Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tl cnxhkh tìm hiểu cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.04 KB, 34 trang )

Mục Lục

MỞ ĐẦU................................................................................................1
Chương 1: Cơ sở lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa..................4
1.1. Các khái niệm có liên quan..............................................................4
1.2. Bản chất, mục đích, động lực và nội dung của cuôc cách mạng xã
hội chủ nghĩa.....................................................................................................5
Chương 2: Nội dung cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
giai đoạn 1954 - 1975.....................................................................................10
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và Quá trình hình thành đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc................................................................................10
2.2. Nội dung Đảng lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc (1954 – 1975)..................................................................................16
Chương 3: Thành tựu và hạnh chế của sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc từ năm 1954 - 1975...................................................27
3.1. Thành tựu.......................................................................................27
3.2. Hạn chế...........................................................................................28
KẾT LUẬN..........................................................................................30
Tài liệu tham khảo..............................................................................32


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác, những người đặt nền móng lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học – C. Mác và Ph. Ăngghen đã để lại cho chúng
ta những kiến giải đặc sắc về biện chứng phát sinh, phát triển của chủ nghĩa
xã hội. Sau đó Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, chủ
nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn xã hội Nga từ cuối thế kỷ XIX đến những
năm 20 của thế kỷ XX, đã sáng lập ra học thuyết Đảng kiểu mới, đã lãnh đạo
thành công cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại ở Nga vào năm 1917. Đó là
cuộc cách mạng đã khai sinh ra chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một chế độ xã


hội kiểu mới, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Từ thắng lợi
của cuộc cách mạng này mà một bước ngoặt lịch sử đã diễn ra với Đảng Cộng
sản – Đảng trở thành một Đảng cầm quyền. Lênin cũng là một nhà cách tân vĩ
đại vô cùng khi lần đầu tiên trong lịch sử xã hội chủ nghĩa hiện thực đã có
những sáng tạo lớn với sự phát triển chủ nghĩa Mác về “lý luận phát triển rút
ngắn” (bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ tới chủ nghĩa xã hội) là một
trong những phương thức vô cùng thích hợp với hồn cảnh và điều kiện của
các nước lạc hậu. Chủ nghĩa Lênin đã góp phần làm sống động phong phú của
chủ nghĩa Mác trong những diều kiện lịch sử mới. Cũng từ đó mà chủ nghĩa
Mác đã phát triển thành chủ nghĩa Mác – Lênin trên cả hai phương tiện, lịch
sử và logic.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ vận dụng sáng tạo mà
Người cịn có những phát triển thực sự mới mẻ, độc đáo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đã vạch ra lý tưởng, mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, nước
ta đã hồn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại và lẫy lừng mang tầm quan trọng quốc tế và
1


tính thời đại sâu sắc. Để làm nên thắng lợi to lớn trên khơng thể khơng kể đến
sự đóng góp to lớn của kết quả sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc giai đoạn 1954 – 1975 bởi đồng bào và chiến sĩ miền Bắc đã vừa chiến
đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương vững chãi,
hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn ở Miền Nam để giành chiến thắng
trước cuộc xâm lược của giặc Mỹ.
Nhận thức được tầm quan trọng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc giai đoạn 1954 – 1975, sinh viên quyết định lựa chọn đề tài: “ Tìm
hiểu Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954 – 1975” làm đề

tài cho tiểu luận hết môn của môn Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của tiểu luận nhằm góp phần tìm hiểu, nhận thức
sâu và đúng đắn hơn những vấn đề cơ bản của quá trình đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, đồng thời nắm được quá trình hình thành cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt
Nam trong giai đoạn 1954 – 1975.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu cho đề tài thì cần phải thực hiện một
số nhiệm vụ nghiên cứu như: Phân tích và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc của nước ta trong giai đoạn
1954 - 1975. Tiếp theo là phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế của
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Tìm hiểu Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai
đoạn 1954 – 1975
Phạm vi nghiên cứu: Trong nước và một số nước xã hội chủ nghĩa trên
thế giới
2


Thời gian: Từ năm 1954 - 1975
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, đồng thời dựa trên những nguyên lý căn bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, bên cạnh đó cịn kết hợp thêm phương pháp chuyên ngành và liên
ngành như: phân tích, tổng hợp, thống kê, phân tích thực tiễn, đánh giá, so
sánh,…
6. Kết cấu

Tiểu luận bao gồm phần mở đầu, nội dung chính, phần kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo. Trong đó phần nội dung chính bao gồm 3 chương và
6 tiết.

3


Chương 1: Cơ sở lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa

1.1. Các khái niệm có liên quan
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển
học thuyết Mác- Lênin về triết học và kinh tế chính trị học – cơ sở cho việc
luận chứng về kinh tế - xã hội của quá trình nảy sinh hình thành và phát triển
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, luận giải sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân – người sáng tạo xã hội mới. Đồng thời, thực tiễn đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là cơ sở để kiểm
nghiệm, tiếp tục phát triển triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội
khoa học. Sự hoàn chỉnh, cân đối, thống nhất gắn bó chặt chẽ của học thuyết
thể hiện tính khoa học và cách mạng, lý luận gắn với thực tiễn của học thuyết
Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội “Là phương tiện giải phóng giai cấp vơ sản và
việc giải phóng giai cấp vơ sản là mục đích của nó” chủ nghĩa xã hội khoa
học là lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Có thể nói Cách mạng xã
hội chủ nghĩa là kết quả tất yếu của sự vận động của những mâu thuẫn trong
kinh tế và xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một khái niệm cơ bản của chủ nghĩa xã
hội khoa học được dùng để chỉ cuộc cách mạng xã hội do chính đảng của giai
cấp cơng nhân lãnh đạo, nhằm thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Theo nghĩa rộng thì cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách

mạng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, nhằm thay
thế chế độ cũ, chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa do đảng cộng sản – chính đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo, nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là giải

4


phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại khỏi mọi áp bức bóc lột, bất cơng đem lại
cuộc sống ngày càng hạnh phúc cho con người.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc
cách mạng chính trị với nội dung chủ yếu là giành và giữ chính quyền, trong
đó thiết lập và khơng ngừng củng cố hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, từng
bước xác lập, phát huy quyền dân chủ của giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản được coi là một nội
dung cốt lõi và bản chất của hệ thống chính trị ấy.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách
mạng xã hội chủ nghĩa ngày càng trở nên tất yếu không chỉ đối với các nước
tư bản chủ nghĩa phát triển cao mà cả đối với các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển trung bình, các nước tiền tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa, phụ
thuộc. Chính vì vậy mà Lê-nin đã khẳng định rằng chủ nghĩa đế quốc là
“phòng chờ” của chủ nghĩa xã hội là “đêm trước của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Theo tinh thần đó, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt
Nam, dân tộc Việt Nam tiến hành thắng lợi triệt để cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Lịch sử Việt Nam từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam đến nay đã chứng
minh tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chứng minh
tính đúng đắn của con đường cách mạng Việt Nam, con đường mà Đảng, Hồ
Chí Minh và nhân dân ta đã chọn.

1.2. Bản chất, mục đích, động lực và nội dung của cuôc cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
1.2.1. Bản chất
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân –
giai cấp tiên tiến và cách mạng của thời đại. Đây là cuộc cách mạng do giai

5


cấp công nhân tiến hành và giai cấp công nhân là động lực cơ bản nhất của
cuộc cách mạng đó. Đồng thời, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp cơng nhân
tiến hành và giai cấp cơng nhân cịn là lực lượng tiên phong, lãnh đạo và lôi
cuốn các tầng lớp lao động khách trong sự nghiệp giải phóng xã hội nhằm tạo
ra sức mạnh tổng hợp to lớn để lật đổ ách thống trị của các giai cấp bóc lột và
xây dựng thành công xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Mục đích
Mục đích cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ hình
thức áp bức bóc lột, mọi bất cơng, mọi sự tha hóa của con người trong xã hội
và xây dựng thành công xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa và sau đó là cộng
sản chủ nghĩa, một xã hội khơng cịn chế độ “người bóc lột người”, khơng
cịn giai cấp, một xã hội thực sự tự do, công bằng và hạnh phúc cho mọi
người, một xã hội mà “ trong đó có sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự tự do của tất cả mọi người”; một xã hội mà trong đó các dân tộc
trên thế giới đều được giải phóng, xích lại gần nhau và phát triển thịnh vượng
trong một thế giới đại đồng.
Ở nước ta, giai cấp công nhân Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta thực
hiện thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sau đó chuyển chính
quyền dân chủ nhân dân sáng làm nhiệm vụ chun chính vơ sản để thực hiện
mục tiêu “xóa bỏ mọi chế độ áp bức, bóc lột người,…nhằm đưa lại đời sống
ấm no cho tồn dân” và góp phần cùng nhân loại hướng tới một thế giới “đại

đồng”.
1.2.3. Động lực xã hội – giai cấp của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo. dù
diễn ra ở các nước vào các thời điểm khác nhau nhưng đề có tính quốc tế vì
vật nó cịn được sự ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ của giai cấp công nhân quốc tế,
của các lực lượng tiến bộ, u chuộng hịa bình trên thế giới. Đó là một động

6


lực to lớn, một sức mạnh thời đại đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Có thể khẳng định rằng, động lực của cuộc các mạng xã hội chủ nghĩa
là động lực tổng hợp bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đại hội IX
của Đảng ta đã khẳng định “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã
hội”.
1.2.4. Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội
Trên lĩnh vực chính trị: Giai cấp công nhân lãnh đạo các tầng lớp nhân
dân khác đập tan quyền lực chính trị của giai cấp tư sản cùng với thiết chế vận
hành quyền lực đó để thiết lập quyền lực chính trị của mình tức là nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa dưới một hình thức thích hợp, xây dựng và hồn thiện
nền dân chủ đó để tạo ra động lực chính trị to lớn thực hiện cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, đập tan mọi hành động
chống phá cách mạng của các thế lực thì địch với chủ nghĩa xã hội ở bên
trong và bên ngoài, bảo vệ vững chắc những thành quả của cách mạng xã hội

chủ nghĩa, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chung của giai cấp công nhân
và của nhân loại tiến bộ vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
trên toàn thế giới.
Trên lĩnh vực kinh tế: Giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân lao động
tiến hành cuộc cải tạo cách mạng đối với quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ và tính chất của lực lượng sản xuất để thực hiện nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước với những hình thức, quy mơ, tốc
7


độ và con đường phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể, tích cực ứng dụng
những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất,
phát huy nội lực, tích cực tham gia vào q trình hợp tác, phân cơng khu vực
và quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế; thực hiện phân phối theo lao
động, thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu vật chất và tình thần của nhân dân,
tạo cơ sở kinh tế ngày càng vững chắc cho việc giải quyết các vấn đề chính trị
- xã hội, văn hóa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trên lĩnh vực xã hội: Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xóa
bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, xóa bỏ mọi sự đối kháng và bất bình
đẳng trong xã hội để tiến tới một xã hội khơng cịn giai cấp bóc lột, khơng cịn
đối kháng giữa các dân tộc, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa
nông thôn và thành thị; giải quyết các vấn đề có liên quan đến đời sống xã hội
trên cơ sở nguyên tắc “Công bằng xã hội chủ nghĩa”; tiến tới xóa bỏ dần sự
khác nhau về giai cấp để chuẩn bị cho sự ra đời một xã hội khơng cịn giai cấp
dưới chủ nghĩa cộng sản.
Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng: Nội dung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa là từng bước loại bỏ những tập quán, tâm lý, lối sống lạc hậu, những
ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và các hệ tư tưởng phản động khác, kế thừa
và phát huy những giá trị tích cự của văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh

hoa văn hóa nhân loại, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới
văn minh, tiến bộ vì phẩm giá con người; nâng cao trình độ dân trí, phát triển
nhân tài; tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong nhân dân lao động.
1.3. Sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác –
Lênin và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam.
Cách mạng không ngừng là khái niệm để chỉ quá trình vận động và
phát triển liên tục, kế tiếp nhau của các giai đoạn cách mạng của giai cấp công

8


nhân từ khi nó bước lên vũ đài lịch sử đến khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
giai cấp cơng nhân.
Q trình cách mạng khơng ngừng của phong trào đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân là một quá trình cách mạng phát triển liên tục qua các
giai đoạn với những mục tiêu, nội dung và nhiệm vụ tương ứng để tiến tới
mục tiêu cuối cùng, hoàn thành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Từ thực tế của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến với sự phát
triển mạnh mẽ của phong trào công nhân nước ta những năm 20 của thế kỉ
XX và từ xu thế đi lên của chủ nghĩa xã hội của thời đại, Đảng ta, trong chính
cương vắn tắt của Đảng, do Bác Hồ soạn thảo năm 1930 đã chỉ rõ: “Làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản”.
Trong thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã từng bước xây
dựng, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội xác định mục tiêu, nhiệm vụ của từng thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội gắn liền với cuộc đấu tranh chung của nhân loại cho mục tiêu
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Sau khi hiệp định Giơnevơ năm 1954 về lập lại hịa bình ở Việt Nam và

Đông Dương được ký kết, nước ta tạm thời chia làm hai miền, với hai chế độ
chính trị xã hội khác nhau. Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân miền Bắc đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn,
thử thách hồn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, lập nên
những kỳ tích vĩ đại, góp phần to lớn quyết định thắng lợi đối với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của cả nước.

9


Chương 2: Nội dung cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai
đoạn 1954 – 1975

2.1. Hoàn cảnh lịch sử và Quá trình hình thành đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn
cảnh thế giới và trong nước có những thuận lợi to lớn, nhưng cũng gặp những
khó khăn không nhỏ.
Lúc bấy giờ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang lớn mạnh về mọi
mặt, quyết định chiều hướng phát triển của thời đại mới. Sự lớn mạnh của hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc
địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam đứng lên chống đế quốc, giành độc
lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và hịa bình thế giới.
Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt sau chiến thắng
Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân
tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới không ngừng phát
triển mạnh trên khắp các châu lục.
Tình hình trên làm cho lực lượng của chủ nghĩa đế quốc càng ngày

càng suy yếu nghiêm trọng. Biểu hiện trước hết ở sự tan rã của hệ thống thuộc
địa, tiếp đến là sự suy thoái của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và sự gia
tăng mâu thuẫn trong nội bộ, làm cho chủ nghĩa đế quốc đứng trước vực thẳm
khủng hoảng.
Từ sau hiệp định Giơnevơ, với sự can thiệp và xâm lược của đế quốc
Mỹ, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền, mỗi miền có chế độ chính trị, xã hội
khác nhau. Nhân dân miền Nam đang còn phải sống dưới ách thống trị của đế
quốc và bè lũ tay sai, tiếp tục đấu tranh với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ vô cùng
10


tàn bạo và nham hiểm. Tình hình trên đặt ra cho cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc gặp nhiều khó khăn gian khổ.
Sau ngày giải phóng, nhân dân miền Bắc vô cùng phấn khởi, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, hăng say lao động sản xuất xây dựng chế độ mới,
đó là điều kiện chính trị - xã hội thuận lợi cơ bản để miền Bắc bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng bên cạnh đó, miền Bắc đi lên chủ
nghĩa xã hội có nhiều khó khăn phức tạp, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ sản
xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, sự phá hoại của các thế lực thù
địch trước và sau khi thực dân Pháp rút quân và hậu quả của chiến tranh, hàng
chục vạn người bị thất nghiệp, tàn dư của nền văn hóa nơ dịch và tệ nạn xã
hội chưa cải tạo xong.. Đó là những cản trở lớn gây ảnh hưởng không nhỏ đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2.1.2. Quá trình hình thành đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa II họp từ ngày 15
đến ngày 17 tháng 7 năm 1954, tại Việt Bắc. Hội nghị đã xem xét, đánh giá
tình hình mới và vạch ra sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng.
Tranh thủ và củng cố hịa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân

chủ trong cả nước, kiên quyết chống đế quốc Mỹ xâm lược. Với miền Bắc,
tiếp tục thực hiện người cày có ruộng, ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều
kiện kiến thiết nước nhà.
Để chỉ đạo kịp thời mọi hoạt động của Đảng trong thời kỳ mới, ngày 5
tháng 9 năm 1945, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị
quyết về: “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng”. Nghị
quyết nêu rõ tình hình mới của đất nước tạm thời phân thành hai miền, chỉ ra
kẻ thù chủ yếu của của cách mạng nước ta là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đề
ra nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước.
11


Về nhiệm vụ xây dựng miền Bắc, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9 năm
1954 vạch rõ: Trước mắt là ổn định xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị
trường, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, phục hồi
sản xuất, mở rộng hoạt động quốc tế nhằm tạo cơ sở ban đầu thuận lợi để
chuẩn bị tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) của Ban Chấp
hành Trung ương (khóa II), Đảng ta đề ra nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đồng
thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, đó là hai
nhiệm vụ khơng tách rời nhau.
Việc xác định đường lối đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ
nghĩa xa hội hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, thích ứng với điểm xuất phát thấp của thực tiễn kinh tế - xã
họi và con người miền Bắc.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, tháng 1
năm 1956 nhận định: “Từ khi hịa bình lập lại, miền Bắc nước ta đã chuyển
sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, bất kể tình hình như thế nào, miền Bắc
cũng phải được củng cố và phải tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đến đây, nhận
thức của Đảng ngày càng thể hiện rõ quyết tâm tiến hành cách mạng xã hội

chủ nghĩa ở miền Bắc. Quyết tâm đó hồn tồn có cơ sở khoa học, bởi vì
miền Bắc đã được giải phóng, thế lực đế quốc và phong kiến đã bị đánh đổ,
nhân dân phấn khởi tin tưởng, khối liên minh công nông được củng cố, sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường, chính quyền nhân dân được xây dựng
ngày càng vững mạnh và đang chuyển sang làm nhiệm vụ lịch sử của chun
chính vơ sản, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngày càng có
hiệu lực. Vì vậy, chủ trương của Đảng đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội,
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại và nguyện vọng thiết tha của toàn dân, đồng thời đáp ứng

12


yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền Nam, bước chuẩn bị cần thiết cho
chiến lược cách mạng lâu dài đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội sau này.
Để cụ thể hóa và phát triển đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc (tháng 12 -1957), hội nghĩ lần thứ mười ba của Ban Chấp hàng
Trung ương Đảng (khóa II), họp bàn nhiệm vụ soạn thảo đường lỗi cách
mạng trong giai đoạn mới. Hội nghị tổng kết nhiệm vụ khôi phục kinh tế miền
Bắc; bàn phương hướng phát triển chủ nghĩa xã hội trong những năm tiếp
theo; thông qua cải tiến chế độ tiền lương cho cán bộ, công nhân viên; đề ra
chủ trương xây dựng Đảng, kiện toàn bộ máy Nhà nước đủ sức lãnh đạo cách
mạng cả nước nói chung và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nói
riêng. Hội nghị tập trung thảo luận và thông qua kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội miền Bắc, theo phương hướng tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội;
trọng tâm là phát triển nền kinh tế quốc dân, xây dựng quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa; đề ra phương hướng công tác tư tưởng – lý luận nhằm đẩy
lùi tư tưởng tiểu tư sản và ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại, làm cho hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị tuyệt đối trong đời sống tinh thần
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Thực hiện quan điểm đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa
xã hội, tháng 11 năm 1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị
lần thứ mười bốn vạch ra những nhiệm vụ trước mắt của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, đề ra kế hoạch ba năm (1958 – 1960) cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa, tăng cường
lực lượng của chủ nghĩa xã hội cả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phịng,
qn đội, văn hóa tư tưởng…
Trước xu thế phát triển của cách mạng cả nước, đồng thời đáp ứng yêu
cầu cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, tháng 1 năm 1959, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ mười lăm. Hội
nghị có nhiệm vụ tổng kết cách mạng hai miền từ năm 1954 đến năm 1958, đề
13


ra đường lối cách mạng miền Nam. Đối với cách mạng miền Bắc, hội nghị
thống nhất chủ trương củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội, xây dựng hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa vững mạnh tồn diện.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ mười lăm,
tháng 4 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
mười sáu. Hội nghị thông qua hai nghị quyết quan trọng bàn về cách mạng
miền Bắc: Nghị quyết về hợp tác hóa nơng nghiệp và nghị quyết về vấn đề cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh nhằm thực hiện từng phần cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Sau hơn 5 năm tiến hành lãnh dạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, đến
thời điểm năm 1960, Đảng ta đã tích lũy được nhiều kiến thức, kinh nghiệm
về xác lập đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, ngày 5 tháng
9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã khai mạc tại
Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời khai mạc đại hội và nêu rõ: “Đại hội
lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hịa
bình thống nhất nước nhà”.

Nội dung cơ bản của đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc được Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ III của Đảng thơng qua là:
Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: Xây dựng đời sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ
sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà,
góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình ở Đông Nam Á
và thế giới.
Con đường để đạt mục tiêu trên: Sử dụng chính quyền dân chủ nhân
dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản, để cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công
thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh;
thực hiện cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển
14


công nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạng cách mạng xã hội chủ nghĩa về
tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật.
Về nhịp độ, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc: Tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Yêu cầu cần đạt đến của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là biến
nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện đại, nơng
nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến.
Điều kiện để thực hiện thắng lợi đường lối trên là: Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước dân chủ nhân dân; củng cố
sự nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân; tăng cường sự đoàn kết, hợp
tác với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ hữu nghị với
các nước có chế độ chính trị khác nhau, với nhân dân u chuộng hịa bình
thế giới.
Cùng với việc xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, Đại hội còn xác định vị trí, vai trị của cách mạng miền

Bắc có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng
nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đồng thời, Đại hội đã cụ thể
hóa đường lối chung bằng việc đề ra nhiệm vụ và phương hướng kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1961 – 1965), nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, qua q trình tích cực tìm kiếm, vừa nghiên cứu lý luận, vừa
tổng kế thực tiễn, Đảng ta đã từng bước hình thành đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa miền Bắc. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(1960), đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa về cơ bản đã được hình thành.
Qua đó thể hiện rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong việc
vận dụng lý luận Mác – Lênin, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phù hợp với lịch sử đất nước và con người Việt
Nam.
15


Đường lối cơ bản đó tiếp tục được bổ sung, phát triển thể hiện qua các
nghị quyết Trung ương lần thứ 10 (1963), lần thứ 11, 12 (1965), lần thứ 19
(1971). Trong đó nghị quyết Trung ương lần thứ 19 được đánh giá là bước
phát triển tương đối hoàn chỉnh về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Nghị quyết nhấn mạng: Phải nắm vững chuyên chính vô sản phát
huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học
và cách mạng tư tưởng, văn hóa); khẳng định thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội lâu dài, phân ra nhiều bước quá độ nhỏ hơn và chỉ ra miền Bắc đang ở
bước ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2.2. Nội dung Đảng lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc (1954 – 1975)
2.2.1. Đảng lãnh đạo sự nghiệp khôi phục kinh tế sau chiến tranh và

hồn thành những nhiệm vụ cịn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
(1954 – 1957)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định Giơnevơ bàn về lập lại hịa
bình ở Việt Nam và Đơng Dương được các bên tham dự hội nghị kí kết (71954), miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng, đó là điều kiện chính trị
- xã hội hết sức thuật lợi. Nhưng bên cạnh đó miền Bắc gặp vơ vàn khó khăn
do hậu quả chiến tranh để lại: ở nông thôn hàng ngàn vạn héc-ta ruộng đất bị
bỏ hoang, nhân lực lao động, nông cụ, sức kéo đều thiếu nghiêm trọng, ở
thành thị, nhiều cơ sở cơng nghiệp, nhà máy, xí nghiệp bị địch tháo gỡ thiết bị
hoặc phá hoại trước khi rút đi, công nhân thất nghiệp là phổ biến, thương
nghiệp và thủ cơng nghiệp cũng rơi vào tình trạng tê liệt không hoạt động
hoặc hoạt động kém hiệu quả. Cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm
1953 cũng chỉ mới thực hiện được ở một số địa phương phụ thuộc vùng tự do.

16


Đời sống các tầng lớp nhân dân vơ cùng khó khăn, có nhiều vùng xuất hiện
tình trạng thiếu ăn, đói kém nghiêm trọng.
Nhận thức sâu sắc những thuật lợi và khó khăn của miền Bắc, đồng
thời để tạo tiền đề kinh tế - xã hội mở đường đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta đã mở các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu,
thứ bảy, thứ tám và lần thứ mười (khóa II), bàn nhiều vấn đề quan trọng liên
quan đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: trong giai đoạn
mới, toàn Đảng, toàn dân cần tập trung mọi nỗ lực kinh tế đó là nhiệm vụ
trọng tâm trước mắt và khâu chính là nơng nghiệp, tiến hành cải cách ruộng
đất, thực hiện người càu có ruộng là nhiệm vụ trọng yếu; đồng thời phát triển
các lĩnh vực văn hóa, xã hội, củng cố Đảng và chính quyền dân chủ nhân dân,
làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản; củng cố quốc phòng, xây dựng
quân đội, tạo điều kiện đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ trên, trong khôi phục kinh tế ở miền Bắc

sau chiến tranh, Đảng ta đã chỉ đạo toàn dân thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ.
Trước hết là nhiệm vụ khôi phục sản xuất nông nghiệp và bước đầu xây dựng
bộ phận kinh tế tập thể. Giai cấp nơng dân phấn khởi được giải phóng khỏi
ách áp bức bóc lội của đế quốc và bè lũ phong kiến, lại được Đảng, chính phủ
chia ruộng đất nên đã hăng hái vượt mọi khó khăn, ra sức khai hoang phục
hóa, chống hạn, đẩy mạnh sản xuất, tăng nhanh sản lượng lương thực. Tính
đến năm 1957, sản lượng lương thực ở miền Bắc đạt 4,2 triệu tấn, vượt mức
trước thế chiến thứ hai (1939) là 2,4 triệu tấn. Đời sống của nhân dân chủ yếu
là nông dân dần dần đi vào ổn định, đẩy lùi nạn đói. Về khơi phục sản xuất
công nghiệp và thủ công nghiệp, Đảng chủ trương phải tập trung khôi phục và
phát triển công nghiệp trong phạm vi cần thiết và có khả năng phục vụ cho
nơng nghiệp. Do đó trong các năm 1955 đến năm 1957 hầu hết các cơ sở công
nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng như: Mỏ than Hồng Gai, nhà máy
dệt Nam Định, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà Nội, đi vào

17


hoạt động có hiệu quả, cơng nhân phấn khởi trở thành người làm chủ cơ sở
sản xuất của mình. Đồng thời, Đảng và Nhà nước chỉ đạo xây dựng thêm một
số nhà máy mới. Đến cuối năm 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí
nghiệp do Nhà nước quản lý, thương nghiệp miền Bắc đã tăng tổng mức bán
lẻ lên 70,6% doanh số gấp 2 lần so với năm 1955. Về khôi phục và phát triển
giao thông vận tải, Đảng và Nhà nước chỉ đạo nhanh chóng khơi phục đường
xe lửa, đường ô tô, đường thủy, bưu điện, nạo vét và mở rộng các bến cảng:
Long Biên, Hải Phịng, Hịn Giai, Cẩm Phả, Bến Thủy; khai thơng đường
hàng khơng quốc tế. Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế phát triển nhanh chóng
theo tính chất xã hội chủ nghĩa. Hệ thống giáo dục phổ thơng theo chương
trình 10 năm được xác lập, giáo dục đại học được chú ý phát triển. Hệ thống y
tế và chữa bệnh miễn phí được phát triển rộng trên miền Bắc. Hệ thống chính

trị từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố, đã phát huy hiệu lúc
trong lãnh đạo và chỉ đạo nhiệm vụ khôi phục kinh tế, đập tan mọi âm mưu và
hành động của bọn phản động chống đối chế độ mới.
Như vậy, công cuộc khôi phục kinh tế và hoàn thành những nhiệm vụ
của cách mạng mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ năm 1954 đến 1957 do
Đảng lãnh đạo, thực chất là quá trình san nền, xây móng, mở đường để bắt tay
triển khai thực hiện từng bước cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2.2.2. Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa,
bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa ở miền Bắc (1958 – 1960)
Cơng cuộc khôi phục kinh tế thắng lợi đã tạo cơ sở thuận lợi cho sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vững bước tiến lên. Tháng 4
năm 1958, Hội nghị lần thứ mười bốn Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn
kế kế hoạch 3 năm (1958 – 1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần
kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, thành phần kinh tế tư bản tư doanh,
người buôn bán nhỏ, đồng thời mở mang xây dựng cơ bản, tăng cường lực
lượng của thành phần kinh tế quốc doanh.
18


Đảng chủ trương tập trung sự lãnh đạo cải tạo tồn diện nền kinh tế xã
hội, khâu chính là cải tạo nơng nghiệp bằng cách hợp tác hóa tồn bộ nơng
nghiệp, thực hiện hợp tác hóa trước khi cơ giới hóa, từ hợp tác hóa trong nơng
nghiệp làm địn bẩy thúc đẩy và phát triển các ngành kinh tế khác.
Mục đích cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là để xác
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dưới hai hình thức chủ yếu: sở hữu
nhà nước (toàn dân) và sở hữu tập thể, nhằm hình thành quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong khi lấy cải tạo là trọng tâm, phải
tiến hành đồng thời với xây dựng cải tạo để xây dựng và xây dựng phải kết
hợp với cải tạo, thúc đẩy cải tạo nhanh chóng hoàn thành.

Hướng phấn đấu đến năm 1960, nhân dân miền Bắc sẽ có đủ lương
thực, có thêm rau, thịt, cá, đường; tự cung cấp phần lớn hàng tiêu dùng, chủ
yếu là vấn đề ăn, mặc, học, đồ dùng gia đình; trình độ văn hóa và kỹ thuật
được nâng dần; nạn thất nghiệp do chế độ cũ để lại sẽ được giải quyết căn
bản.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ mười
bốn, Đảng ta đã có các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa toàn diện trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, tạo nên phong trào sản xuất sôi nổi trên tồn miền Bắc. Trong
xu thế phát triển đó, tháng 4 năm 1959 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ mười sáu (khóa II) họp, tập trung bàn về vấn đề hợp tác hóa trong
nơng nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa với công thương nghiệp tư bản tư
doanh.
Về hợp tác hóa nơng nghiệp, hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng lúc
này là chuẩn bị mọi mặt về đường lối, chính sách, tư tưởng, tổ chức, cán bộ
và kế hoạch để phát triển tổ đổi công, mở mang hợp tác xã nơng nghiệp một
cách tích cực, vững chắc tiến tới cao trào cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông
19



×