ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
HỌC PHẦN: NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN TRUYỀN
THỐNG
Mã học phần: VNS3015
Giảng viên hướng dẫn:
Hà Nội, 05/2022
Mục lục:
1.1. Không gian và môi trường biểu diễn trong nghệ thuật biểu diễn truyền
thống Việt Nam:
3
1.1.1: Âm nhạc gắn với vòng đời:
3
1.1.2. Âm nhạc gắn với lao động:
1.1.3. Âm nhạc gắn với tơn giáo tín ngưỡng:
6
1.2. Hình thức biểu diễn:
7
Câu 2: Trình bày khơng gian, mơi trường và các hình thức biểu diễn trong
nghệ thuật biểu diễn truyền thống Việt Nam:
Trải qua q trình lịch sử lâu dài và khơng ngừng sáng tạo ông cha, ta đã
dày sông hun đúc nên nền văn hóa âm nhạc truyền thống mang phong cách đặc
trưng riêng nhưng lại mang tính thống nhất giữa 54 dân tộc cùng sinh sống trên
lãnh thổ Việt Nam.
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống là loại hình nghệ thuật bản địa sử dụng
ngôn ngữ âm nhạc, sân khấu và múa để diễn tả tư tưởng, thuần phong mỹ tục
Việt Nam được người Việt sáng tạo, thực hành, lưu truyền từ đời này sang đời
khác.
-Nội hàm; Do người Việt Nam sáng tạo ra.
-Ngoại diên: Âm nhạc, sân khấu (tuồng, chèo, cải lương,...) và múa.
tiền sân khấu có ví dặm, bài chòi, rối nước,...
Âm nhạc truyền thống là một bộ phận khơng nhỏ trong văn hóa Việt Nam
có thể chia ra thành hai dòng: Âm nhạc dân gian và âm nhạc bác học.
-Âm nhạc dân gian là nền tảng cơ sở để xây dựng nền âm nhạc chuyên nghiệp,
hiện đại.
-Âm nhạc chun nghiệp - bác học có q trình phát triển, đào thải và tinh lọc
đến độ chuẩn mực, được quy chuẩn bằng thang âm, điệu thức có quy luật ổn
định và có hệ thống bài bản rõ ràng.
+Người thực hành dịng âm nhạc này phải trải qua q trình đào tạo một
cách bài bản và bền bỉ đồng thời sau khi được đào tạo có thể sống bằng nghề lấy
nghiệp đàn hát làm nghề chính sinh nhai.
+Âm nhạc chuyên nghiệp của người Việt có các loại hình như: Ca trù,
tuồng, chèo, đờn ca tài tử (bán chuyên nghiệp), cải lương, hát xẩm,...
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống lõi quan trọng nhất là âm nhạc dân
gian truyền thống.
1.1. Không gian và môi trường biểu diễn trong nghệ thuật biểu diễn truyền
thống Việt Nam:
Âm nhạc truyền thống có ba mảng chính:
1.1.1: Âm nhạc gắn với vòng đời: Âm nhạc gắn liền với con người từ khi sinh
ra đến khi trở thành cát bụi bao gồm hát ru, hát đồng dao, âm nhạc giao duyênđối đáp và âm nhạc trong tang lễ.
-Thứ nhất, Hát ru:
Là thể âm nhạc quan trọng nhất trong cuộc đời của mỗi người. Môi
trường diễn xướng chủ yếu trong khơng gian sinh hoạt gia đình như trong nhà,
võng, nôi… mà chủ yếu gắn với phụ nữ mẹ ru con, bà ru cháu, chị ru em để dỗ
dành trẻ nhỏ vào giấc ngủ hay là địu con trên nương,
● Nguồn gốc của hát ru: có nguồn gốc lịch sử lâu đời được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
● Chức năng hát ru: đầu tiên là mục đích ru cho bé ngủ bên cạnh đó trong
lời hát ru cũng chứa nỗi niềm về cuộc sống của những người phụ nữ.
● Phân loại hát ru: hát ru đích thực và hát ru tùy hứng.
-Hát ru đích thực: Loại bài ca này thường bắt đầu với mơ típ “Cái ngủ
mày ngủ”; “con ơi con ngủ cho ngoan”,... do người lớn sáng tác với mục đích ru
trẻ.
-Hát ru tùy hứng: Những bài hát tùy vào “lưng vốn” thơ ca của bà, của
mẹ mà “bẻ” theo điệu hát ru, có thể là ca dao, là trích đoạn truyện Kiều của
Nguyễn Du hay “Cơ lái đị” của nhà thơ Nguyễn Bính.
● Nhạc cụ đệm: Hát ru truyền thống không sử dụng nhạc cụ.
-Thứ hai: Hát đồng dao:
Môi trường diễn xướng đồng dao là bất kể nơi đâu trong sinh hoạt tập thể
vì gắn liền với trò chơi của trẻ em.
● Nguồn gốc: Đồng dao bắt nguồn từ những bài ca dao, tục ngữ và làn
điệu dân ca cổ truyền, là những bài hát trẻ quê truyền miệng không rõ tác
giả.
● Phân loại: các bài hát, câu hát trẻ em, lời hát trong các trò chơi, …
● Chức năng: Giúp trẻ em nhận biết thế giới xung quanh, đồng thời có vai
trị quan trọng trong việc giáo dục trẻ.
● Đặc điểm: Về ngôn ngữ: thể thơ thường là bốn chữ, lục bát, hai chữ, ba
chữ và thể thơ hỗn hợp.
Ví dụ: Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bơng.
Về tiết tấu, đồng dao là những bài hát có cấu trúc nhịp theo chu kỳ
và nói theo tiết tấu.
-Thứ ba, âm nhạc giao duyên, đối đáp:
Đây là mảng phong phú nhất có ở các tầng lớp, thể loại đều có thể hiện
văn hóa làng xã. Mơi trường diễn xướng ở trên sông nước, làng xã, cánh đồng.
● Hát giao duyên kinh điển bao gồm; hát ví, hát đúm, hát trống quân, sa
mạc, bồng mạc, quan họ,hát cò lả,... Đạt đến cấu trúc ổn định.
● Chức năng: Sáng tạo văn học, nghệ thuật.
● Quan họ: Môi trường diễn xướng: sông nước, lãng xã, cánh đồng.
-Không gian:
(1)Hát thờ: tổ nghề, làng Diềm
(2)Hát canh: ở các làng kết chạ, kết nghĩa, nhà chứa → Đặc trưng văn
hóa
(3) Hát hội
-Kỹ thuật hát: Vang, rền, nền, nảy.
● Hát đúm: cịn được gọi là hát nói, hát mở mặt, là loại hình dân ca với
những làn điệu đối đáp trong những dịp hội, hè đầu xuân.
Hát đúm đậm đặc nhất ở Hải Phịng.
-Ý nghĩa: đây là hình thức sinh hoạt văn hóa nơi thanh thiếu niên tìm
hiểu, làm quen để tiến tới hơn nhân.
-Hình thức diễn xướng: Hát lẻ và hát hàng.
● Hát lẻ chỉ một giới (nam hoặc nữ) hát đối, mỗi nhóm có vài ba
người diễn ra ở mọi nơi: có khi đang ở trên đường, sân đình, sân
chùa, những ngày hội.
● Hát hàng thường diễn ra ở lễ hội đình, chùa, do hai giới nam và nữ
tham gia. Khi hát có nhạc bát âm, hai bên đối đáp, bên nào không
đối đáp được là thua.
● Lời, làn điệu hát đúm: hát đúm không phát triển về giai điệu mà
phát triển về lời ca chỉ với ba cao độ Rê, Sol, La… nhưng đã sáng
tác ra hàng nghìn lời ca phản ánh cuộc sống người dân.
● Lời bài hát đúm chủ yếu thuộc thể lục bát và song thất lục bát.
● Làn điệu hát đúm gồm có: trống qn, cị lả, quan họ, sa mạc, …
-Trình tự hát:
● Mở đầu: những câu hát chào hát mừng khi gặp nhau.
● Tiếp theo là phần hát giao hẹn.
● Kết thúc là hát ra về (hát tiễn).
-Ví dụ một số câu hát đúm:
Hát gặp:
Chàng trai: “Bây giờ kỳ ngộ tương phùng/ Bõ công ao ước trông mong xa
gần/ Gái trai sống ở cõi trần/ Lẽ nào bỏ phí cái xn cho đành”.
Cơ gái: “Đêm qua gió mát trăng thanh/ Nhớ ai em nhưng năm canh thở
dài/ Ước gì có được những ngày/ Được gần người ấy lịng này mới yên”.
-Thứ tư, âm nhạc trong tang lễ: Môi trường diễn xướng của âm nhạc tang lễ
sinh ra trong tang lễ.
● Dàn bát âm gồm; tiêu, sáo trúc, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tam, đàn tỳ bà,
trống phách.
-“Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
-“Sống giàu đẹp, chết kèn trống”.
-“Trẻ làm ma, già mở hội” —> Thể hiện sự gắn kết giữa người sống và
người chết.
● Cặp trống chiến: dành cho người trên 70 tuổi.
● Các trò diễn trong tang lễ xếp vào loại hình tiền sân khấu.
1.1.2. Âm nhạc gắn với lao động: Môi trường diễn xướng của nghệ thuật hát
gắn với lao động. Trong q trình khai thác nơng nghiệp và ngư nghiệp người
nông dân cất lên tiếng hát để quên đi nặng nhọc, cay đắng cũng như hưởng
những niềm vui, hạnh phúc trong q trình lao động.
Bao gồm: hị sơng Mã, hị Nam Bộ.
-Hị sơng Mã: Mơi trường diễn xướng ở trên sơng (Thanh Hóa).
-Về giai điệu: tiến hành giai điệu nhảy quãng là phổ biến.
-Về thang âm- điệu thức: hình thành điệu thức năm âm, bên cạnh đó xuất
hiện điệu thức Oán, đó là điệu thức ra đời muộn hơn nhưng mang bản sắc riêng
của người Việt.
-Nét độc đáo của hị sơng Mã: giai điệu uyển chuyển ln gắn liền với
tiếng giâm chân rộn rã lên mặt ván thuyền theo một âm hình tiết tấu khơng đổi
nghe như nền đệm của nhạc cụ gõ.
1.1.3. Âm nhạc gắn với tơn giáo tín ngưỡng: Loại âm nhạc sáng tác gắn với
các nghi lễ như một phần của nghi lễ tôn giáo.
Về tín ngưỡng :
-Âm nhạc gắn với nghi lễ Hầu Đồng: hệ thống hát chầu văn: Môi
trường diễn xướng sinh ra từ nghi lễ thờ cúng Tam Phủ, Tứ Phủ.
● Tín đồ thờ mẫu gọi là con nhang, đệ tử.
-Hát chầu văn gắn với 36 giá đồng. Ngồi ra cịn có âm nhạc gắn với múa
lên đồng.
● Nhạc cụ đặc trưng trong hát chầu văn là nhạc quế.
● Người hát chầu văn gọi là cung văn.
-Âm nhạc gắn với tế lễ Thành Hoàng làng sinh ra từ tục thờ cúng thành
Hoàng làng.
Cần hai dàn nhạc: Cặp trống chiêng và phường bát âm.
-Cặp trống chiêng: mỗi bước lễ đều có sự tham gia của trống và chiêng.
● Hôn phối giữa họ thân vang và màng rung.
● Hôn phối 2 chi gõ với nhau ( trống luôn đánh trước).
● Theo hình thức: trống đổ hồi.
● Chức năng: Dẫn dắt, điều khiển.
-Phường bát âm: Chỉ được trình diễn từ người 70 tuổi trở lên vốn dĩ chỉ
dành cho người cao tuổi ( gồm 8 loại chất liệu âm thanh).
● Trước đây chỉ tham gia rước tượng thành Hoàng làng.
● Sau đưa vào tế lễ trong Thành Hoàng làng.
● Chức năng: Tạo khơng khí trang nghiêm.
● Đội múa sinh tiền (múa bông): Diễn xướng tương đối độc lập.
● Trống dẫn: Thực hiện lệnh của trống lớn và chiêng.
● Ảnh hưởng bởi nhạc cung đình ( sau đời nhà Lê được nghệ nhân
phát triển).
● Rước Thành Hồng ra để tơn vinh cơng lao của Thành Hồng.
● Để Thành Hồng gặp gỡ tất cả người dân từ người già đến người
trẻ.
—> Như vậy ngoại diên của Thành Hồng cịn có thờ cúng tổ tiên. Có lễ giỗ,
âm nhạc tham gia tồn bộ tang lễ, âm nhạc trong tang lễ là quan trọng nhất,
Về Phật giáo:
-Sinh ra trong nghi lễ Phật giáo. Bao gồm nhạc hát và nhạc đàn.
-Nhạc hát có tụng kinh, tán canh có 3 canh: canh Hà Nội- thể hiện rõ
trong việc sử dụng phách, canh Đơng (Hải Phịng) và canh Nam (Thái Bình).
Ngồi ra cịn có hát Xoan: sinh ra từ tục thờ Hùng Vương Phú Thọ. Bởi vì hát
Xoan có chức năng cụ thể là hát thờ —> Thuần túy nghi lễ.
Quan họ có một vài bài gắn với tổ nghề quan họ (hát thờ) nên cũng có thể đưa
vào âm nhạc tín ngưỡng, tơn giáo ( dân ca nghệ thuật và chức năng nghi lễ).
—> Nhưng chủ yếu vẫn là nghệ thuật.
—> Truyền thống thể hiện rõ nhất khi nó đưa vào tín ngưỡng.
1.2. Hình thức biểu diễn:
Nhạc hát: hát đơn, đối - đáp, tập thể —> Ln ln có nhạc cụ đệm.
Ví dụ:
● Quan họ theo hình thức đối đáp.
● Hát ru: đơn ca.
● Hát ca trù: đơn ca.
Nhạc đàn: Độc tấu, song tấu, hòa tấu —> Có chức năng đệm cho hát.
Ví dụ:
● Trong nghệ thuật ca trù có: đàn đáy, trống chầu và cỗ phách.
-Đàn đáy: họ dây, chi gảy.
-Trống chầu:họ màng rung, chi gõ.
● Trong hát tuồng: có trống chiến và kèn sona.
-Trống chiến: họ màng rung, chi gõ.
-kèn sona: họ hơi, chi thổi.
● Trong hát chầu văn có đàn nguyệt thuộc họ dây, chi gảy.
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống của chúng ta vẫn đang trong bối cảnh
biến hóa cho phù hợp với bối cảnh lịch sử. Điều đó là lẽ tất yếu biến đổi để phù
hợp với dòng chảy của nhân loại.