Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Mẫu báo cáo giải trình về Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.34 KB, 22 trang )

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

Số:

/BC-UBTVQH15

Dự thảo xin ý kiến Thường trực Ủy
ban TCNS

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày

tháng 6 năm 2023

BÁO CÁO
Tiếp thu, chỉnh lý và giải trình về dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi)
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về dự thảo Luật Đấu
thầu (sửa đổi). Trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội (ĐBQH), Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ
quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật. Ủy ban Thường
vụ Quốc hội xin báo cáo Quốc hội như sau:
1. Về phạm vi áp dụng Luật Đấu thầu đối với doanh nghiệp nhà nước
và dự án sử dụng vốn nhà nước
Dự thảo Luật trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Chính phủ đề xuất
bãi bỏ điểm c khoản 1 Điều 1 Luật Đấu thầu hiện hành để không áp dụng Luật này
đối với hoạt động lựa chọn nhà thầu thuộc các dự án có sử dụng vốn nhà nước,
vốn của DNNN từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng


mức đầu tư của dự án.
Tại Kỳ họp thứ 5, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã báo cáo Quốc hội 02
phương án quy định trong luật về nội dung này, theo đó:
(1) Phương án 1: giữ như phương án Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp
thứ 4, theo đó, Luật Đấu thầu (sửa đổi) bãi bỏ quy định áp dụng Luật Đấu thầu đối
với các dự án đầu tư có sử dụng vốn nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 1 Luật Đấu thầu năm 2013, Luật sửa đổi quy
định đối tượng áp dụng bao gồm dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước1.
1

Qua tổng hợp số liệu khảo sát của Ủy ban TCNS đối với 13 tập đoàn, tổng công ty cho thấy, nếu thực hiện theo
phương án này, so với quy định hiện hành, số dự án phải thực hiện đấu thầu ở cơng ty mẹ chỉ cịn khoảng 17%,
83% cịn lại sẽ khơng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu, trong đó trong đó, số dự án đấu thầu của các
công ty con là “doanh nghiệp có vốn của doanh nghiệp nhà nước 100% vốn điều lệ” là 65%; số dự án được đấu thầu
của cơng ty con là “doanh nghiệp có vốn của doanh nghiệp nhà nước có từ 50% đến 99% vốn điều lệ” là 18%. Ví


2

(2) Phương án 2: quy định đối tượng áp dụng bao gồm dự án đầu tư của
Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có trên 50% vốn thuộc sở hữu của doanh
nghiệp Nhà nước.
Qua tổng hợp ý kiến ĐBQH thảo luận tại hội trường, nhiều ý kiến đề nghị
chọn phương án 2 để nhằm quản lý chặt chẽ nguồn vốn đầu tư của nhà nước vào
doanh nghiệp nhà nước và nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước đầu tư, góp vốn
vào các doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp nhà nước nắm quyền chi phối, đồng
thời bảo đảm cơ bản sự cơng bằng và chính sách khi áp dụng đối với đơn vị sự
nghiệp công lập. Một số ý kiến đề nghị chọn phương án 1 để tăng quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của DNNN trong hoạt động sản xuất kinh doanh...
Về nội dung này, Thường trực Ủy ban TCNS xin báo cáo toàn thể Ủy ban về

các hướng xử lý như sau:
(1) Tiếp thu ý kiến ĐBQH theo hướng kết hợp hài hòa giữa 2 phương án:
mở rộng hơn đối tượng so với phương án 1 và thu hẹp hơn đối tượng so với
phương án 2, theo đó, chỉ bổ sung thêm đối tượng là doanh nghiệp có vốn của
doanh nghiệp nhà nước 100% vốn điều lệ. Đối với doanh nghiệp có vốn của doanh
nghiệp nhà nước trên 50% vốn điều lệ thực hiện đấu thầu theo quy chế do doanh
nghiệp nhà nước ban hành.
(2) Báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép gửi phiếu xin ý kiến
ĐBQH về lựa chọn 2 phương án nêu trên. Căn cứ trên kết quả biểu quyết của
ĐBQH để lựa chọn phương án. Trường hợp kết quả biểu quyết cả 2 phương án đều
khơng đạt thì đề nghị giữ quy định điểm c khoản 1 Điều 1 Luật Đấu thầu hiện
hành, theo đó, áp dụng luật đối với hoạt động lựa chọn nhà thầu thuộc các dự án
có sử dụng vốn nhà nước, vốn của DNNN từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng
trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư của dự án.
Thường trực Ủy ban TCNS xin đề nghị các đồng chí thành viên Ủy ban
cho ý kiến về các hướng xử lý. Trên cơ sở ý kiến của toàn thể Ủy ban TCNS tại
phiên họp này, sẽ tổng hợp, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý
kiến để hồn thiện báo cáo trình Quốc hội.
2. Về đấu thầu tập trung, mua thuốc, hóa chất, thiết bị y tế

dụ: Theo báo cáo của tập đoàn EVN, năm 2022, tập đoàn EVN tổ chức đấu thầu 10.220 gói thầu, trong đó cơng ty
mẹ triển khai 241 gói thầu. Như vậy, nếu thực hiện theo Phương án 1 thì chỉ có 241 dự án phải đấu thầu.


3

- Về mua sắm tập trung (Điều 53)
Có ý kiến đề nghị bỏ quy định: “Trường hợp mua thuốc hiếm, thuốc cần
mua với số lượng ít có thể áp dụng hình thức mua sắm tập trung để bảo đảm có đủ
thuốc phục vụ nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh.”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Theo thông lệ quốc tế, mua sắm
tập trung thường áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ cần mua sắm với số lượng lớn,
chủng loại tương tự ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tuy nhiên, do điều
kiện đặc thù của Việt Nam, đối với các trường hợp thuốc hiếm, thuốc cần mua với
số lượng ít ở từng địa phương, đơn vị nếu tổ chức đấu thầu riêng biệt sẽ khó lựa
chọn được nhà cung cấp (do số lượng ít, không hấp dẫn các nhà cung cấp). Do vậy,
theo đề nghị của ĐBQH, dự thảo Luật đã bổ sung trường hợp mua sắm tập trung
đối với thuốc hiếm, thuốc cần mua với số lượng ít ở nhiều địa phương, bệnh viện
để tạo thành gói thầu mua sắm với số lượng lớn nhằm bảo đảm tính khả thi trong
việc tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà cung cấp. Do đó, đề nghị giữ như dự thảo Luật.
Tại điểm a khoản 2 có ý kiến đề nghị bổ sung về quy định cụ thể trường hợp
Bộ trưởng Y tế ban hành danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Điểm a khoản 2 Điều 53 dự thảo
Luật đã có quy định giao Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành danh mục mua sắm tập trung
cấp quốc gia đối với thuốc; danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thiết
bị y tế, vật tư y tế trong trường hợp cần thiết. Theo đó, căn cứ tình hình thực tế
trong từng giai đoạn, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành, điều chỉnh danh mục áp dụng
mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thuốc và thiết bị y tế, vật tư y tế cho phù
hợp. Vì vậy, đề nghị giữ quy định như dự thảo Luật.
- Về lựa chọn nhà thầu cung cấp thuốc, hóa chất, thiết bị y tế (Điều 55):
Có ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung cơ chế liên quan đến mua thuốc do
Quỹ bảo hiểm y tế chi trả để phục vụ nhu cầu cho trên 90% dân số đã có thẻ bảo
hiểm y tế.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, dự thảo Luật đã bổ sung quy định chuyển tiếp
về cơ chế thanh tốn chi phí mua thuốc, vật tư y tế do quỹ bảo hiểm chi trả cho đến
khi Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi) có hiệu lực thi hành. Khi xây dựng dự thảo Luật


4


Bảo hiểm y tế (sửa đổi) sẽ bổ sung quy định về cơ chế thanh tốn chi phí mua
thuốc, vật tư y tế do quỹ bảo hiểm chi trả.
Tại điểm a khoản 1: (i) Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm chính sách của nhà
cung cấp và quy định rõ việc nhà thầu chuyển giao quyền sử dụng không thu tiền
với thiết bị y tế cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; (ii) Có ý kiến cho rằng quy
định như tại điểm a khoản 1 khó xác định được gói thầu này có kèm theo giá của
thiết bị đi kèm hay không; việc quy định lựa chọn nhà thầu cung cấp vật tư, hóa
chất trong trường hợp chỉ áp dụng khơng q 5 năm khi luật này có hiệu lực là
chưa phù hợp. Một số ý kiến đề nghị nâng thời hạn áp dụng lên 10 năm.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Quy định tại Điều 55 dự thảo Luật
đã bao gồm tất cả các trường hợp mua thuốc, hóa chất, thiết bị y tế, trong đó đã
quy định rõ việc chuyển giao quyền quản lý sử dụng/chuyển giao quyền sở hữu
trong từng trường hợp mua sắm cụ thể. Đây là một mơ hình mua sắm trọn gói bao
gồm từ hóa chất, vật tư, thiết bị y tế, bảo hành, bảo dưỡng…cũng như quyền sử
dụng thiết bị y tế trong một thời gian nhất định, Nghị định sẽ hướng dẫn chi tiết nội
dung này.
Bên cạnh đó, đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55, khi
tham dự thầu, nhà thầu sẽ phải tính tốn tất cả các chi phí về hóa chất, khấu hao
thiết bị… để phân bổ vào giá dự thầu. Việc tính tốn, phân bổ chi phí trong giá dự
thầu thuộc trách nhiệm của nhà thầu trên cơ sở lợi thế kinh doanh của từng nhà
thầu.
Ngoài ra, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 dự thảo Luật thực chất là một
hình thức của mơ hình máy đặt – máy mượn mà hiện các bệnh viện đang áp dụng
và bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập2. Tuy nhiên, để bảo đảm không làm gián đoạn
việc cung cấp dịch vụ kỹ thuật, ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ khám, chữa
2

- Chưa phù hợp với quy định của Luật Quản lý tài sản công.
- Không công khai được đơn giá đầu ra của từng dịch vụ kỹ thuật.
- Gây lãng phí trong trường hợp hết thời gian thực hiện hợp đồng (thời gian đặt máy) nhưng hóa chất đã mua chưa

sử dụng hết.
- Không công bằng cho các nhà thầu do không cùng một mặt bằng để so sánh, đánh giá trong trường hợp có nhiều
hãng sản xuất có thể cùng cung cấp được một loại dịch vụ kỹ thuật nhưng với các công nghệ khác nhau, sử dụng các
loại hóa chất khác nhau (bao gồm cả hóa chất chính và hóa chất phụ trợ) với mức tiêu hao không giống nhau.
- Không mang lại hiệu quả kinh tế do chỉ căn cứ vào khối lượng hóa chất chính để chào thầu; thiết bị có cơng nghệ
tiên tiến, tiết kiệm hóa chất và thiết bị có cơng nghệ tiêu hao nhiều hóa chất được đối xử như nhau.
- Do gói thầu là mua hóa chất nên hồ sơ mời thầu không đưa ra các yêu cầu kỹ thuật để chọn thiết bị có cơng nghệ
tiên tiến, hiện đại, tự động, độ chính xác cao.


5

bệnh cho người dân, đồng thời bảo đảm để các bệnh viện có thời gian chuyển đổi
phù hợp với cơ chế giá khám chữa bệnh được tính đúng, tính đủ theo quy định của
Luật Khám bệnh, chữa bệnh, dự thảo Luật quy định chỉ áp dụng mơ hình máy đặt,
máy mượn trong thời gian không quá 05 năm kể từ ngày Luật Đấu thầu (sửa đổi)
có hiệu lực thi hành. UBTVQH thấy rằng việc kéo dài thời hạn áp dụng đến 10
năm là không cần thiết và không phù hợp với lộ trình thực hiện tính đúng, tính đủ
giá dịch vụ y tế theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Mặ khác mơ hình
máy đặt, máy mượn đã được quy định tại điểm b khoản 1 điều này.
Tại điểm b khoản 1: việc quy định giá gói thầu và giá dự thầu được xác định
trên cơ sở số lượng dịch vụ kỹ thuật dự kiến gây khó khăn cho việc xác định giá
gói thầu có trên cơ sở số lượng dịch vụ kỹ thuật, vì giá dịch vụ kỹ thuật có thể thay
đổi trong thời gian thực hiện hợp đồng, cũng có thể gây những tiêu cực trong quá
trình thực hiện.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Quy định về lựa chọn nhà thầu

cung cấp thuốc, hóa chất, thiết bị y tế theo cách thức lựa chọn nhà thầu cung
cấp dịch vụ kỹ thuật tính theo số lượng đầu ra - là cách thức được Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) khuyến nghị áp dụng và hiện đang được áp dụng rộng rãi

tại nhiều quốc gia.
Theo đó, trường hợp giá dịch vụ kỹ thuật thay đổi theo thời gian thì chủ
đầu tư có thể áp dụng loại hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh để làm cơ sở
điều chỉnh giá của các dịch vụ kỹ thuật theo các quy định và nguyên tắc điều
chỉnh giá nêu trong hợp đồng ký kết với nhà thầu.

Tại khoản 2: có ý kiến đề nghị làm rõ tại khoản 2 cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh được tự quyết định về hình thức, quy trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu hay tự
quyết định việc mua sắm; có ý kiến đề nghị thay cụm từ “thuốc trong danh mục
thuốc do Quỹ bảo hiểm y tế” thành “thuốc tại các cơ sở bán lẻ thuốc trong khuôn
viên cơ sở khám bệnh, chữa bệnh” để đảm bảo đúng đối tượng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, chỉnh lý quy định tại khoản 2 Điều
55, cụ thể như sau: 2. Đối với việc mua thuốc không thuộc danh mục thuốc do quỹ
- Dễ dẫn đến tình trạng “cài cắm” tiêu chí đánh giá trong hồ sơ mời thầu để hướng đến một loại vật tư, hóa chất,
thiết bị cụ thể, làm hạn chế sự tham gia của nhà thầu.
- Dễ dẫn đến bị biến tướng và có nhiều hệ lụy.


6

bảo hiểm y tế chi trả, mua thuốc để bán lẻ tại các cơ sở bán lẻ thuốc trong khuôn
viên cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, mua vắc xin để tiêm chủng theo hình thức
dịch vụ, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tự quyết định việc mua sắm trên cơ sở bảo
đảm công khai, minh bạch, hiệu quả kinh tế và trách nhiệm giải trình.
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm nội dung quy định về việc cơ sở y tế quyết
định quy trình, thủ tục và xây dựng quy chế lựa chọn nhà cung ứng để áp dụng
thống nhất trong các cơ sở y tế
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Quy định như dự thảo Luật là để
bảo đảm tính linh hoạt, chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở y tế trong việc
mua thuốc không thuộc danh mục thuốc do quỹ bảo hiểm y tế chi trả, mua vắc xin

để tiêm chủng theo hình thức dịch vụ. Trường hợp cần thiết, các cơ sở y tế có thể
ban hành quy định về quy trình, thủ tục mua sắm để áp dụng thống nhất mà không
cần thiết phải quy định cứng nhắc nguyên tắc này trong dự thảo Luật.
- Về ưu đãi trong mua thuốc (Điều 56)
Tại khoản 1 có ý kiến đề nghị xem xét lại quy định chủ đầu tư có thể quyết
định đối với thuốc có ít nhất 3 cơ sở trong nước sản xuất đáp ứng tiêu chí kỹ thuật
theo quy định của Bộ Y tế, vì có thể gây khó khăn cho việc Bộ Y tế hướng dẫn đáp
ứng tiêu chí kỹ thuật. Bộ Y tế có đánh giá được chất lượng của từng thuốc hay vẫn
áp dụng theo nguyên tắc khi thuốc được Bộ Y tế cấp số lưu hành để đáp ứng về
chất lượng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Dự thảo Luật trình Quốc hội tại
Kỳ họp thứ 4 quy định đối với thuốc sản xuất trong nước được Bộ Y tế công bố
đáp ứng yêu cầu về điều trị, giá thuốc và khả năng cung cấp thì trong hồ sơ mời
thầu phải quy định nhà thầu không được chào thuốc nhập khẩu để ưu đãi cho thuốc
sản xuất trong nước (tương tự quy định của Luật Đấu thầu năm 2013).
Chính sách ưu đãi nêu trên nhằm góp phần bảo hộ và phát triển ngành sản
xuất dược phẩm trong nước. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, việc áp dụng ưu đãi đối
với các loại thuốc được sản xuất bởi các nhà sản xuất trong nước chưa đáp ứng các
nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế có thể sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả khám, chữa bệnh
và người bệnh sẽ vẫn phải dùng thuốc khác tốt hơn.


7

Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, trên cơ sở đề nghị của Bộ Y tế, dự thảo Luật đã
được chỉnh lý theo hướng chỉ ưu đãi cho các thuốc sản xuất trong nước và được Bộ
Y tế chứng nhận đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế để tạo ra sự cạnh
tranh với thuốc nhập khẩu. Quy định này sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp
sản xuất dược tăng cường đầu tư thiết bị, dây chuyền hiện đại để sản xuất thuốc,
nâng cao tính cạnh tranh với thuốc nhập khẩu, đồng thời đáp ứng được chất lượng

điều trị, thời gian điều trị, góp phần tăng hiệu quả điều trị và tiết kiệm chi phí khám
chữa bệnh cho người dân.
Theo đó, Bộ Y tế với chức năng thực hiện công tác quản lý nhà nước trong
lĩnh vực y tế sẽ cơng bố tính đáp ứng u cầu về điều trị, giá thuốc và khả năng
cung cấp của nhà sản xuất trong nước để làm cơ sở ưu đãi đối với thuốc sản xuất
trong nước cho phù hợp.
Về quy định hướng dẫn mua sắm thuốc, vật tư y tế của cơ sở khám chữa
bệnh tư nhân: Có ý kiến ĐBQH và Hiệp hội y tế tư nhân đề nghị tiếp tục kế thừa,
bổ sung và điều chỉnh Điều 52 của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 để phù hợp
với điều kiện thực tế của cơ sở y tế tư nhân Việt Nam.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã được bổ sung quy định tại khoản 4
Điều 99 về hiệu lực thi hành luật, theo đó, quy định tại Điều 52 của Luật Đấu thầu
số 43/2013/QH13 được tiếp tục áp dụng cho đến khi Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi)
có hiệu lực thi hành.
3. Về tư cách hợp lệ của nhà thầu, nhà đầu tư (Điều 5)
Có ý kiến đề nghị làm rõ “Không thuộc trường hợp mất khả năng thanh
toán theo quy định của pháp luật” tại điểm c khoản 1.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Pháp luật về phá sản đã có quy
định về “mất khả năng thanh tốn”, theo đó nhà thầu được xác định là “mất khả
năng thanh tốn” sẽ khơng có đủ năng lực về tài chính để thực hiện gói thầu. Việc
xác định nhà thầu, nhà đầu tư mất khả năng thanh toán đã được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật về phá sản. Do đó, đề nghị giữ quy định như dự thảo
Luật.
Có ý kiến đề nghị cân nhắc sửa điểm d khoản 1 thành: “Nhà thầu phải đáp
ứng năng lực hoạt động phù hợp với từng lĩnh vực của gói thầu” nhằm đảm bảo


8

tính thống nhất với một số lĩnh vực pháp luật có liên quan như Luật Xây dựng về

hiệu lực của hợp đồng xây dựng, khi đó “Bên nhận thầu phải có đủ điều kiện năng
lực hoạt động, năng lực hành nghề xây dựng theo quy định của Luật này” (điểm c
khoản 1 Điều 139 Luật Xây dựng).
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Theo quy định của pháp luật xây
dựng, điều kiện năng lực hoạt động, năng lực hành nghề xây dựng chỉ cần đáp ứng
khi thi công cơng trình mà khơng phải điều kiện tham dự thầu. Do đó, nếu đưa nội
dung này vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu có thể dẫn đến trường hợp loại bỏ
nhà thầu do tại thời điểm tham dự thầu, nhà thầu chưa có các loại chứng chỉ năng
lực hoạt động và hành nghề, nhưng trước khi ký hợp đồng nhà thầu có thể cung
cấp được và vẫn đáp ứng quy định của pháp luật về xây dựng. Do đó, đề nghị được
giữ nguyên như dự thảo để tăng tính cạnh tranh trong đấu thầu.
4. Về đấu thầu quốc tế (Điều 11)
Có ý kiến cho rằng căn cứ để người có thẩm quyền quyết định có sự tham
gia của nhà thầu nước ngồi hay khơng khá chung chung, đề nghị nghiên cứu điều
chỉnh điểm c khoản 1 theo một trong 2 phương án (i) Quy định theo hướng định
lượng cụ thể hơn hoặc (ii) Bỏ quy định tại điểm c khoản 1 để tránh bị lạm dụng và
làm giảm ý nghĩa của các quy định về điều kiện khác đấu thầu quốc tế.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Đối với một số gói thầu (ví dụ như
lựa chọn nhà thầu tư vấn lập quy hoạch), nhà thầu trong nước cũng có khả năng
thực hiện, tuy nhiên có thể sẽ khơng đáp ứng được u cầu cao về kinh nghiệm
quốc tế, tính sáng tạo, đột phá. Nếu được tổ chức đấu thầu quốc tế sẽ có thể lựa
chọn được nhà thầu nước ngồi có nhiều kinh nghiệm, mang lại chất lượng cao
hơn so với nhà thầu trong nước. Do đó, để tạo cơ sở pháp lý cho người có thẩm
quyền quyết định lựa chọn áp dụng đấu thầu quốc tế và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về quyết định của mình, đề nghị giữ như quy định như tại dự thảo Luật.
5. Về bảo đảm dự thầu (Điều 14)
Tại điểm a khoản 4 có ý kiến đề nghị nâng mức bảo đảm dự thầu trong hồ
sơ mời thầu đối với gói thầu xây lắp lên 5% giá trị gói thầu để tăng cường trách
nhiệm của nhà thầu, chống hiện tượng bỏ thầu.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Việc quy định giá trị bảo đảm dự

thầu là 5% thay vì 1-3% như quy định trong dự thảo Luật sẽ làm tăng chi phí tham


9

dự thầu của nhà thầu, làm phát sinh chi phí của chủ đầu tư do các chi phí thực hiện
biện pháp bảo lãnh dự thầu được nhà thầu trúng thầu hạch tốn vào giá dự thầu.
Bên cạnh đó, tỷ lệ bảo đảm dự thầu quy định trong dự thảo Luật (1-3%) được xây
dựng trên cơ sở kế thừa quy định đã áp dụng ổn định từ Luật Đấu thầu năm 2013,
đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để phù hợp với tính chất của gói thầu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu
ý kiến của ĐBQH, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định giá trị bảo
đảm dự thầu theo từng mức cụ thể, tùy thuộc quy mơ của từng dự án, gói thầu
(khoản 4 Điều 14 dự thảo Luật).
6. Về các hành vi bị cấm trong hoạt động đấu thầu (Điều 16)
Có ý kiến đề nghị cần làm rõ hơn các hành vi thông thầu tại điểm a khoản 3
và cố ý không cung cấp tài liệu để chứng minh năng lực kinh nghiệm khi được bên
mời thầu yêu cầu làm rõ hồ sơ dự thầu hoặc khi được yêu cầu đối chiếu tài liệu
nhằm tạo điều kiện để một bên trúng thầu tại điểm c khoản 3, vì hiện nay các hành
vi gian lận trong đấu thầu diễn biến rất phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, khó
nhận biết, khơng xử lý được do chưa có quy định cụ thể.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý dự thảo Luật,
thể hiện 9 nhóm hành vi tại Điều 16 của dự thảo Luật và chỉnh lý các nội dung cụ
thể tại Điều 16. Cụ thể: Bổ sung thêm mục đích của hành vi “nhằm tạo điều kiện
để một bên trúng thầu” và bỏ cụm từ “mà khơng có lý do chính đáng” tại điểm c
khoản 3 về quy định cấm hành vi thông thầu; chỉnh lý tại điểm điểm a khoản 4; Bổ
sung quy định về hành vi bị cấm, bao gồm hành vi can thiệp, cản trở việc đấu thầu
qua mạng (điểm đ khoản 5); bổ sung tại điểm b khoản 4 Điều 16: “b) Nhà thầu,
nhà đầu tư cố ý cung cấp các thông tin, tài liệu không trung thực, không khách
quan trong hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất nhằm

làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư”.
Tại khoản 8 có ý kiến đề nghị xem xét, nghiên cứu sửa đổi về hành vi chuyển
nhượng thầu theo hướng bổ sung quy định loại trừ đối với trường hợp nhà thầu
thay thế, bổ sung nhà thầu phụ ngoài danh sách các nhà thầu thụ đã nêu trong hồ
sơ dự thầu và việc sử dụng nhà thầu phụ vượt mức tối đa giá trị công việc dành
cho nhà thầu phụ nêu trong hợp đồng khi có lý do xác đáng, cụ thể, trong một số
trường hợp đặc biệt, hợp lý và được chủ đầu tư chấp thuận thì khơng được coi là
hành vi chuyển nhượng thầu.


10

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Dự thảo Luật khơng có quy định
về danh sách nhà thầu phụ. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà thầu vẫn được
bổ sung, thay thế nhà thầu phụ ngoài danh sách đã đề xuất trong hồ sơ dự thầu để
thực hiện các phần công việc trong phạm vi các phần công việc được sử dụng thầu
phụ quy định trong hồ sơ mời thầu. Quy định như vậy để bảo đảm lựa chọn được
nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm thực hiện gói thầu. Bên cạnh đó, việc quy
định nhà thầu được sử dụng nhà thầu phụ để thực hiện các phần cơng việc khác
ngồi phạm vi sử dụng nhà thầu phụ quy định trong hồ sơ mời thầu sẽ dẫn đến khó
khăn trong quản lý hợp đồng và lợi dụng việc sử dụng nhà thầu phụ để hợp thức
hóa hành vi chuyển nhượng thầu. Do đó, đề nghị giữ quy định như dự thảo Luật
7. Về hủy thầu (Điều 17)
Một số ý kiến đề nghị trong trường hợp tại điểm b khoản 2 cần quy định việc
nhà đầu tư cần được đền bù về chi phí tương tự như cơ chế bồi hồn chi phí liên
quan đến việc tham dự thầu của nhà thầu.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Quy định hủy thầu tại điểm b
khoản 2 Điều 17 được áp dụng trong trường hợp thay đổi mục tiêu, quy mô, địa
điểm, vốn đầu tư, thời hạn thực hiện dự án đầu tư kinh doanh vì lý do bất khả
kháng, dẫn đến thay đổi tiêu chuẩn đánh giá trong hồ sơ mời thầu đã phát hành.

Trong trường hợp này, các bên tham gia cuộc thầu (gồm người có thẩm quyền, bên
mời thầu và nhà đầu tư) đều chịu rủi ro về thời gian, chi phí và cơ hội. Do vậy,
không cần thiết phải quy định cơ chế Nhà nước bồi hồn chi phí cho nhà đầu tư
trong trường hợp này.
Tuy nhiên, trường hợp do lỗi của cơ quan nhà nước mà làm sai lệch kết quả
lựa chọn nhà đầu tư, dẫn đến phải hủy thầu thì cơ quan Nhà nước phải đền bù chi
phí theo quy định tại khoản 4 Điều 17 của Luật này. Để làm rõ quy định này, xin
chỉnh lý điểm b và điểm c khoản 2 Điều 17 của dự thảo Luật3.
Có ý kiến cho rằng đối chiếu về nội dung xử phạt trong trường hợp hủy thầu
được quy định tại khoản 4 và khoản 1 Điều 90 thì có sự trùng lặp, đề nghị bỏ
3

b) Thay đổi mục tiêu, quy mô, địa điểm, vốn đầu tư, thời hạn thực hiện dự án đầu tư kinh doanh vì các
yếu tố khách quan, làm thay đổi tiêu chuẩn đánh giá trong hồ sơ mời thầu đã phát hành;
c) Hồ sơ mời thầu có một hoặc một số nội dung không tuân thủ quy định của Luật này, quy định khác của
pháp luật có liên quan dẫn đến khơng có nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu để thực hiện dự án đầu tư kinh doanh hoặc
dẫn đến nhà đầu tư được lựa chọn khơng cịn đáp ứng u cầu để thực hiện dự án đầu tư kinh doanh;


11

khoản 4 chỉ cần quy định như khoản 1 Điều 90, ý kiến khác đề nghị làm rõ cơ chế
đền bù chi phí quy định tại khoản 4.
Tiếp thu các ý kiến nêu trên của đại biểu, dự thảo Luật bổ sung việc giao
Chính phủ hướng dẫn khoản 4 Điều 174.
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm, chế tài xử lý cụ thể ở
từng mức độ đối với chủ đầu tư trong trường hợp quyết định sai phương thức đấu
thầu, thiếu trách nhiệm gây tổn hại cho nhà thầu, làm chậm tiến độ dự án và gây
thiệt hại cho Nhà nước.
Dự thảo Luật (điểm h khoản 6 Điều 16) đã quy định một trong các hành vi

bị cấm là “Áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư khơng phải là hình
thức đấu thầu rộng rãi khi không đủ điều kiện theo quy định của Luật này”; Điều
90 dự thảo Luật quy định cấm tham gia hoạt động đấu thầu từ 06 tháng đến 01 năm
đối với hành vi vi phạm nêu trên. Do đó, trong trường hợp này, nếu chủ đầu tư,
người có thẩm quyền quyết định sai phương thức đấu thầu thì sẽ bị xử lý vi phạm.
Đồng thời, khi người có thẩm quyền, chủ đầu tư có hành vi thiếu trách nhiệm, gây
hậu quả thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật về hình sự, phịng chống tham
nhũng, xử lý vi phạm hành chính và các pháp luật có liên quan khác.
8. Về các hình thức lựa chọn nhà thầu
Có ý kiến cho rằng để phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật ban
hành Văn bản quy phạm pháp luật về thẩm quyền ban hành Nghị định của Chính
phủ, đề nghị nghiên cứu, sửa đổi quy định theo hướng trước khi quy định chi tiết,
Chính phủ phải báo cáo xin ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Tại khoản 2
Điều 20).
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, khoản 3 Điều 19 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật quy định việc Chính phủ ban hành Nghị định để quy định
những vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trong khi đó, việc giao Chính phủ quy định
các hình thức lựa chọn nhà thầu khác, có tính ưu việt, sử dụng phương tiện điện tử
4

“Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định pháp luật dẫn đến hủy thầu theo quy định tại điểm c, điểm d, điểm đ
khoản 1 và điểm c, điểm d, điểm đ khoản 2 Điều này phải đền bù chi phí cho các bên liên quan theo quy định của
Chính phủ.và bị xử lý theo quy định tại Điều 90 của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.”


12

tiến bộ là nội dung chính sách đã được xác định cụ thể tại khoản 2 Điều 20 của dự

thảo Luật. Do vậy, quy định tại khoản 2 Điều 20 dự thảo Luật không thuộc trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của đại biểu, chỉnh lý quy định tại khoản 2 Điều
20 dự thảo Luật 5.
Có ý kiến đề nghị làm rõ tiêu chí đối với “gói thầu có yêu cầu cao về kỹ
thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù” tại điểm a khoản 2 Điều 22. Về đấu thầu hạn
chế.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Việc quyết định áp dụng hình thức
lựa chọn nhà thầu đối với từng gói thầu cụ thể được phê duyệt trong kế hoạch lựa
chọn nhà thầu và thuộc trách nhiệm của người có thẩm quyền. Theo đó, người có
thẩm quyền chịu trách nhiệm xác định tính chất phức tạp, có u cầu cao về kỹ
thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp ứng yêu cầu của
gói thầu để áp dụng đấu thầu hạn chế. Mặt khác, đối tượng đấu thầu rất rộng, liên
quan đến nhiều quy định, lĩnh vực, có kỹ thuật khác nhau, trong khi kỹ thuật cao
được xác định ở một thời điểm và sẽ thay đổi theo thời gian và tiến bộ khoa học,
kỹ thuật nên khơng thể quy định cụ thể. Vì vậy, xin được giữ như quy định của dự
thảo Luật.
9. Về chỉ định thầu (Điều 23)
Có ý kiến cho rằng dự thảo Luật đã mở rộng thêm nhiều trường hợp áp
dụng hình thức chỉ định thầu, đề nghị tiếp tục rà soát, quy định chặt chẽ hơn các
trường hợp và thẩm quyền quyết định các trường hợp chỉ định thầu theo quy định
tại Điều 23, để đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong hoạt động
đấu thầu tránh việc áp dụng tùy tiện hoặc lách các quy định của pháp luật. Có ý
kiến đề nghị nên mở rộng thêm ngoài những trường hợp như trong quy định, chỉ
định thầu nên có giảm giá.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo cơ quan thẩm tra phối hợp với
cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh lý theo hướng giảm một số trường hợp chỉ định

“2. Trường hợp phát sinh hình thức lựa chọn nhà thầu khác quy định tại khoản 1 của Điều này, có tính
ưu việt, sử dụng phương tiện điện tử tiến bộ, hiện đại, Chính phủ quy định chi tiết về hình thức, quy trình, đối tượng

phù hợp với tính năng mới của Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia bảo đảm mục tiêu cạnh tranh, công bằng, minh
bạch và hiệu quả kinh tế trong đấu thầu.”
5


13

thầu, theo đó đã loại bỏ các trường hợp chỉ định thầu đối với “gói thầu xây dựng
theo lệnh khẩn cấp” tại điểm a khoản 1, “gói thầu tái định cư” tại điểm g khoản 1;
“gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn” tại điểm i khoản 1. Chỉnh lý bổ sung tại điểm k
khoản 1, trong đó quy định rõ về “Gói thầu thuộc dự án quan trọng quốc gia được
áp dụng hình thức chỉ định thầu theo Nghị quyết của Quốc hội khi phê duyệt chủ
trương đầu tư dự án”.
Bên cạnh đó, UBTVQH đã chỉ đạo rà sốt, bổ sung Điều 23 của dự thảo
Luật chỉnh lý, luật hóa một số trường hợp lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc
biệt đã được quy định tại Quyết định số 17/2019 của Thủ tướng Chính phủ được áp
dụng hình thức chỉ định thầu. Như vậy sẽ tăng thêm một số trường hợp chỉ định
thầu, nhưng giảm trường hợp lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt để bảo
đảm quy định chặt chẽ, minh bạch hơn.
Có ý kiến đề nghị bổ sung trường hợp áp dụng chỉ định thầu “Gói thầu tư
vấn giải quyết tranh chấp tại trọng tài và Tòa án mà cơ quan tổ chức đấu thầu là
bị đơn và cần có người bảo vệ ngay theo trình tự tố tụng giải quyết tranh chấp” do
giải quyết tranh chấp là cơng việc đặc thù, mang tính cấp bách cần nhanh chóng
giải quyết để ngăn ngừa tổn thất cho cơ quan, tổ chức đấu thầu, tránh ảnh hưởng
nghiêm trọng đến các dự án.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Tại điểm d khoản 1 Điều 29 về
lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt đã bao gồm trường hợp “Lựa chọn
luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước Việt
Nam tại cơ quan tài phán nước ngoài hoặc quốc tế”. Đối với việc thuê luật sư trong
nước thì khơng có tính chất đặc thù, đặc biệt nên vẫn phải tổ chức lựa chọn nhà

thầu theo quy định của pháp luật.
Tại điểm c khoản 1: (i) Có ý kiến đề nghị cần làm rõ nội hàm “cần triển
khai ngay” tránh tùy tiện trong áp dụng;
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: : Tại khoản 7 Điều 23 dự thảo
Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết điểm c khoản 1 Điều 23, do đó, Chính
phủ sẽ hướng dẫn nội dung này.
Có ý kiến đề nghị xem xét lại quy định "chỉ định thầu được áp dụng cho gói
thầu chỉ có duy nhất một hãng sản xuất trên thị trường, do yêu cầu về giải pháp
công nghệ" cho phù hợp với điểm b khoản 1 Điều 28 "đàm phán giá được áp dụng


14

với các gói thầu mua thuốc, thiết bị y tế, vật tư y tế chỉ có 1 hoặc 2 hãng sản xuất".
Cần làm rõ trường hợp nào áp dụng đàm phán giá, trường hợp nào áp dụng chỉ
định thầu với gói thầu chỉ có duy nhất 1 hãng sản xuất trên thị trường;
UBTVQH nhận thấy, quy định như dự thảo cho phép người có thẩm quyền
(Bộ trưởng Bộ Y tế) áp dụng một trong hai trường hợp chỉ định thầu hoặc đàm
phán giá, vì vậy xin được giữ như quy định của dự thảo Luật.
Có ý kiến đề nghị thay thế cụm từ “cấp cứu người bệnh” thành “trong tình
trạng cấp bách” đồng thời cần quy định rõ hơn về trường hợp cấp bách trong y tế,
thẩm quyền cơ quan xác định trường hợp cấp bách. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy
định đối với trường hợp trang thiết bị y tế được nhận từ viện trợ, tài trợ tại điểm đ
khoản 1.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, nội dung này được chỉnh lý như sau: “gói thầu mua
sắm thuốc, hóa chất, thiết bị y tế, vật tư y tế để cấp cứu người bệnh trong tình
trạng cấp cứu theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh”. Đồng thời, tại
khoản 7 Điều này đã giao Chính phủ hướng dẫn.
Đối với trường hợp trang thiết bị y tế nhận từ viện trợ, tài trợ; trường hợp
trong quá trình sử dụng có xảy ra các hỏng hóc hoặc cần thay thế vật tư, phù tùng

thì chủ đầu tư cũng được phép áp dụng chỉ định thầu nếu đáp ứng quy định tại
khoản 1 Điều 23 dự thảo Luật
Tại điểm h khoản 1: (i) Một số ý kiến đề nghị không áp dụng hình thức chỉ
định thầu đối với các “gói thầu tư vấn, thi cơng di dời các cơng trình hạ tầng kỹ
thuật, rà phá bom, mìn, vật nổ để phục vụ cơng tác giải phóng mặt bằng” để tránh
lạm dụng khi thực hiện; (ii) Có ý kiến đề nghị gói thầu rà phá bom, mìn, vật nổ
được áp dụng hình thức chỉ định thầu rút gọn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Quy định về chỉ định thầu đối với
gói thầu rà phá bom, mìn, vật nổ đã được áp dụng ổn định từ Luật Đấu thầu năm
2013. Thực tế, việc rà phá bom, mìn, vật nổ sẽ chỉ do các đơn vị thuộc Bộ Quốc
phòng đảm nhận và đây là cơng việc có tính chun mơn, đặc thù cao. Nếu tổ chức
đấu thầu sẽ không bảo đảm hiệu quả, gây mất thời gian, làm chậm trễ tiến độ giải
phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, do khi thực hiện gói thầu rà phá bom mìn vật nổ, hồ
sơ khảo sát, thiết kế, phương án rà phá, xử lý bom mìn vật nổ phải được cơ quan
chun mơn của Bộ Quốc phòng thẩm định, phê duyệt, đồng thời việc rà phá bom


15

mìn vật nổ khơng phải là cơng việc khẩn cấp, cấp bách nên việc áp dụng quy trình
rút gọn là khơng cần thiết. Do đó, đề nghị giữ quy định về chỉ định thầu đối với gói
thầu rà phá bom mìn vật nổ như dự thảo Luật.
Tại điểm m khoản 1 một số ý kiến đề nghị nâng hạn mức giá trị gói thầu cho
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, bổ sung quy định về
hạn mức áp dụng chỉ định thầu tại điểm m khoản 1 Điều 23 của dự thảo Luật chỉnh
lý trên cơ sở luật hóa các nội dung đã thực hiện ổn định tại Nghị định 63/2014 6
(không quá 500 triệu đồng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn; khơng quá 01
tỷ đồng đối với gói thầu hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp; trên 50 triệu đồng đến 100
triệu đồng đối với gói thầu thuộc dự tốn mua sắm. Đối với gói thầu hoặc nội dung

mua sắm có giá khơng quá 50 triệu đồng, thủ trưởng cơ quan, đơn vị mua sắm chịu
trách nhiệm quyết định việc mua sắm bảo đảm nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả và tự
chịu trách nhiệm về quyết định của mình); Đồng thời, để bảo đảm tính linh hoạt,
bổ sung tại điểm này quy định “trường hợp cần điều chỉnh hạn mức để phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý nhà nước, Chính phủ báo cáo
UBTVQH xem xét, quyết định”.
Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ hơn cách thức để xác định cụ thể nội dung
“gói thầu chỉ có duy nhất một nhà thầu thực hiện được trên thị trường do yêu cầu
về giải pháp công nghệ” tại điểm i khoản 1 nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
các cơ quan, đơn vị khi áp dụng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Việc xác định trên thị trường chỉ
có duy nhất một nhà thầu thực hiện được do yêu cầu về giải pháp cơng nghệ thuộc
trách nhiệm của người có thẩm quyền, chủ đầu tư. Theo đó, nếu người có thẩm
quyền, chủ đầu tư có đủ căn cứ để khẳng định trên thị trường chỉ có duy nhất một
nhà thầu có khả năng thực hiện gói thầu thì được phép áp dụng chỉ định thầu và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình (trong trường hợp này
nếu tổ chức đấu thầu rộng rãi thì cũng chỉ có một nhà thầu tham dự). Trường hợp
không xác định được trên thị trường chỉ có duy nhất một nhà thầu có khả năng
thực hiện gói thầu thì phải tổ chức đấu thầu. Bên cạnh đó, do quy mơ, tính chất,
Luật Đấu thầu năm 2013 đã giao Chính phủ quy định về hạn mức áp dụng chỉ định thầu phù hợp với với điều kiện
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Trên cơ sở đó, tại Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, Chính phủ đã quy định các hạn
mức cụ thể đối với từng loại gói thầu theo từng nguồn vốn.

6


16

đặc điểm, u cầu cơng nghệ của các gói thầu trong từng lĩnh vực là khác nhau, do
đó khơng thể quy định cụ thể cách xác định các yêu cầu về giải pháp, cơng nghệ

trong dự thảo Luật. Vì vậy, đề nghị giữ nguyên quy định như dự thảo Luật.
Tại khoản 2 đề nghị nên quy định thời hạn là 30 ngày thay vì 15 ngày như
dự thảo Luật, thực tế khi hoàn thiện thủ tục chỉ định thầu các gói thầu khẩn cấp
phục vụ phịng, chống dịch COVID-19 vừa qua với 15 ngày thì đối với các chủ đầu
tư rất khó đảm bảo thời gian để hồn chỉnh thủ tục. Có ý kiến đề nghị có điều
riêng quy định về chỉ định thầu rút gọn, trong đó mở rộng các trường hợp áp dụng
chỉ định thầu rút gọn gồm cả trang thiết bị y tế, vật tư tiêu hao, sinh phẩm, hóa
chất xét nghiệm và thuốc, có quy định phân biệt các trường hợp chỉ định thầu rút
gọn và chỉ định thầu.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, khoản 2 Điều 23 dự thảo Luật được chỉnh lý
theo hướng quy định việc áp dụng chỉ định thầu theo quy trình rút gọn được áp
dụng đối với các gói thầu cần thực hiện ngay do yêu cầu về tính cấp bách, khẩn
cấp, cấp cứu7.
Do đã các gói thầu quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 được áp dụng chỉ
định thầu theo quy trình rút gọn nên khơng cần thiết phải thay đổi thời gian hoàn
thiện thủ tục chỉ định thầu theo quy trình rút gọn. Việc quy định thời hạn 15 ngày
để bảo đảm trách nhiệm của chủ đầu tư trong trường hợp xác định gói thầu có yêu
cầu cấp bách cần triển kha ngay, đồng thời bảo đảm quyền lợi cho nhà thầu.
10. Về các quy định liên quan đến lựa chọn nhà đầu tư
Tại điểm b khoản 2 có ý kiến đề nghị nên giao Chính phủ ban hành quy
trình, thủ tục thống nhất, Bộ KHĐT là cơ quan đầu mối chủ trì tổng hợp danh mục
các lĩnh vực dự án cần tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Điều 46 của dự thảo Luật đã giao Chính phủ quy
định chi tiết trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư, trong đó có thủ tục lập, cơng bố
Danh mục dự án cần tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
7

Cụ thể như sau:
“2. Đối với gói thầu quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, chủ đầu tư quyết định, chịu trách
nhiệm việc chỉ định thầu theo quy trình rút gọn cho nhà thầu có năng lực, kinh nghiệm để thực hiện ngay gói thầu.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bắt đầu thực hiện gói thầu, các bên phải hồn thiện thủ tục chỉ định thầu theo
quy định tại khoản 2 Điều 43 của Luật này”.


17

Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về quy mơ diện tích sử dụng đất tối thiểu
đối với các cơng trình thương mại, dịch vụ phải thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà
đầu tư, bổ sung quy định đối với trường hợp có 2 nhà đầu tư đăng ký dự án sản
xuất, kinh doanh thì thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư để đảm bảo thống
nhất với Luật Đầu tư.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: phạm vi điều chỉnh của dự thảo
Luật Đấu thầu (sửa đổi) và dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được phân định rõ
ràng; theo đó, Luật Đất đai quy định về các trường hợp, điều kiện xác định khu đất
được lựa chọn để đấu thầu dự án có sử dụng đất; quy định về giao đất, cho thuê
đất; quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư được lựa chọn để thực hiện dự án có sử dụng
đất; (ii) Luật Đấu thầu quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục đấu thầu lựa chọn nhà
đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất thuộc trường hợp phải đấu thầu theo quy
định của pháp luật về đất đai.
Theo ngun tắc đó, việc xác định quy mơ, diện tích sử dụng đất tối thiểu
của cơng trình thương mại, dịch vụ phải đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu
lựa chọn nhà đầu tư sẽ được nghiên cứu quy định tại dự thảo Luật Đất đai (sửa
đổi). Theo quy định tại dự thảo Luật Đất đai đã trình Quốc hội thì cơng trình
thương mại dịch vụ khơng cịn thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu, mà sẽ áp
dụng đấu giá quyền sử dụng đất để lựa chọn nhà đầu tư.
-Về hình thức lựa chọn nhà đầu tư (Điều 34): Có ý kiến đề nghị chỉ áp
dụng quy định về việc lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt đối với dự án
đầu tư có sử dụng đất và bổ sung nội dung tại khoản 3: “Việc chuyển mục đích sử
dụng đất, chuyển nhượng dự án đối với các dự án có nhà đầu tư được lựa chọn
trong trường hợp đặc biệt chỉ được thực hiện sau khi có ý kiến của Ủy ban Thường

vụ Quốc hội”.
Tiếp thu ý kiến Đại biểu, điểm a khoản 3 Điều 34 của dự thảo Luật đã được
chỉnh lý theo hướng áp dụng hình thức lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc
biệt đối với dự án đầu tư có sử dụng đất có yêu cầu đặc thù, cấp bách nhằm bảo
đảm quốc phòng, an ninh, biên giới lãnh thổ mà khơng thể áp dụng hình thức đấu
thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế.


18

Về đề nghị quy định: việc chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển nhượng dự
án đối với các dự án có nhà đầu tư được lựa chọn trong trường hợp đặc biệt chỉ
được thực hiện sau khi có ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Phương án tiếp thu: Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, quy định cụ
thể tại Điều 34 của dự thảo Luật8.
Phương án giải trình (Bộ KHĐT): Về việc áp dụng điều kiện chuyển mục
đích sử dụng đất, chuyển nhượng dự án đối với các dự án này, xin báo cáo như
sau: các điều kiện chuyển nhượng dự án đầu tư đã được quy định tại Luật Đầu tư
và pháp luật về đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản; thẩm quyền cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất cũng được quy định cụ thể tại Luật Đất đai (các Điều
58 và 59). Do vậy, việc bổ sung quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội có ý kiến
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển nhượng dự án đối với nhà đầu tư
được lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt là chưa phù hợp với quy định
của Luật Đất đai, Luật Đầu tư và pháp luật có liên quan, dẫn đến phát sinh thủ tục,
khơng bảo đảm tính thống nhất giữa pháp luật về đấu thầu và pháp luật có liên
quan. Ngồi ra, để bảo đảm tính thống nhất về thẩm quyền quyết định áp dụng
hình thức lựa chọn nhà đầu tư và nhà thầu, đề nghị bổ sung quy định Thủ tướng
Chính phủ quyết định lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt đối với dự án
đầu tư có sử dụng đất có yêu cầu đặc thù, cấp bách nhằm bảo đảm quốc phòng, an
ninh, biên giới lãnh thổ (điểm b khoản 3 Điều 34).

-Về phương thức lựa chọn nhà đầu tư (Điều 35): Có ý kiến đề nghị làm rõ
tiêu chí đánh giá tính chất đặc thù phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng, địa
phương nêu tại khoản 3, hoặc giao Chính phủ quy định chi tiết.
Dự án đầu tư kinh doanh theo quy định của Luật này gồm dự án đầu tư có sử
dụng đất thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về
đất đai và dự án đầu tư phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật quản lý
8

Cụ thể: “3. Lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt
Lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt được áp dụng đối với dự án đầu tư có sử dụng đất có yêu
cầu đặc thù, cấp bách nhằm bảo đảm quốc phòng, an ninh, biên giới lãnh thổ mà khơng thể áp dụng hình thức đấu
thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quyết định trường hợp áp dụng hình thức lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt. Việc chuyển
mục đích sử dụng đất, chuyển nhượng dự án đối với các dự án có nhà đầu tư được lựa chọn trong trường hợp
đặc biệt chỉ được thực hiện sau khi có ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”.


19

ngành, lĩnh vực. Như vậy, dự án phải tổ chức lựa chọn nhà đầu tư theo Luật này
hết sức đa dạng, thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau và có thể thực hiện tại các
địa bàn có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Dự thảo Luật khơng thể
quy định tiêu chí đánh giá tính chất đặc thù phát triển kinh tế - xã hội của dự án
đầu tư thuộc tất cả các ngành, vùng, địa phương. Thay vào đó, trong từng trường
hợp cụ thể, người có thẩm quyền sẽ xem xét tính chất đặc thù của ngành, vùng, địa
phương để xác định phương thức lựa chọn nhà đầu tư cho phù hợp.
Về đấu thầu trước (Điều 42): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về quy
trình, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đấu thầu trước cho phù hợp
với khoản 2 Điều 42 quy định quy trình lựa chọn nhà thầu đối với gói đấu thầu
trước thực hiện theo quy định tại Điều 43 của luật này.

Đấu thầu trước chỉ áp dụng đối với lựa chọn nhà thầu mà không áp dụng trong
trường hợp lựa chọn nhà đầu tư do trình tự, thủ tục đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư chỉ
tiến hành khi có thơng tin cơ bản về dự án (có quyết định chấp thuận chủ trương đầu
tư hoặc đã xác định được dự án có từ 02 nhà đầu tư trở lên quan tâm).
11. Về giải quyết kiến nghị (Từ Điều 91 đến Điều 97)
- Về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo và khởi kiện trong hoạt động đấu thầu
(Điều 92): Tại khoản 1 có ý kiến đề nghị nghiên cứu, rà soát, phân định rõ các nội
dung mà nhà thầu, nhà đầu tư được khởi kiện ra tòa, khiếu nại, tố cáo và các nội
dung kiến nghị khác thì được giải quyết theo quy định của Luật này nhằm khắc
phục được tồn tại, hạn chế đã nêu tại Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực
hiện Luật Đấu thầu giai đoạn 2015-2020 “vẫn xảy ra tình trạng nhiều nhà thầu
gửi kiến nghị đến nhiều nơi, không đúng thẩm quyền. Một số đơn vị chủ đầu tư,
bên mời thầu giải quyết kiến nghị không triệt để, kéo dài dẫn đến kiến nghị vượt
cấp, ảnh hưởng đến kết quả gói thầu, dự án”.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Dự thảo Luật (Điều 92) đã quy
định khi thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh hưởng thì nhà thầu, nhà đầu
tư được quyền kiến nghị, khởi kiện, khiếu nai, tố cáo. Theo đó, trong mọi trường
hợp khi nhà thầu, nhà đầu tư thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh hưởng
thì đều có quyền kiến nghị, khởi kiện, khiếu nại, tố cáo nên không cần thiết phải
quy định cụ thể các trường hợp nhà thầu, nhà đầu tư được kiến nghị, khởi kiện,
khiếu nai, tố cáo để bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhà thầu, nhà đầu tư.


20

- Về quy trình giải quyết kiến nghị về lựa chọn nhà thầu (Điều 94): Có ý
kiến đề nghị chỉ quy định một quy trình kiến nghị và bỏ quy trình tại điểm b khoản
2. Bởi vì quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu, chấm thầu do chủ đầu tư bên mời
thầu thực hiện, do đó các kiến nghị của nhà thầu nên được chủ đầu tư rà soát và
giải quyết trước, trường hợp nhà thầu không đồng ý thì có thể kiến nghị đến người

có thẩm quyền và Hội đồng tư vấn giải quyết kiến nghị .
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Trong quá trình tổ chức lựa chọn
nhà thầu, chủ đầu tư, bên mời thầu có thể có các sai sót dẫn đến khơng bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của nhà thầu, nhà đầu tư. Tuy nhiên, nếu các sai sót này
được phát hiện và phản ánh thì chủ đầu tư, bên mời thầu hồn tồn có thể chỉnh
sửa lại các sai sót cho phù hợp. Trong trường hợp này, nếu chỉ quy định một quy
trình kiến nghị (nhà thầu, nhà đầu tư kiến nghị lên người có thẩm quyền) thì sẽ gây
lãng phí thời gian giải quyết kiến nghị do người có thẩm quyền sẽ phải yêu cầu chủ
đầu tư, bên mời thầu rà sốt, báo cáo. Vì vậy, đề nghị giữ quy định như dư thảo
Luật.
Có ý kiến đề nghị cần rà soát, điều chỉnh lại thời gian giải quyết các kiến
nghị về các vấn đề trong quá trình lựa chọn nhà thầu và giải quyết kiến nghị về kết
quả lựa chọn nhà thầu cho phù hợp thực tế và đảm bảo thuận lợi cho người có
thẩm quyền và Hội đồng tư vấn giải quyết kiến nghị .
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Thời gian giải quyết kiến nghị
được xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định đã áp dụng ổn định tại Luật Đấu thầu
năm 2013 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP. Theo đó, việc quy định cụ thể các mốc
thời gian giải quyết kiến nghị để nhằm bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của
nhà thầu, nhà đầu tư, đồng thời hạn chế tình trạng chủ đầu tư, người có thẩm quyền
cố tình chây ỳ trong việc giải quyết kiến nghị.
- Về nhiệm vụ, thành phần, hoạt động của Hội đồng tư vấn giải quyết
kiến nghị (Điều 96): Có ý kiến đề nghị tăng thêm thời gian giải quyết kiến nghị tại
điểm c khoản 4 tùy theo tính chất, quy mơ và độ phức tạp của gói thầu, cụ thể là
20 đến 30 ngày đối với nhà thầu, 30 đến 40 ngày đối với nhà đầu tư .
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, điểm c khoản 4 Điều 96 dự thảo Luật đã được
chỉnh lý theo hướng tăng thời gian tối đa giải quyết kiến nghị để bảo đảm phù hợp




×