MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. MỞ RỘNG QUAN HỆ VÀ HỢP TÁC KINH TẾ ĐỐI NGOẠI LÀ ĐÒI
HỎI KHÁCH QUAN VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI.......................3
1. Nền tảng của việc mở rộng hợp tác với các quốc gia trên thế giới..............3
2. Những đòi hỏi bức thiết của việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối
ngoại......................................................................................................................4
II. CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ ASEAN. 5
1. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN trước Đổi mới 5.........................5
2. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN sau Đổi mới...............................6
3. Đánh giá chung về chính sách kinh tế đối ngoại Việt Nam – ASEAN........9
III. THÀNH TỰU VIỆT NAM ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRONG MỞ RỘNG HỢP
TÁC KINH TẾ VỚI ASEAN – XU HƯỚNG HỘI NHẬP KINH TÊ KHU
VỰC TRONG TƯƠNG LAI.............................................................................10
1. Thành tựu của Việt Nam...............................................................................10
2. Xu hướng hội nhập kinh tế khu vực trong tương lai..................................11
TỔNG KẾT........................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................14
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Xã hội ngày càng đổi mới, mọi quan điểm chính trị đều dần được thay đổi
trong đó có quan điểm đối ngoại với các nước, Đối ngoại là hoạt động diễn ra từ
thuở cha ông ta dựng trước, giữ nước. Đến thời kì hiện đại như ngày nay thì các
quan điểm về đối ngoại có đơi phần khác xưa. Đối ngoại hiện nay mang tính xây
dựng dân chủ tiến bộ. Đây là sự thay đổi có vai trị quan trọng trong cuộc sống
hiện nay. Mọi công dân và thế hệ trẻ cần phải hiểu được tầm quan trọng của đối
ngoại. Và hơn nữa, vấn đề này rất phù hợp với môn học em đang tiếp cận, phù
hợp với nhận thức của mỗi người. Chính vì vậy, để làm sáng tỏ vấn đề xem xin
tìm hiểu nội dung đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của đề tài đặt ra
Việc nghiên cứu đề tài này giúp trang bị cho bản thân những hiểu biết cơ
bản về tình hình nước ta trong giai đoạn này, những chủ trương, chính sách của
Đảng đã đề ra để có thể vận dụng để giải quyết những khó khăn mà nhân dân ta
phải đương đầu, đưa cuộc cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi hồn tồn.
Nghiên cứu vấn đề này cịn bồi dưỡng niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt,
tài tình của Đảng, định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của
Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân trước những nhiệm vụ, vận
mệnh của đất nước, giúp nâng cao tinh thần yêu nước, đóng góp tài sức, trí tuệ
để cùng nhau xây dựng đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đất nước đang phát
triển và hội nhập trên trường quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp lịch sử ( nghiên cứu sự
vật, hiện tượng theo trình tự thời gian, theo quá trình diễn biến đi từ phát sinh,
1
phát triển đến kết quả của nó ) và phương pháp logic là hết sức quan trọng trong
nghiên cứu đường lối cách mạng của Đảng, Ngồi ra cịn có thể sử dụng các
phương pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ
thể hỏa, trừu tượng hóa.... thích hợp với từng nội dung của mơn học.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của Đảng Cộng Sản Việt Nam về mục tiêu,
nhiệm vụ, và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trong xu hướng tồn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng gia tăng mạnh mẽ
của nền kinh tế thế giới hiện nay, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại là
một tất yếu khách quan. Q trình này địi hỏi tất cả các nước phải xây dựng một
chính sách đối ngoại phù hợp trong từng thời kỳ phát triển. Việc hình thành các
phương pháp luận, các chính sách kinh tế đối ngoại của các nước trên thế giới để
vận dụng vào điều kiện của Việt Nam theo phương châm “Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước trên thế giới” có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Trong những năm gần đây, Việt Nam mở rộng quan hệ với rất nhiều quốc gia
trong khu vực Đơng Nam Á. Đó chính là lý do tại sao nhóm chúng tơi chọn đề
tài cho bài tiểu luận này: “Chính sách kinh tế đồi ngoại giữa Việt Nam và
ASEAN trước và sau Đổi mới”. Đề tài này trả lời cho ba câu hỏi: Tại sao cần mở
rộng quan hệ và hợp tác kinh tế đối ngoại? Chính sách kinh tế đối ngoại Việt
Nam – ASEAN trước và sau Đổi mới như thế nào? Những thành tựu đạt được và
xu hướng hội nhập kinh tế khu vực tương lai? Do mở rộng quan hệ và hợp tác
kinh tế đối ngoại là một vấn đề hết sức rộng lớn nên bài tiểu luận này không
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của thầy cơ và các bạn. Cuối cùng, chúng em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn
Phú Tân Hương đã hướng dẫn để hoàn thành bài tiểu luận này.
2
NỘI DUNG
I. MỞ RỘNG QUAN HỆ VÀ HỢP TÁC KINH TẾ ĐỐI NGOẠI LÀ
ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI
1. Nền tảng của việc mở rộng hợp tác với các quốc gia trên thế giới
1.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của
chính sách đối ngoại
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đối ngoại là hệ
thống các quan điểm, nhận thức, luận cứ được thể hiện trong tư duy lý luận và
hoạt động thực tiễn đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong các giai đoạn lịch
sử. Theo hệ thống các quan điểm này, chính sách đối ngoại có vai trị hết sức
quan trọng đối với một quốc gia. Trong thời kỳ chiến tranh bảo vệ đất nước,
chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành chiến lược cách mạng. Khi có
đường lối quốc tế rõ ràng, chính sách đối ngoại phù hợp, cách mạng sẽ đi đến
hình thành một hệ thống chủ trương chiến lược và biện pháp sách lược xử lý
những vấn đề tác động đến lợi ích của sự nghiệp cách mạng. Là một nước nhỏ
nhưng chúng ta đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của chính sách đối ngoại.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, khi một nước nhỏ đối đầu với một nước hùng
mạnh hơn thì phái có chiến lược, phải biến đường lối ngoại giao trở thành vũ khí
để góp phần thay đổi tương quan lực lượng, cục diện chiến đấu. Như vậy, ngoại
giao đóng vai trị quan trọng trong việc chủ động đề xuất phương hướng chiến
lược, vận dụng sách lược mềm dẻo để đánh thằng kẻ thù chính trong từng thời kỳ
cách mạng. Nhận thức về vai trị của vũ khí đối ngoại, kể cả trong những xu
hướng mới của thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Ngày nay ngoại giao
ai thuận hơn thì thắng”. Trong tình hình quốc tế mới, mỗi quốc gia đều có “linh
hồn riêng”, có vận mệnh riêng, và địi hỏi phải có bản lĩnh, có chính sách đối
ngoại của riêng mình. Đây chính là cách ứng xử của một quốc gia đối với thế
3
giới. Thành cơng sẽ đến với quốc gia nào có cách ứng xử thơng minh. Từ đó có
thể thấy chính sách đối ngoại có một vị trí rất lớn đối với chiến lược phát triển
của một quốc gia, và chú trọng tới các chính sách đối ngoại là một yêu cầu tối
cần thiết.
1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam
luôn phải đối đầu với rất nhiều thiên tai địch họa. Qua những thăng trầm ấy,
ngoại giao Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, vừa mang đậm
bản sắc dân tộc, vừa kết tinh những tinh hoa của nhân loại để tạo nên một bản
sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam. Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt
nguồn từ ý chí đấu tranh kiên cường cho độc lập, tự do của dân tộc với nhiều tấm
gương điển hình như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…và nhiều
bài học sâu sắc, bổ ích về quan hệ với lân bang, ứng xử trong đối ngoại. Lịch sử
đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã mang lại cho
ngoại giao Việt Nam tính chiến đấu cao, bản chất hịa bình, hòa hiếu, nhân
nghĩa, thủy chung, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời và được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dẫn dắt. Trải qua những giai
đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời bình, ngoại giao Việt Nam
hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha ơng, góp phần khơng nhỏ vào
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng chính sách đối ngoại, Việt Nam đã coi các
quốc gia trong khu vực ASEAN là đối tác quan trọng, láng giềng hữu nghị, cùng
nhau hợp tác để phát triển. Đến nay, khu vực ASEAN là một trong những ưu tiên
hàng đầu của ngoại giao Việt Nam hiện đại.
2. Những đòi hỏi bức thiết của việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
đối ngoại
4
2.1. Vai trò trụ cột của kinh tế đối với một quốc gia
Cùng với chính trị, văn hóa, kinh tế luôn là một trụ cột quan trọng trong
việc phát triển của mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế luôn là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà hoạch định chính sách. Sự tăng trưởng của kinh tế giúp nâng cao
vị thế của quốc gia. Một đất nước mạnh về kinh tế cũng là một nước mạnh về
chính trị, phát triển về văn hóa. Một nền kinh tế phát triển khơng chỉ thúc đẩy
giáo dục, văn hóa, xã hội mà cịn củng cố an ninh quốc gia, chính trị ổn định.
Kinh tế tăng trưởng tạo điều kiện cho đời sống nhân dân nâng cao, các lĩnh vực
văn hóa – xã hội được quan tâm phát triển. Vì vậy, phát triển kinh tế khơng chỉ là
mục tiêu, mà cịn là nhiệm vụ của mỗi quốc gia. 2.2. Sự phát triển của xu thế hợp
tác kinh tế đối ngoại trên thế giới Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay
nhỏ, sớm hay muộn đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá
trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, đa phướng, đa chiều, đa lĩnh vực. Gần
đây, nhiều quốc gia đã chú trọng vào xây dựng các liên kết thương mại tự do
song phương và khu vực, trong đó có khơng ít quốc gia trước đây vốn chỉ dành
sự ủng hộ mạnh mẽ cho cơ chế đa phương của WTO như EU, Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Canada… Cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó, Việt Nam ngày càng tích
cực tham gia vào các liên kết thương mại trên thế giới và khu vực, trong đó nổi
bật nhất là sự tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO và sự hợp tác
kinh tế với các quốc gia trong khu vực ASEAN. Đây là một bước tiến phù hợp
với xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới.
II. CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ
ASEAN
1. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN trước Đổi mới 5
Năm 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được thành lập tại
Bangkok, Thái Lan với sự tham gia của năm thành viên. Trong thời kỳ này, giữa
các quốc gia trong khu vực chưa hợp tác nhiều về mặt kinh tế. ASEAN chỉ tiến
5
hành một số hoạt động như lập Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN
(ASEAN CCI 1 ) năm 1972 nhằm tham khảo ý kiến khu vực tư nhân trong hợp
tác kinh tế ASEAN; lập Ủy ban ASEAN tại Geneve năm 1973 để phối hợp chính
sách chung của ASEAN, gồm các vấn đề kinh tế; đồng thời tham gia nhiều diễn
đàn khu vực và quốc tế. Giai đoạn này, Việt Nam chưa phải là một thành viên
chính thức của ASEAN. Phải đến những năm 1975 – 1976, chúng ta mới bắt đầu
khôi phục ngoại giao và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam bắt đầu
thiết lập quan hệ ngoại giao với các tổ chức và quốc gia trên thế giới, trong đó có
các quốc gia trong khu vực ASEAN. Đây chính là tiền đề cho sự hợp tác về kinh
tế đối ngoại sau này của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực.
2. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN sau Đổi mới
Sau Đại hội Đảng VI (tháng 12/1986), khi Đảng ta đề ra chủ trương đổi
mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết
số 13 ngày 20/5/1988 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới
thì ngoại giao mới đã có bước chuyển biến quan trọng. Với chủ đề “giữ vững hịa
bình phát triển kinh tế”, Nghị quyết khẳng định: “Lợi ích cao nhất của Đảng và
nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hịa bình để tập trung xây dựng và phát
triển kinh tế, vì với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh
cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ có nhiều khả năng giữ
vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”. Nghị quyết còn đưa
ra các chủ trương cụ thể để thực hiện việc chuyển hướng về đối ngoại, trong đó
có việc cải thiện quan hệ với các nước ASEAN.
1 ASEAN Chambers of Commerce and Industry 6
Từ sau năm 1986, quan hệ Việt Nam – ASEAN bắt đầu được cải thiện
nhanh chóng. Trong quan hệ với các nước ASEAN, qua các cuộc đối thoại và
tiếp xúc song phương và đa phương với nước ta, các nước ASEAN nhận thấy
giữa ta và họ có những lợi ích chung trong việc xây dựng Đơng Nam Á thành
6
khu vực hịa bình, hữu nghị và hợp tác. Tất cả các yếu tố trên đã thúc đẩy các
nước ASEAN thấy cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam và tách dần khỏi chính sách của một số nước lớn. Quan hệ giữa nước
ta với các nước ASEAN được khai thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc Việt
Nam gia nhập ASEAN và hội nhập khu vực sau đó. Sau khi Hiệp định Paris về
Campuchia được ký kết, “nút thắt” đầu tiên trong quan hệ của ta với các nước đã
được tháo gỡ, quá trình đàm phán giữa ta và các nước ASEAN về việc gia nhập
ASEAN được đẩy nhanh. Ngày 28/7/1995, chúng ta đã gia nhập ASEAN và trở
thành thành viên chính thức thứ bảy của tổ chức này. Tham gia hợp tác vào
ASEAN, Việt Nam đã hết sức nỗ lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp
phần vào việc tăng cường hơn nữa sự hợp tác ASEAN về kinh tế, thương mại.
Việt Nam đã thành lập cơ quan AFTA quốc gia do Bộ tài chính chỉ đạo để làm
đầu mối của Việt Nam trong việc triển khai những vấn đề liên quan đến AFTA 2.
Năm 1996, Việt Nam đã công bố đưa 875 mặt hàng và năm 1997 đưa thêm 621
mặt hàng vốn đã có thuế suất bằng 0-5% hoặc nhỏ hơn 20% vào thực hiện
CEPT/AFTA 3, đưa tổng số lên 1496 mặt hàng. Năm 1998-1999, Việt Nam đã
đưa 3582 mặt hàng vào thực hiện CEPT/AFTA. Việt Nam đã trình danh mục
nhạy cảm hồn thiện của mình, bao gồm 10 nhóm mặt hàng chính, bước đầu
tun bố bỏ 23 mặt hàng ra khỏi danh mục loại trừ hoàn toàn (trong tổng số 195
mặt hàng
2 ASEAN Free Trade Area 3 Hiệp định quy định việc cắt giảm thuế quan
đối với việc mua bán giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á, được ký bởi
các thành viên trong khối ASEAN nhằm thiết lập mối quan hệ buôn bán tự do
trong khối ASEAN (AFTA) với mục tiêu giảm thuế nhập khẩu trên hầu hết hàng
hóa bn bán giữa các nước thành viên xuống mức tối thiểu từ 0-5%.
ASEAN đã loại khỏi danh mục này) và đơn giản hóa được một bước các
biện pháp phi thuế quan. Bảng 1. Lộ trình cắt giảm thuế quan theo CEPT của
7
Việt Nam giai đoạn 1996 – 2006 (%) Danh 1996 1997 1998 1999 2000 2001
2002 2003 2004 2005 2006 mục IL 7,0 6,8 5,8 5,6 4,7 3,9 3,8 2,8 2,6 2,5 2,3
TEL 19,9 19,9 19,9 19,9 19,8 19,6 19,4 17,5 13,4 8,9 3,9 Nguồn: Bộ Tài chính
Việt Nam. Trích dẫn bởi Đề án, 2006. Chú thích: IL: Danh mục cắt giảm thuế
quan ‐ TEL: Danh mục loại trừ tạm thời. Các số là mức thuế bình quân. ‐ Theo
số liệu của Bộ thương mại Việt Nam, năm 1999, Việt Nam xuất khẩu sang các
nước ASEAN 2,436 tỷ USD và nhập khẩu từ các nước 3.329 tỷ USD trong tổng
ngoại thương 11 tỷ USD của Việt Nam năm 1999. Đến thời điểm tháng 3/1999,
các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt Nam hơn 300 dự án với tổng giá trị hơn 8,5
tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng giá trị đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việt
Nam đã cùng các nước ASEAN xây dựng Nghị định thư về cơ chế giải quyết
tranh chấp và ký kết tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN tháng 11/1996, làm
cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện các
Hiệp định kinh tế ASEAN. Bên cạnh đó, Tổng cục Hải quan đã triển khai áp
dụng Hành lang xanh (Green lane) cho các hàng hóa CEPT/AFTA. Việt Nam đã
tham gia công ước Kyodo về thủ tục hải quan, làm cơ sở đàm phán với ASEAN
về điều hòa thủ tục hải quan, tham gia tích cực vào q trình xây dựng và ký kết
Hiệp định
Hải quan ASEAN và tổ chức thành công Hội nghị các Tổng cục trưởng
Hải quan ASEAN lần 3 (tháng 11/1995) tại Việt Nam. Việt Nam đã tham gia
Hiệp định khuyến khích và Bảo hộ đầu tư ASEAN và đã cùng ASEAN soạn
thảo, ký Nghị định thư sửa đổi Hiệp định tại AEM 28, tháng 8/1996, xúc tiến xây
dựng và cùng các nước ASEAN thực hiện Hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN
(AIA). Việt Nam đã tham gia Hiệp định hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO).
Ba ngành được đề nghị triển khai hợp tác AICO đầu tiên là ơ tơ, hóa chất và dệt.
Trong chương trình Hành động Hà Nội được thông qua tại Hội nghị cấp cao
ASEAN VI (tháng 12/1998) Việt Nam đã đưa ra sáng kiến về hợp tác phát triển
8
các vùng nghèo liên quốc gia dọc hàng lang Đông – Tây thuộc lưu vực sông
Mekong ở Việt Nam, Lào, Campuchia và Đơng Bắc Thái Lan nhằm góp phần
xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước và các vùng
trong Hiệp hội ASEAN. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã đưa ra dự án phát triển hành
lang Đông – Tây tại lưu vực sông Mekong (WEC), và Hội nghị Bộ trưởng kinh
tế ASEAN, tháng 9/1999, tại Singapore, đã thơng qua đề nghị lập Nhóm cơng
tác về chương trình này trong khn khổ Ủy ban hợp tác kinh tế và công nghiệp
ASEAN – MITI (Nhật Bản). Việt Nam được cử làm chủ tịch nhóm. Hiện nay,
cùng với các thành viên khác trong Hiệp hội, Việt Nam đang nỗ lực xây dựng
nên một cộng đồng kinh tế chung, đạt mục tiêu xây dựng thành công Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC 4 ) vào năm 2015.
3. Đánh giá chung về chính sách kinh tế đối ngoại Việt Nam – ASEAN
Quan tâm đến phát triển kinh tế luôn là một hướng đi đúng đắn của mỗi quốc
gia. Có thể thấy rằng, sau Đổi mới, Việt Nam đã chú trọng hơn đến việc hoạch
định chính sách kinh tế nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng. Nếu
để so sánh, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN sau Đổi mới mạnh mẽ và
tích cực hơn thời kỳ trước Đổi mới. Điều đó thể hiện rằng kinh tế và chính trị
ln có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trước Đổi mới, đặc biệt là những
năm 60 (thời điểm thành lập tổ chức ASEAN), cuộc chiến tranh của Mỹ tiến
hành ở Việt Nam đang ở giai đoạn cao trào và có sự tham gia của một số nước
ASEAN. Lúc này giữa Việt Nam và ASEAN dường như khơng có quan hệ với
nhau, vì thế sự hợp tác kinh tế cũng chưa đáng kể. Vào những năm 1970, quan
hệ Việt Nam – ASEAN dần được thiết lập và phát triển. Các bên đã bàn về vấn
đề hợp tác kinh tế và an ninh chính trị... Tuy nhiên, đến cuối những năm 70, nổi
bật là các sự kiện liên quan đến Campuchia đã làm quan hệ hai bên xấu đi, thậm
chí là đối đầu. Quan hệ hợp tác kinh tế cũng bị ảnh hưởng và hạn chế. Sau năm
1986, Việt Nam bắt đầu đổi mới đất nước, và kinh tế là một lĩnh vực hết sức
9
được quan tâm. Đường lối đối ngoại: “Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các
nước trên thế giới” là nhân tố tích cực thúc đẩy việc Việt Nam hội nhập với khu
vực và thế giới. Quan hệ Việt Nam – ASEAN bước sang một trang mới. Sau Đổi
mới, Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế song phương và đa phương,
đặc biệt là quan tâm đến các nước ASEAN. Đây là một chính sách linh hoạt và
hợp thời. Việc Việt Nam đặt cao vị trí quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước
ASEAN không chỉ đáp ứng yêu cầu tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo những lợi
ích chiến lược thiết thân. Quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện những quan
điểm đúng đắn trong chính sách kinh tế đối ngoại với ASEAN đã góp phần tăng
trưởng kinh tế và nâng cao vị thế, quan hệ Việt Nam với các nước lớn. Thành
công trong quan hệ với ASEAN trở thành một trong những thắng lợi nổi bật của
ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới, cũng là nhân tố quan trọng thúc đẩy
quan hệ ngoại giao không ngừng mở rộng. Vị thế đất nước đang ngày càng được
nâng cao 10
và hứa hẹn sẽ cịn có những bước phát triển trong tương lai. Chính sách
kinh tế đối ngoại của Việt Nam với ASEAN là đúng đắn, hợp lý và có vai trị
tích cực đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Tại hội thảo khoa học
với chủ đề: “Việt Nam – ASEAN: Quá khứ - Hiện tại – Tương lai” bàn về Việt
Nam trước và sau khi gia nhập ASEAN, những thành tựu và hạn chế của hợp tác
ASEAN, phó Thủ tướng – Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm nhấn
mạnh: “Gia nhập ASEAN là một trong những quyết sách quan trọng của Đảng
và Nhà nước trong việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng
hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, góp phần
nâng cao vị thế chiến lược của Việt Nam”.
III. THÀNH TỰU VIỆT NAM ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRONG MỞ RỘNG
HỢP TÁC KINH TẾ VỚI ASEAN – XU HƯỚNG HỘI NHẬP KINH TÊ
10
KHU VỰC TRONG TƯƠNG LAI
1. Thành tựu của Việt Nam
Hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong những năm qua đã có
những chuyển biến tích cực góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng một đất
nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong
những hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại phát triển mạnh mẽ và thu
được nhiều thành tựu to lớn nhất. Kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của ASEAN, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước
ASEAN đã tăng lên nhanh chóng, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của
Việt Nam cũng như các nước thành viên của Hiệp hội. Theo số liệu thống kê của
Tổng cục hải quan, tổng giá trị trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và các nước
ASEAN trong hai quý đầu năm 2010 tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước và
chiếm 18% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Trong số các nước
ASEAN, Singapore luôn là đối tác lớn nhất với tổng trị giá trao đổi giữa hai
nước là 3,25 tỷ USD. Tiếp theo là Thái Lan: 3,12 tỷ USD và Malaysia: 2,43 tỷ
USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường ASEAN
trong sáu tháng đầu năm 2010 đạt hơn 5,24 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ
năm 2009 và chiếm 16,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các nhóm
hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường ASEAN vẫn là gạo và dầu
thô với trị giá chiếm xấp xỉ 37% tổng kim ngạch hàng hóa Việt Nam xuất khẩu
sang thị trường này. Tuy nhiên hai mặt hàng này đều đạt tốc độ tăng trưởng âm
trong sáu tháng đầu năm. Con số nhập khẩu từ các nước ASEAN vào Việt Nam
thời gian qua cũng cho thấy Việt Nam đang nhập siêu từ khu vực này. Việt Nam
nhập khẩu từ khu vực này chủ yếu là các mặt hàng thiết yếu, nguyên phụ liệu
đầu vào phục vụ sản xuât trong nước như: xăng dầu các loại, máy móc, thiết bị,
dụng cụ và phụ tùng, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, chất dẻo
nguyên liệu, giấy… Trị giá bốn nhóm hàng này chiếm hơn 37% tổng kim ngạch
11
xuất khẩu của Việt Nam từ ASEAN. Như vậy thị trường ASEAN được đánh giá
là thị trường đầy tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam.
2. Xu hướng hội nhập kinh tế khu vực trong tương lai
Việc tham gia vào ASEAN mang lại cho chúng ta những cơ hội và cả
những thách thức khơng nhỏ. Có những thắc mắc, những ý kiến e ngại về khả
năng của Việt Nam – một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn so với các
nước trong khu vực lúc bấy giờ? Tham gia vào ASEAN, một mặt giúp gia tăng
các liên kết với nhiều đối tác thương mại quan trọng, mặt khác góp phần tạo ra
động lực để chuyển đổi kinh tế trong nước theo hướng tập trung khai thác các
mặt hàng có định hướng
và thế mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên thách thức đặt ra đó là có thể nảy sinh
ra sự thiên lệch bất lợi trong cán cân thương mại. Nguyên nhân là cơ cấu xuất
khẩu của nước ta chủ yếu dựa trên các nơng sản chưa chế biến, khống sản và
một số sản phẩm công nghiệp nhẹ như dệt may, giày dép, hóa mỹ phẩm. Đây là
những mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng thấp, giá cả khơng ổn định và khó
mang đến một lợi ích bền vững và làm đà cho sự tăng trưởng. Bên cạnh đó, là
một quốc gia đang phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi, sự đổi mới cơ
cấu kinh tế kinh tế có thể gặp phải những trở lực nhất định do sự kém linh hoạt
của các yếu tố sản xuất, làm giảm tốc độ đổi mới và tái cơ cấu kinh tế trong
nước, dẫn tới sự đình trệ, thất nghiệp và các tổn thất khác. Đứng trước tình hình
đó, sự chủ động chính là nhân tố quan trọng nhất. Việt Nam cần thiết thể hiện
mình như một nền kinh tế năng động, tiếp tục tiến hành các biện pháp cần thiết
nhằm rút ngắn thời gian chuyển đổi nền kinh tế, tạo lập một môi trường kinh
doanh, đầu tư hấp dẫn, thuận lợi cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư quốc
tế./.
12
TỔNG KẾT
Có thể nói rằng, 15 năm là khoảng thời gian không dài so với chiều dài
lịch sử của dân tộc, nhưng Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trị và tầm
quan trọng của mình trong ASEAN. 15 năm gắn bó và đồng hành cùng ASEAN,
Việt Nam đã chủ động tham gia, đóng góp tích cực vì sự phát triển và lớn mạnh
của Hiệp hôi, đồng thời thu được những lợi ích thiết thực để hỗ trợ cho công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Những thành tựu đạt được của Việt Nam
trong thời kỳ Đổi mới đã khẳng định sự đúng đắn của chính sách kinh tế đối
ngoại quốc gia. Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào các diễn đàn hợp tác
kinh tế ASEAN, và thực tế chính sách kinh tế đối ngoại này đã đạt được những
thành công đáng ghi nhận. Cùng với phát triển kinh tế, sự tích cực, chủ động hội
nhập khu vực và thế giới, vị thế của Việt Nam đang ngày càng được khẳng định.
Việt Nam đang là một trong những quốc gia tiên phong, đi đầu trong ASEAN.
Trong vai trò chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đã và đang thực hiện tốt vai
trị của mình khi tham gia các diễn đàn quốc tế quan trọng như Hội nghị Bộ
trưởng ngoại giao ASEAN – EU, Hội nghị ASEAN – Hội đồng hợp tác vùng
Vịnh, Diễn đàn kinh tế thế giới Đơng Á… Nỗ lực và tích cực, Việt Nam đang cố
gắng nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của mình, đề cao hình ảnh một nước Việt
Nam đổi mới và năng động, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình,
hợp tác và phát triển. Đó chính là minh chứng rõ nét nhất về đường lối đối ngoại
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Là một bộ phận hữu cơ, không tách rời
của ASEAN, Việt Nam sẽ tiếp tục đồng hành cùng ASEAN, cùng hướng tới
tương lai tươi sáng của Cộng đồng.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 13 ( 20/5/1988) - Bộ Chính trị 2.
“Chính sách đối ngoại Việt Nam 1975-2006” – Tài liệu tham khảo phục vụ giảng
dạy, Học viện Quan hệ quốc tế, TS Nguyễn Vũ Tùng (biên soạn) 3.
“Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002)”, Học
viện Quan hệ quốc tế, TS Vũ Dương Huân (chủ biên) 4. “Hợp tác kinh tế Việt
Nam với ASEAN và ASEAN mở rộng” (Bộ sách hội nhập kinh tế quốc tế), NXB
Công thương, năm 2010 5. “Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN +3”, Viện
khoa học xã hội Việt Nam – Viện nghiên cứu Đông Nam Á, NXB Khoa học xã
hội, Nguyễn Thu Mỹ (chủ biên) 6. “AFTA và ảnh hưởng đối với nền kinh tế Việt
Nam”, Nguyễn Hữu Đạt, Tạp chí nghiên cứu quốc tế, năm 1997 7. “Định hướng
chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020” – NXB Chính trị quốc gia, Nguyễn
Bình Minh (chủ biên) 8. Bài viết “Quan hệ Việt Nam – ASEAN và những vấn đề
đặt ra trong tương lai” của tác giả Nguyễn Phương Bình 9. Trang web chính thức
của Học viện ngoại giao Việt Nam: hocvienngoaigiao.org.vn 10. Trang web
“Việt Nam tôi yêu và tự hào”: netdepviet.org 11. Trang web Thông tấn xã Việt
Nam: vietnamplus.vn
14