6

Nguyễn Thị Phượng

Làm nội dung phần
2.4 + 2.5

7

Trần Thị Thu Phương

Lời mở đầu, Kết luận
+ Làm Word

8

Nguyễn Thị Nhung

Làm nội dung phần
2.2 + 2.3

9
10

Công Thu Phương

Phan Hồng Nhung

Phản biện
Làm Powerpoint


LỜI MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay, việc tu dưỡng đạo đức cách mạng vẫn luôn được đánh giá là vô
cùng quan trọng đối với toàn bộ người dân người Việt Nam. Vậy, hiện nay chuẩn mực
về đạo đức cách mạng là gì chắc hẳn là một vấn đề rất được quan tâm. Trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được mà Người nêu ra là phù hợp
với từng đối tượng. Hơn nữa, Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác
cũng là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định.
Có thể nói những phẩm chất đạo đức đó là những phẩm chất chung, cơ bản nhất của
con người Việt Nam, đồng thời là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới,
đạo đức cách mạng Việt Nam mà mọi người cần được bồi dưỡng, giáo dục trong thời
đại này. Vậy nên, việc liên hệ bản thân về đạo đức cách mạng theo tấm gương Hồ Chí
Minh đóng vai trị và ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi vì, nó sẽ giúp chúng ta biết, mình
đã thực sự noi gương triệt để theo những quan điểm về đạo đức của Bác chưa, từ đó
đưa ra những sửa đổi trước khi q muộn. Chính vì thế, nhóm chúng em đã cùng nhau
tìm hiểu quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đồng thời liên hệ
đến đạo đức của sinh viên Đại học Thương mại.


CASE 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG
Chương 1: Phân tích các chuẩn mực đạo đức mới theo tư tưởng hồ chí minh
1.1.  Phân biệt đạo đức cũ và đạo đức mới theo quan điểm Hồ Chí Minh
1.1.1. Đạo đức cũ
Trong Bài nói chuyện tại Trường chính trị trung cấp quân đội (25-10-1951), Hồ Chí

Minh chỉ rõ: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời.” Đạo đức
cũ mà Hồ Chí Minh nhắc đến ở đây là đạo đức thực dân, phong kiến là thứ đạo đức ích
kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người, tàn phá con người. Đạo đức cũ này đã được sử dụng
để kiểm soát và đàn áp người dân Việt Nam, tàn phá sức khỏe và đời sống của họ.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cũ này đã kìm hãm trói buộc con người và làm họ không thể
phát triển được. Hệ thống đạo đức này tập trung vào quyền lợi cá nhân và tầm nhìn ngắn
hạn, khơng quan tâm đến lợi ích của cộng đồng và sự phát triển bền vững. Đạo đức cũ
còn bao gồm những giá trị vô lý và phi khoa học, như quan niệm về tín ngưỡng, phong
tục, tập quán... Nó tạo ra sự mất cân bằng trong xã hội, khiến cho những người có quyền
lực sử dụng nó để áp đặt và kiểm sốt người khác.
Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức cũ là một rào cản lớn đối với sự phát triển của xã hội,
đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang trải qua giai đoạn đấu tranh giành độc lập và tự
do. Người cho rằng đạo đức cũ khơng chỉ làm chậm tiến trình phát triển của xã hội mà
còn ảnh hưởng tiêu cực đến tâm hồn và sự phát triển tinh thần của con người.
Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, để xây dựng một xã hội công bằng, tự do và phát triển,
chúng ta cần phải xóa bỏ đạo đức cũ và thay thế nó bằng một hệ thống đạo đức mới, dựa
trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ quyền con người, sự bình đẳng, tình đồn kết và tình u
thương.
1.1.2. Đạo đức mới


Trong Bài nói chuyện tại Trường chính trị trung cấp quân đội (25-10-1951), Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “ Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên
trời”.
Đạo đức mới là đạo đức cách mạng, đạo đức của người cách mạng trong thời kỳ giải
phóng dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là đạo đức vì dân tộc, vì
nhân dân, vì con người. 
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng khác với đạo đức
cũ về chất. Đạo đức mới là sự kết hợp giữa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với
đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Nền đạo

đức ấy ngày càng phát triển cùng với sự vận động của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở
thành một bộ phận hết sức quan trọng khắc họa bộ mặt của nền văn hóa Việt Nam. Nó đã
trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hịa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc khác trên
thế giới.
Đây là đạo đức vĩ đại, bởi lẽ, đạo đức đó “... khơng phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của lồi người”. Đạo đức mới đã lật ngược lại các
kiểu đạo đức cũ của giai cấp thống trị, áp bức bóc lột nhân dân lao động. Đạo đức mới
xóa bỏ những chuẩn mực đạo đức phong kiến vẫn ln ln trói buộc nhân dân lao động
vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ chế độ đẳng cấp, tôn ti trật tự hết sức hà khắc của xã
hội phong kiến.
1.2.  Phân tích các chuẩn mực đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức mới gồm những chuẩn mực đạo đức sau:
1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân,
với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Theo Hồ Chí Minh Trung, hiếu là phẩm chất quan
trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ quan niệm cũ “ trung với
vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đơng,
Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cao rộng hơn là “ trung với nước, hiếu với
dân”, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con cái đối với cha mẹ.


Theo Người, “trung” là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc,
với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... “Nước” ở đây với ý nghĩa "Dân là con nước,
nước là mẹ chung", là nước của dân, của tồn dân tộc chứ khơng phải của riêng ai và
chính mỗi người dân là những "chủ nhân" của đất nước. Mối quan hệ nước-dân, dânnước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Nội dung chủ yếu của trung với nước bao gồm:



Đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.



Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.



Thực hiện tốt chủ trương, chính sách  của Đảng và Nhà nước.

Về chữ “hiếu”, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân không phải chỉ là hiếu
với cha mẹ mình  như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với tồn dân tộc,   vì
"nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Bác Hồ từng chỉ rõ: "Trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân... Trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ
cho lợi ích của nhân dân"; "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như
thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành
tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà... đạo đức ngày
nay cao rộng hơn: khơng phải chỉ có hiếu với bố mẹ, mà phải trung với nước, hiếu với
dân".
Nội dung của hiếu với dân bao gồm:


Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.



Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.




Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.



Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân.

Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Người khẳng định: Trung với
nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng


đánh thắng. Câu nói của Bác vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị,
đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không phải chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc mà còn lâu dài mãi về sau.
Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong
mọi công việc cách mạng của Đảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ,
đảng viên  và mỗi người dân. Vì vậy, trong suốt quá trình xây dựng Đảng, lãnh đạo cách
mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao tinh thần trung, hiếu ở mỗi người
dân Việt Nam yêu nước nói chung,  cán bộ, đảng viên  nói riêng, và địi hỏi họ phải ln
ghi sâu trong lòng những chữ "trung với nước, hiếu với dân".
Khi Đảng ta được thành lập, Người luôn nhắc nhở : "Mỗi người đảng viên, mỗi người
cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân
dân”. Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn dân vừa kháng chiến vừa
kiến quốc dù ở đâu dù làm gì, Người cũng chỉ tâm niệm một điều rằng: "Đảng ta là
Đảng cách mạng. Ngồi lợi ích của nhân dân, Đảng ta khơng có lợi ích gì khác", "Chính
sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân"...  Vì
vậy, Người ln chỉ rõ cho mọi người thấy và hiểu rõ vấn đề cốt lõi của đạo đức cách
mạng là: “Việc gì  lợi cho dân phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân phải hết sức tránh.”

''bao nhiêu quyền hạn đều của dân'', ''bao nhiêu lợi ích đều vì dân''.
 Sau Đại thắng Mùa Xuân 1975, nhân dân cả nước cùng chung sức xây dựng đất nước.
Hậu quả nặng nề sau chiến tranh và những biến động sâu sắc của tình hình thế giới đã 
dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài, đời sống của nhân dân gặp nhiều
khó khăn. Khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ của Đảng là lãnh đạo
quần chúng chiến thắng  nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân, một lần nữa tinh thần "trung với nước, hiếu với dân" của đội ngũ những người
cách mạng được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Trung với nước, hiếu với dân trong giai đoạn hiện nay trước hết là trung thành với con
đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã chọn, là trung thành với sự nghiệp đổi mới
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; là sự
thể hiện lương tâm và trách nhiệm của mỗi người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.


Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu với dân còn đối
với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng ''điều chủ chốt nhất'' của đạo đức cách
mạng là ''tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân'', là ''trung với nước, hiếu với
dân'', hơn nữa phải là ''tận trung, tận hiếu'' thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa
là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng hiếu với dân khơng cịn dừng lại ở chỗ
thương dân mà cịn phải phục vụ hết lịng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân,
kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc.
1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người, là đại cương
đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần,
kiệm, liêm, chính nhưng khơng bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để phụng
sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện
làm gương cho nhân dân là để đem lại hạnh phúc cho dân. Với ý nghĩa như vậy cần, kiệm
liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất
“trung với nước, hiếu với dân”.

Cũng như khái niệm “Trung, Hiếu”, “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ ” cũng là
những khái niệm cũ trong truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội
dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh thì:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao,
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của
chúng ta”.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của đất
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại
thành cái to, “không xa xỉ, không hoang phí, khơng bừa bãi”, khơng phơ trương hình
thức, khơng liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của cơng và của dân”, “khơng xâm phạm một
dồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”.


“Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Khơng ham người
tâng bốc mình. Vì vậy, mà quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ hóa”.
Chính nghĩa là “khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: khơng tự cao, tự đại,
ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều
dở của bản thân mình. Đối với người: khơng nịnh hót người trên, khơng xem khinh người
dưới, ln giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là “tứ đức” khơng thể thiếu được của con
người. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì khơng thành trời
Thiếu một phương thì khơng thành đất

Thiếu một đức thì khơng thành người”.
Chí cơng vơ tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư là để người cách mạng vững
vàng qua mọi thử thách : “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay,
uy vũ khơng thể khuất phục”. Bác nói: “Đem lịng chí cơng vơ tư mà đối với người, với
việc”. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình
nên đi sau”, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Nếu bài học về đạo đức cách mạng đầu tiên trong cuốn Đường Kách Mệnh, Người chỉ đề
ra những nguyên lý chung thể hiện mối quan hệ giữa ba khía cạnh, phản ánh mối quan hệ
đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà người cách mạng cần quán triệt trước tiên, đồng
thời nêu cao việc tu dưỡng đạo đức cách mạng; thì ngay trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Người đã đề ra những nguyên tắc về hành
vi đạo đức cách mạng đối với người có chức, có quyền trong Chính phủ từ tồn quốc đến
các làng, Người đề nghị: “Mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách
thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính” để “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động”.


Người coi Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của
con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của dân tộc ta. Đây
là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên nhất với một nội dung
đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất
quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi con
người và có quan hệ mật thiết với tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. Người từng nói:
“Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, khơng
có gì là khó cả. Điều đó hồn tồn do lịng mình mà ra. Lịng mình chỉ biết vì Đảng, vì
Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí cơng, vơ tư. Mình đã chí cơng, vơ tư thì
khuyết điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm”. Có thể thấy rằng từ
các khái niệm đạo đức cũ như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã đưa vào đây nội
dung đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo quan niệm mới, với một nội dung hoàn

toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan hệ một cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính sẽ dẫn đến Chí cơng vơ tư; ngược lại, đã Chí cơng vơ tư, một
lịng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được Cần, Kiệm, Liêm, Chính và
có được nhiều tính tốt khác. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người vẫn còn căn dặn:
"Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân". Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gần tám thập kỷ qua có vai trị to lớn của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước thì sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người lại càng trở nên
quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Vậy là khái niệm Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vô tư đúng là gốc của con người.
Con người, trong đó đặc biệt là người cán bộ đảng viên có gốc ấy thì người vững, nếu
gốc ấy mục ruỗng tất yếu con người sẽ đổ. Bác Hồ đã dự báo một cách khoa học, sáng
suốt và thiên tài về tư tưởng đạo đức cần, kiệm, liêm, chính đối với bất cứ Đảng cộng sản
cầm quyền nào, vì: đạo đức này có tính định mệnh tới sự thắng lợi, tồn vong, hưng thịnh,
sự suy yếu thất bại của đảng cầm quyền; Đó là sức mạnh của đảng - sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa.


Ở quan điểm của Bác thì Cần, Kiệm, Liêm, Chính là thước đo giá trị giàu có, là nền tảng
của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước. Một dân tộc biết Cần, Kiệm,
Liêm, Chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh,
tiến bộ. Để làm được đúng lời căn dặn của Bác “mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, thì lúc này phải thắng được “giặc nội xâm”, “giặc
quốc nạn” loại giặc vơ ảnh, vơ hình là tên giặc tham nhũng ở ngay trong lịng mình, trong
tổ chức mình. Vì loại giặc này đang rình rập phá hoại Đảng, phá hoại chế độ và sẽ làm
cho Đảng hỏng, nếu mỗi cán bộ đảng viên khơng thắng được nó.
1.2.3. Thương u con người, sống có tình có nghĩa

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản,
tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thập niên, cùng với việc thể nghiệm
chính bản thân mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình thương u
con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới
đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà Hồ Chí Minh sẵn
sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc
cho con người.
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết dành cho
những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột
khơng phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu khơng có tình u thương như vậy
thì khơng thể nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư tưởng lớn, là
mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh,đã được thể hiện ở sự ham muốn tột bậc của Người
là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên
nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức
và là lý tưởng nhân văn của Người.


Tình thương u con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập trường của
giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh
em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực. Nó địi hỏi mỗi người phải chặt chẽ
và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha đối với người khác; phải
có thái độ tơn trọng những quyền của con người, tạo điều kiện cho con người phát huy tài
năng; nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ khơng phải là thái độ
“dĩ hịa vi quý”, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Bằng hành động
và ứng xử của mình, Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm người là phải
biết yêu thương và sống với nhau có tình có nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, “hiểu chủ nghĩa

Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Trong Di chúc,
Người viết: “Đầu tiên là cơng việc đối với con người,… Phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau”.
1.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản
chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân, nhằm vào mối
quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia - dân tộc.
Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần
nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí
Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tơn trọng, hiểu biết, thương u và đồn kết với
giai cấp vơ sản tồn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân
các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất
bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, sơvanh, biệt lập
và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường, nhưng ln ln kêu gọi phải tăng cường đồn kết và hợp tác quốc tế,
đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế của Hồ
Chí Minh theo tinh thần quốc tế trong sáng:
“Quan sơn muôn dặm một nhà,


Bốn phương vô sản đều là anh em!”
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày cơng xây đắp tinh thần
đồn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan
hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hóa hịa bình cho
nhân loại; đó là di sản thời đại vơ giá của Người về hịa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển
giữa các dân tộc.
Chương 2: Liên hệ những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh đối với sinh viên
Trường Đại học Thương mại

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức trong sáng của Người có một vị
trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, là nhân tố có ý nghĩa to lớn trong công
cuộc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
Trong đó, đặc biệt chú ý là những quan điểm của Người về đạo đức thanh niên và giáo
dục đạo đức cho thanh niên, Người luôn coi đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối
với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Điều này được Người căn dặn rất rõ
trong Di chúc: “... Thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong,
khơng ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết.” Chính vì vậy, xây dựng đạo đức, lối sống cho thanh niên Việt Nam là điều rất quan
trọng và cần thiết bởi đạo đức là cái gốc, là vấn đề có ý nghĩa quyết định của việc xây
dựng con người mới. Đạo đức là ra sức thực hiện “ cần, kiệm, liêm, chính” và có “tình
u thương con người”.
2.1. Thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư” nêu cao phẩm
giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Mỗi sinh viên cần hiểu rõ mối quan hệ gắn kết giữa “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính”.
“Cần” mà khơng “kiệm” thì như cái thùng không đáy, làm bao nhiêu hết cần đấy; khơng
“kiệm” ắt sẽ khơng “liêm”, vì cần tiền để xa xỉ nên mới sinh tham lam, bòn rút của tập
thể; không “liêm” tức là sẽ làm những việc tà, bất “chính”.
Phấn đấu nỗ lực học tập và rèn luyện với tinh thần lao động sáng tạo, thu lượm kiến thức
đạt chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của


nhân dân; khơng xa hoa, lãng phí, khơng phơ trương, hình thức; biết sử dụng tài sản của
tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
Mỗi sinh viên Trường Đại học Thương Mại phải góp phần xây dựng một nền giáo dục
trong sạch cho nước nhà. Không chỉ “liêm” cho bản thân mà còn phải “liêm” cho người
khác. Đi “chùa thầy”, “chùa cô” là đã làm cho thầy cô khơng “liêm” mà bản thân mình là
đã làm những việc khơng “chính”. Mỗi sinh viên cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại

tình trạng đó. Phải “cần” để có kết quả tốt chứ khơng được làm việc “tà” để có những
điểm số khơng phải của mình.
Thực hiện chí cơng, vơ tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng.
Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo
vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, khơng bao
che, giấu giếm khuyết điểm.
Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng,
lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói khơng đi đơi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao
đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có
lợi cho mình thì "hăng hái", tranh thủ kiếm lợi, việc gì khơng "kiếm chác" được cho riêng
mình thì thờ ơ, lãnh đạm. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội
2.2. Yêu thương mọi người, phải đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ
Dân tộc ta có truyền thống “lá lành đùm là rách”, đó là truyền thống đạo đức của cả dân
tộc, mỗi sinh viên Việt Nam cần phải phát huy truyền thống tốt đẹp đó. Yêu thương mọi
người là phải chia sẻ, giúp đỡ bạn bè mình cùng tiến bộ. Một người giỏi giúp một người
yếu được hai người giỏi, hai người giỏi giúp hai người nữa được bốn người giỏi, bốn
người giỏi sẽ được tám người giỏi. Cứ như vậy cả lớp sẽ giỏi, lớp nào cũng vậy thì cả
trường sẽ giỏi, trường nào cũng vậy thì mọi sinh viên đều giỏi. Sinh viên, thanh niên là
những người chủ tương lai của đất nước, nhất định đất nước ta sẽ “giỏi”, sẽ giàu, sẽ
mạnh.
Yêu thương nhưng phải tránh bao che, giấu diếm, cổ súy sai phạm cho nhau. Phải thẳng
thắn góp ý, khéo léo phê bình để cùng nhau rút kinh nghiệm, giúp nhau tiến bộ hơn. Yêu


thương là phải thông cảm và biết bỏ qua lỗi lầm cho nhau, cho người phạm lỗi có cơ hội
được sửa sai và làm lại.

CASE 1: HỒ CHÍ MINH TIẾP THU TINH HOA VĂN HỐ NHÂN LOẠI

1. Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
1.1. Học thuyết Nho giáo của Khổng Tử
1.1.1. Khổng tử
Khổng Tử ( Khổng Phu Tử ) được hậu thế tơn kính gọi là Khổng Khâu hay Khổng Khưu.
Tự là Trọng Ni, Ông sinh ngày 28/9 năm 551 TCN mất vào khoảng ngày 4/11 năm 479
TCN. Những thụy hiệu được truy phong là: Bảo thành tuyên Ni công, Văn Tuyên vương,
Đại thánh Văn Tuyên vương, Chí thánh tiên sư, Đại thành chí thánh Văn Tuyên vương
Thánh sư.
Khổng Tử sống ở thời nhà Chu, một thời kỳ của những cuộc xung đột chính trị - xã hội,
chính vì vậy mà thời kỳ này cịn được gọi là thời chiến quốc. Tại Trung Quốc, Nho giáo
hay còn gọi là Khổng giáo thịnh hành vào thời Hán Vũ Đế khơng chỉ vậy mà cịn trở
thành hệ tư tưởng chính thống về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2000
năm. Từ thế kỉ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Cơ sở của Nho giáo được thành lập từ thời Tây Chu,
đặc biệt với sự đóng góp của Chu Cơng Đán, cịn được gọi là Chu Cơng. Đến thời Xuân
Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) phát kiến tư tưởng
của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá tư tưởng đó. Chính vì thế mà người
đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo.
1.1.2. Học thuyết Nho giáo 
Nho Giáo  là một Tơn giáo hay một học thuyết có hệ thống và có phương pháp, dạy về
Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm người trong gia đình và trong xã hội. Hệ thống của Nho
giáo thì theo chủ nghĩa: “Thiên địa vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời đất và muôn vật
đều đồng một thể. Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý
lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu:




Về Tín ngưỡng: Ln luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là: Trời và Người
tương quan với nhau.

Về Thực hành: Lấy sự chứng minh làm trọng.
Về Trí thức: Lấy trực giác làm cái khiếu để soi sáng thấy rõ sự vật.


Nếu ai đã hiểu tường tận Tôn giáo duy nhất của Nho giáo thì đều cơng nhận Nho giáo là
một Tôn giáo rất cao minh của nhân loại, đã phát huy ra từ xưa đến nay. Tuy rằng người
ta đặt ra thi hành khơng được trọn vẹn, và có nhiều người hiểu lầm, song ai đã tâm đắc
cái tinh thần ấy thì cũng đạt được một nhân cách quý trọng đặc biệt.
Nho giáo bắt nguồn từ thời thái cổ ở nước Tàu. Thuở ấy, vua Phục Hy là Thánh Vương
đắc đạo, được xem là hiện vật trong cõi Hư Linh. Ngài nhìn thấy Long Mã có bức đồ trên
lưng gồm những chấm đen trắng, nổi lên giữa sơng Hồng Hà, nào biết được làm Dương,
chế ra Tiên Thiên Bát Quái, chuyển nghĩa biến hóa của Trời Đất để làm nguyên tắc dạy
dỗ người. Những vạch đơn giản của Bát Quái được coi là đầu mối của các văn tự về sau
này.
Đạo Nho, kể từ khi Đức Khổng Tử phục hưng, nối tiếp về sau được các Thánh nhân như
Tử Tư, Mạnh Tử, phát huy đến mức rực rỡ, rồi sau đó dần dần suy tàn theo thời gian, vì
khơng có bậc tài giỏi nối tiếp dương dương, cuối cùng trở thành một môn học từ chương
dành cho sĩ tử leo lên đường xá. Cái tinh túy của Nho giáo đã bị lấp đầy và Nho giáo
được sử dụng một cách loạn lạc theo ý riêng của kẻ phàm trần.
Đạo đức nho giáo là sự thể hiện những yêu cầu, những nguyên tắc sống do cuộc sống xã
hội đặt ra mà người Trung Quốc cổ đại phải tuân theo. Tư tưởng đạo đức Nho gia tập
trung vào các khía cạnh đạo đức xã hội, đạo đức cá nhân, quân tử và giáo dục đạo đức,
được thể hiện qua những tư tưởng về đạo đức mà ba nhà triết học Nho giáo tiêu biểu là
Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử.
1.1.3. Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng từ Nho giáo
Tiếp thu văn hóa phương Đơng, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng
đắn vai trị của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác
những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo. 
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong
Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao

động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí
Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khun chúng ta “nên học”. Theo
Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo
hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ
cai trị. 
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ
cho nhiệm vụ cách mạng. 
Người thường căn dặn: “Khổng Tử nói: “Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì
cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị quốc bình thiên hạ” được.


Trị quốc bình thiên hạ đây tức là ta kháng chiến đánh Pháp, kiến quốc xây dựng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ hồ bình thế giới. Muốn cải tạo xã hội thì lịng mình phải cải tạo. Nếu
lịng mình khơng cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lịng mình cịn tham ơ, lãng phí,
muốn cải tạo xã hội làm sao được”. “Mọi người đều biết rõ ai là bạn, ai là thù trên thế
giới, trong nước và trong mình. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù trên thế
giới, muốn đánh thắng thực dân và phong kiến địa chủ là kẻ thù trong nước thì trước hết
phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình. Phải “chính tâm tu thân” mới có thể “trị
quốc bình thiên hạ”.

Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển có chọn lọc tư tưởng dùng nhân trị, đức trị trong cơng
tác quản lý xã hội.
“Chúng ta phải nhớ câu “Chính tâm tu thân” để “trị quốc bình thiên hạ”. Chính tâm tu
thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng
trong bản thân của mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn
tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàng,
không phải trong một lớp nghiên cứu vài tháng mà hoàn toàn thắng lợi. Chúng ta phải cố
gắng nữa, cố gắng mãi. Dù khó khăn gian khổ, nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành
cơng. Một là tin tưởng vào Đảng, Chính phủ và quần chúng có thể giúp đỡ mình cải tạo.

Hai là tự mình phải có quyết tâm cải tạo thì nhất định cải tạo được.”
Dân của Nho giáo chỉ là thần dân, tức là sản vật trời ban cho vua để vua cai trị mà thơi.
Ngược lại, dân trong quan niệm Hồ Chí Minh là rất rộng, dân bao gồm toàn bộ những
người lao động và những người yêu nước, bao gồm nhiều giai tầng, tầng lớp, thậm chí có
cả người thuộc giai cấp bóc lột. Dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh là bao gồm mọi
người Việt Nam có chung ý thức dân tộc, lịng u nước, hy sinh vì độc lập dân tộc và
hạnh phúc của nhân dân, mà bộ phận nòng cốt là bộ phận trung thành với bản chất giai
cấp công nhân. Vậy, khi viết như trên về Khổng Tử, Mạnh Tử khơng phải Hồ Chí Minh
khơng hiểu về họ, khơng hiểu về Nho giáo mà chính là Người cần triết lý “Dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh” để làm người cách mạng chân chính, suốt đời là đầy tớ trung
thành của nhân dân. Bởi thế mà tác phong cách mạng của Người là “dân là trên hết, thứ
đến là lợi ích quốc gia, cịn lợi ích của chủ tịch nước thì nói đến mà làm gì”.
Hồ Chí Minh kế thừa giá trị đạo đức nho giáo trong xây dựng đạo đức cán bộ, đảng viên.
Khi trở thành lãnh tụ, trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam năm
1951 và sau này trong nhiều văn bản khác, Người thường dạy những cán bộ, đảng viên
phải rèn luyện để trở thành những người “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ
không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. Chịu ảnh hưởng “Nhân, Trí, Dũng”
của Nho giáo từ trong gia đình mình với sự dìu dắt của bố, mà Hồ Chí Minh trong 10
năm đầu lênh đênh tìm đường cứu nước đã thông thạo nhiều ngôn ngữ của các nước châu
Âu và châu Mỹ. Cũng trong hành trình ấy, và trong suốt cuộc đời mình, với “thiên hạ vơ
nan sự, hữu chí sự cánh thành” tiếp thu được từ gia đình nhà Nho u nước của mình,
Người đã khơng bao giờ chùn bước trước những khó khăn. Bằng tấm gương của mình,
Người khun thanh niên “Khơng có việc gì khó, chỉ sợ lịng khơng bền, đào núi và lấp
biển, quyết chí cũng làm nên”.


Nếu Mạnh Tử có tư tưởng “hằng sản hằng tâm” thì Hồ Chí Minh cũng thường dạy chúng
ta: có thực mới vực được đạo nên phải đẩy mạnh sản xuất. Nếu Nho giáo rất nhấn mạnh
mối quan hệ hữu cơ không thể chia cắt giữa rèn luyện bản thân với trị quốc bằng mối
quan hệ bản chất tác động làm tiền đề cho nhau giữa các khâu cách vật, trí tri, thành ý,

chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì Hồ Chí Minh vẫn thường dạy: muốn
cải tạo thế giới thì trước hết phải cải tạo bản thân chúng ta, phải cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng, vô tư, phải trung với nước, phải hiếu với dân..
Từ đó phải thấy rằng những quan niệm về chính trị, đạo đức của Nho giáo đã được Hồ
Chí Minh mở rộng, nâng cao, cải tạo, hồn thiện nó với những nội dung mới phù hợp với
hoàn cảnh Việt Nam trong thời đại mới. Tiếp thu Nho giáo một cách có phê phán, Người
khẳng định: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là tu dưỡng đạo đức cá nhân”,
tự nhận mình là một học trị nhỏ của Khổng Tử và coi đó là một bài học rèn luyện đạo
đức cá nhân, mà bản thân Người là tấm gương sáng của tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cá
nhân.
1.2. Thiên chúa giáo của Giêsu
1.2.1. Chúa Giêsu
Chúa Giêsu sinh sống vào thế kỷ thứ nhất cả TCN vào SCN, Ngài sinh ra ở Bethlehem,
một thành phố nhỏ tại vùng Judea thuộc đế quốc La Mã. Chúa Giêsu lớn lên ở Nazareth,
một thị trấn ở Galilee. Mẹ của Ngài là đức Maria, một phụ nữ đồng trinh đã mang thai
bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Đức Giusep là chồng của Đức Maria và
là cha nuôi của Chúa Giêsu.
Cuộc đời của Chúa Giêsu được kể lại trong bốn sách Phúc âm của Tân Ước: Ma – thi – ơ,
Mác, Lu – ca và Gio – an. Theo các sách Phúc âm, Chúa Giêsu bắt đầu công việc giảng
dạy và  chữa lành khi khoảng 30 tuổi. Ngài đã đi khắp các vùng xung quanh Galilee và
Jerusalem để rao giảng Tin Mừng về nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ
như biến nước thành rượu, đi trên mặt nước, sống lại người chết cho người bị quỷ ám tự
do.
Tư tưởng của Chúa Giêsu được thể hiện qua những lời dạy và ví dụ của Ngài. Chúa
Giêsu đã dạy rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con người và muốn họ sống trong
hịa bình với nhau; con người phải yêu Thiên Chúa hết lòng hết sức và yêu tha nhân như
u chính mình, phải tha thứ cho kẻ xúc phạm và không trả ác bằng ác. Ngài cũng đã
dùng nhiều câu chuyện để giải thích ý nghĩa của Tin Mừng cho người nghe, những câu
chuyện này gọi là các dụ ngơn. Có thể nói đến như dụ ngơn Người gieo giống (Mt 13, 1 –
9), Cỏ lùng (13, 24 – 30), Hạt cải (13, 31 – 32), Nắm men (13, 33), Kho tàng chôn giấu

(13, 44), Ngọc quý (13, 45 – 46) và Chiếc lưới (13, 47 – 50).
1.2.2. Học thuyết Thiên chúa giáo
Thiên Chúa giáo được Đức Chúa Giêsu tạo ra tại Galilee, Do Thái. Tại thời điểm đó, Đức
Chúa Giêsu lần đầu giảng đạo vào năm Ngài 30 tuổi, Ngài nhận 12 môn đệ, giảng đạo


được 3 năm, bị Thầy Cả giáo phẩm đạo Do Thái hợp tác với chính quyền bắt giữ và giết
chết dã man bằng cách đóng đinh vào tay chân và treo trên thập tự giá.
Năm Đức Chúa Giêsu ra đời được Công Giáo quy định là năm khởi đầu cho kỷ nguyên
Dương lịch. Đạo Thiên Chúa được tạo ra dựa trên cơ sở Kinh Thánh Cựu Ước của đạo
Do Thái, bởi vậy nên Đạo Thiên Chúa giữ nguyên phần Giáo lý cơ bản và tín điều của
đạo Do Thái, nhìn nhận những điều chép trong Kinh Thánh Cựu Ước là đúng. Do vậy
nên Thiên Chúa giáo nối tiếp, chấn hưng và phát triển Do Thái giáo.
1.2.3. Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng từ Thiên chúa giáo như thế nào?
Thiên chúa giáo của Giêsu có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân ái cao cả của Đức Chúa Giêsu, nhưng
Người cũng đã nói rằng “cách đây 2000 năm, Đức Chúa Giêsu đã nói là ta phải yêu mến
các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được”. Vấn đề cơ bản trong tư
tưởng của Bác không chỉ là thương người, mà hơn thế nữa cịn phải hành động để giải
thốt cảnh cực khổ của những người bất hạnh. Khi tiếp thu triết lý “lá lành đùm lá rách”
của mọi tôn giáo, Bác đã cố gắng tìm cách giải thốt những người đang bị áp bức, bóc lột
ra khỏi lầm than, cơ cực. Khi đồng cảm với triết lý thương người của Đức Chúa Giêsu,
Người không chỉ dừng lại ở suy nghĩ mà ln hành động, ln thực hiện cái triết lý đó
trong thực tế. Giáo sư Trần Văn Giàu khi nghiên cứu tình yêu thương cao cả của Bác đã
viết rằng “Chủ nghĩa nhân văn Hồ chí Minh là chủ nghĩa nhân văn giải thoát của những
lớp người hèn yếu, lao khổ, của các dân tộc bị chà đạp, giải thốt chính bằng ý thức, lực
lượng của mình”. Khi tiếp thu các tư tưởng bác ái của cố nhân, Hồ Chí Minh khơng chỉ
gắn tính u của mình vào con người, vào đồng loại, rộng lượng đối với kẻ thù, chấp
nhận độc thoại giữa các chính kiến mà cịn quan tâm sâu sắc hơn đến việc thực hiện việc
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Yêu con người,

Bác đã tìm mọi phương thức mang lại tự do cho con người. Triết lý “khơng có gì q hơn
độc lập, do” của Người chính là hệ quả của cách tiếp thu lòng nhân ái bao la của các bậc
đại trí, đại nhân tiền bối.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng Thiên Chúa giáo của Đức Chúa Giêsu như thế
nào?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu mỹ học bác ái “kính Chúa yêu nước”, là u “hịa bình,
tự do, hạnh phúc” của đạo Công giáo, một tôn giáo lớn ở phương Tây cũng như trên thế
giới. Người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân
lao động khỏi ách đơ hộ. Đó chính là hiện thân của lòng nhân ái và đức hy sinh cao cả.
Sau này, người luôn răn dạy các cán bộ, Đảng viên về lịng thương người, thương dân.
Đó chính là tư tưởng đã thấm nhuần những giá trị cao cả mà Thiên Chúa giáo đã dạy.
Trong bức thư gửi cho đồng bào Công giáo nhân dịp Noel năm 1945, người đã ca ngợi
lòng nhân ái cao cả của Thiên Chúa giáo, người đã viết: “Đức Thiên Chúa đã giáng sinh
để cứu nhân loại. Đức Thiên Chúa là một tấm gương hy sinh triệt để vì những người bị
bóc lột, vì những dân tộc bị áp bức, vì hịa bình, vì cơng lý”.



×