Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của nghị quyết trung ương 5 khoá viii – liên hệ vấn đề xây dựng và phát triển văn hoá ở địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

MÃ ĐỀ: 2

TIỂU LUẬN MÔN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tên đề tài: Chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc của Nghị Quyết Trung ương 5 khoá VIII –
Liên hệ vấn đề xây dựng và phát triển văn hoá ở địa phương.
Họ và tên: Nguyễn Thanh Tùng
Mã sinh viên: 19810710058
Lớp: D14QTDN1
Giảng Viên: Cao Thu Trà

Hà Nội, 12/2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG
I- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ MỚI
1. Xác định vị trí và vai trị của văn hóa
2. Quan niệm về văn hóa lối sống và đạo đức làm người
3. Quan niệm về “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc”
4. Quan niệm về thực hành và tấm gương “người tốt, việc tốt”nhằm
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
II- QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ


TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRÊN CƠ SỞ
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
III- GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC TÊN CƠ SỞ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Nâng cao nhận thức về vai trị của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước,
vai trị của của các đồn thể nhân dân, đồng thời, đẩy mạnh công tác xã hội hóa .
trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
3. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
IV- LIÊN HỆ BẢN THÂN
Danh mục tài liệu tham khảo

4
4
4
5
5

6
7

7

8

21

LỜI MỞ ĐẦU

Qua nhiều thời kì, từ Hội nghị VII, VIII, IX, X cho tới các nghị quyết Trung ương tiếp theo,
Đảng và Nhà nước ta đều xác định: văn hóa là “nền tảng tinh thần của xã hội”, “vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của phát triển”. Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX


tiếp tục xác định mục tiêu cần phải đạt tới là tạo được sự phát triển đồng bộ về chất lượng
văn hoá “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh
đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội;
tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho
sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X đã tiếp tục khẳng định: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Qua gần 20 năm với đường lối đúng
đắn của Đảng, cùng với công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta từng
bước vững chắc đạt được những thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng; nền dân chủ XHCN với nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định. Bên cạnh việc hội nhập kinh tế, hội
nhập văn hóa cũng là một tất yếu khách quan. Bên cạnh chiến lược phát triển kinh tế, chúng
ta cần có chiến lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phù hợp với phát triển
kinh tế. Cùng với đó, bản sắc dân tộc khơng thể đóng cửa nền văn hóa, mà chủ động chọn
lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn
hóa của dân tộc của đất nước mình. Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã
hội, một văn hóa cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc tồn diện nhất tồn cầu hóa và hơi
nhập, tồn cầu hóa như một tất yếu. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hố mà cịn là trách nhiệm
của tồn đảng, toàn dân và toàn xã hội. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập với nền kinh
tế mở. Tuy nhiên, việc hội nhập có mặt tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta tiếp thu khơng
chọn lọc, thì bên cạnh những mặt tích cực của nền văn minh hiện đại, chúng ta dễ bị tiếp thu
những những mặt tiêu cực. Mặt khác, chúng ta còn lo ngại bị đánh mất truyền thống dân tộc,
chạy theo các nước trên thế giới, bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi nền văn hố của nước khác.

Mỗi một quốc gia đều có những truyền thống, những bản sắc riêng của mình. Bản sắc riêng
của một dân tộc, giúp chúng ta nhận dạng rõ một quốc gia đó. Giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc là một việc tất yếu trong nền kinh tế mở hiện nay. Mục đích, nhiệm vụ cần đạt: Làm
rõ vấn đề văn hố và bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt Nam. Đánh giá các mặt tích cực và hạn
chế trong việc việc xây dựng nền nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
trong quá trình hội nhập ở nước ta. Giải pháp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc.

NỘI DUNG
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Một là, xác định vị trí và vai trị của văn hóa


Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “dốt” cũng là một loại giặc khơng kém gì “giặc đói” và “giặc
ngoại xâm”; từ đó Người cho rằng, “chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ đưa
loài người tới hạnh phúc vơ tận”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh coi giáo dục, khoa học và văn
hóa nói chung có tầm quan trọng như các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Vì văn hóa có
thể thấm vào các lĩnh vực đó, khơng chỉ ở phương diện nhận thức tư tưởng, mà trước tiên và
cơ bản ở phương diện tâm lý, luân lý; tức là ở phương diện gốc của tình cảm, đạo lý là
người, làm người, và là gốc của đời sống xã hội nói chung.
Khi miền Bắc bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “... để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ
nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”(2). Người chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao khơng nói phát triển văn hóa và kinh tế?
Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế, kinh tế phải đi trước... Phát triển kinh
tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(3).
Người xác định ba tính chất cơ bản nhất của văn hóa dân tộc là: dân tộc, khoa học, đại
chúng. Quan niệm này được thể hiện rõ trong Đề cương văn hóa năm 1943 và trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (năm 1951).
Một khi văn hóa ở trong kinh tế và chính trị thì phát triển kinh tế và lãnh đạo chính trị phải

có tính văn hóa; và phát triển văn hóa phải trên cơ sở kinh tế và chính trị. Trong cơng cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay, phát triển kinh tế - xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước theo hướng nhân văn vì sự phát triển toàn diện của con người đang được coi
là xu hướng tất yếu vì sự phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, quan niệm về văn hóa lối sống và đạo đức làm người
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lề lối, tác phong, tư cách, đạo đức của con người, hay
nói chung là văn hóa lối sống của con người. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 03-9-1945), Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chủ trì đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách mà chính quyền cách mạng non trẻ phải giải
quyết; trong đó có nhiệm vụ xây dựng đời sống mới. Người chủ trương: “Phải giáo dục lại
nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm,
yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.
Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần,
Kiệm, Liêm, Chính”(4).
Đến năm 1947, mặc dù cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt nhưng với bút
danh Tân Sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Đời sống mới với nội dung cơ bản
là: “... thanh toán nạn mù chữ”, “...phải học đạo đức cơng dân, phổ thơng chính trị”, “... để
trả lời cho thế giới biết nước ta là nước văn minh...”(5). Và Người rất coi trọng tư cách, đạo
đức của con người. Người cho rằng, cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có
nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, khơng có đạo đức thì giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.


Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đời sống mới, sửa đổi lối làm việc,
phù hợp với từng đối tượng: nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, phụ nữ, phụ lão, cơng nhân,
nơng dân, trí thức, bộ đội, công an, nhất là cán bộ, đảng viên. Chẳng hạn Người đề xuất “Tư
cách người cách mạng”, “Năm điều Bác Hồ dạy thiếu nhi”, “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an
nhân dân”, “Sáu yêu cầu về người làm tướng”, và bốn nhiệm vụ của Quân đội. Những yêu
cầu của Người không phải là những huấn lệnh tư tưởng, mà đã trở thành chuẩn mực văn hóa.
Người quan tâm triển khai phong trào thi đua nhằm xây dựng những tấm gương “người tốt,

việc tốt”.
Ba là, quan niệm về “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc”
“Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc”, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế”(6).
Giáo dục, khoa học và văn hóa nói chung, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể trở thành nhân
tố động lực thơng qua các phương diện sau:
- Trước tiên phải phát động phong trào “diệt giặc dốt”; tức là thực hiện mọi người đều đi học
- học trong nhà trường, trong sản xuất, trong cuộc sống để tiến lên làm chủ khoa học kỹ
thuật hiện đại.
- Xây dựng tâm lý, luân lý như xây dựng phúc lợi cho nhân dân, xây dựng dân quyền (xây
dựng chính trị) và xây dựng kinh tế(7). Người nói rõ rằng, xây dựng tâm lý là xây dựng tinh
thần độc lập tự cường; xây dựng luân lý là xây dựng năng lực biết hy sinh, làm lợi cho quần
chúng.
- Tâm lý, luân lý nói riêng, văn hóa nói chung thể hiện sâu sắc và tập trung truyền thống và
bản sắc văn hóa dân tộc.
- Do văn hóa tác động vào “mọi phương thức sinh hoạt” nên cần phải kết hợp khoa học với
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; phải thực hiện lồng ghép giá trị văn hóa vào các hoạt
động chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và sinh hoạt của mỗi người.
Bốn là, quan niệm về thực hành và tấm gương “người tốt, việc tốt” nhằm xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hành là nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Việc
coi sinh hoạt thường nhật là một nội dung hoạt động thực hành - hoạt động vật chất có chủ
đích, chứng tỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần, vận dụng sáng tạo và phát triển quan
niệm của C. Mác (1818 - 1883) về tính hiện thực trong bản chất tổng hòa các quan hệ xã hội
của chủ thể hoạt động thực hành. Quan niệm “chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta” là
nhằm xây dựng ý thức tự giác của các chủ thể hoạt động thực hành, đặc biệt ở con người xã

hội chủ nghĩa.


Hoạt động thực hành, theo Người, diễn ra trong mối quan hệ biện chứng giữa “diện” và
“điểm”, cụ thể là giữa việc thực hiện các “công việc hàng ngày” với phong trào thi đua, giữa
tấm gương “người tốt, việc tốt” với người người thi đua, ngành ngành thi đua, giữa giải
phóng và phát triển, nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Thơng qua đó, mới thực
hiện được mối quan hệ biện chứng giữa thực hành và hiểu biết theo vịng xốy ốc đi lên,
khơng thể đảo ngược, với trình độ ngày càng cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc xây dựng tấm gương thực hành và đoàn kết để thực
hành “có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Tấm gương thực hành được biểu
hiện ở những “người tốt, việc tốt” là sự thể hiện sống động cho sự thống nhất giữa thực tiễn
với lý luận. Bởi lẽ, thông qua những tấm gương người tốt, việc tốt và phong trào thi đua có
thể tổng kết thực tiễn; mà tổng kết thực tiễn chính là vịng khâu trực tiếp để nâng lên thành
lý luận.
Tấm gương thực hành còn là biểu hiện thống nhất giữa “biết với làm”, giữa “lời nói đi đơi
với hành động” hay giữa cách nghĩ với cách làm của những chủ thể hoạt động thực hành.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ thực sự là tấm gương thực hành, khi vận động, tổ chức,
lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động thực hành trong sự
nghiệp cách mạng. Vì thế, tấm gương khơng tách rời đồn kết, và đoàn kết là để thực hành.
Các tấm gương và đoàn kết thực hành là động lực thúc đẩy các hoạt động thực hành nhằm
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
II. Quan điểm của Đảng đối với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trên cơ sở tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đánh dấu một bước phát triển trong tư
duy của Đảng ta về văn hóa và nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Để thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng, và cơng
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, Đảng ta đã xây dựng phương châm, giải pháp

nghiên cứu, học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Ngay từ Đại hội lần thứ II (năm 1951), Đảng ta đã khẳng định: “... Toàn Đảng hãy ra sức học
tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy là điều kiện tiên
quyết làm cho Đảng mạnh, và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn". Thực
hiện Nghị quyết Đại hội, toàn Đảng ra sức học tập tư tưởng, đạo đức của Người, lãnh đạo
xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi. Đến năm
1970, theo Nghị quyết 195-NQ/TW của Bộ Chính trị Khóa III (ngày 6-3-1970), Đảng ta mở
Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Nghị
quyết yêu cầu: “Tất cả các đảng viên phải tham gia lớp nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chủ
tịch…". Đây là lần đầu tiên trong Nghị quyết của mình, Đảng ta yêu cầu mọi đảng viên phải
nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh, coi đây là biện pháp có ý nghĩa quyết định đối
với việc nâng cao năng lực nhận thức, tư duy và phẩm chất đạo đức của người đảng viên.


Đến Đại hội VII (năm 1991), trong Cương lĩnh và Báo cáo chính trị được thơng qua tại Đại
hội khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Với tinh thần và ý nghĩa đó, ngày 27-3-2003, Ban Bí thư
đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW “về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh trong giai đoạn mới” và nhân dịp kỷ niệm 113 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đã phát động tổ chức đợt tuyên truyền, giáo dục sâu rộng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày 03-2-2007, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động "Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tiếp đó là Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-52011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh trong tồn Đảng, tồn dân. Các chỉ thị ra đời nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân
nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong tồn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI của Đảng. Đây là chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách
trong bối cảnh tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc nói chung, và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng.
III. Giải pháp đẩy mạnh xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên

cơ sở tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
Một là, nâng cao nhận thức về vai trị của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong bối cảnh hiện nay cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong tồn bộ xã hội về tầm
quan trọng của văn hóa, cả về lĩnh vực lý luận và hoạt động thực tiễn, nhất là việc thực hành
các giá trị văn hóa trong nhân dân, trước tiên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó:
- Cùng với việc tiếp tục nghiên cứu lý luận theo hướng tăng cường gắn với thực tiễn, cần
phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục các giá trị văn hóa, mà cụ thể là các chuẩn
mực văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong tồn xã hội, trước tiên trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên, nhất là các cấp lãnh đạo, quản lý.
- Cần đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ, bởi, thanh niên, còn là những
nhân cách đang định hình. Và cũng cần phải đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho
đội ngũ lao động khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngồi, vùng sâu,
vùng xa. Vì ở những khu vực này trình độ học vấn, trong đó có nhận thức về tư tưởng, chính
trị, cịn hạn chế.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, vai trị
của của các đồn thể nhân dân, đồng thời, đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa trong sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tập trung xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng ta thực
sự trong sạch, vững mạnh, qua đó hình thành, phát triển “văn hóa Đảng” và mỗi cán bộ,
đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”. Đồng thời, đưa
văn hóa vào q trình xây dựng, triển khai tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương, chính


sách của Đảng, làm sao để mỗi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, từ khâu xây
dựng đến khâu triển khai tổ chức, thực hiện đều được thẩm thấu và thấm sâu các giá trị văn
hóa, có sức lay động lịng người.
Xây dựng, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, đưa văn hóa vào q trình xây dựng, triển
khai tổ chức, thực hiện pháp luật của Nhà nước để pháp luật thực sự nghiêm minh và công
minh theo ngun tắc “khơng trừ một ai” (Hồ Chí Minh); trên cơ sở đó, lối sống của nhân

dân tuân theo “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Hồ Chí Minh).
Phát huy vai trị của của các đồn thể nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, là “cải cách hành chính”
đối với các đoàn thể nhân dân, trước tiên là các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị, để các tổ chức này thực sự là tổ chức nhân dân hay tổ chức có tính tự quản. Nhờ
đó, chúng thực hiện vai trị là tiếng nói về tư tưởng, tình cảm của nhân dân thuộc các thành
phần kinh tế, các giai tầng xã hội khác nhau; đồng thời, đóng vai trị phản biện trong khn
khổ Hiến pháp, pháp luật có tính xây dựng đối với các đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện một đảng cầm quyền ở nước ta.
Đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa để văn hóa thực sự phát triển ngày càng rộng, càng sâu do nó
là kết quả của “ý Đảng lịng dân”, chứ khơng phải là sản phẩm của “kế hoạch hóa”. Xã hội
hóa các hoạt động văn hóa khơng chỉ đóng khung ở việc góp tiền, mà được phát triển trên cơ
sở “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng làm”, từ khâu quy
hoạch đến khâu triển khai tổ chức, thực hiện các cơng trình văn hóa và các phong trào văn
hóa, trước hết từ cơ sở. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa theo phương châm Hồ Chí Minh
là: thực hành dân chủ, quản lý dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân; trong công
tác khơng gị ép, mệnh lệnh, quan liêu; qt sạch nạn quan liêu, tham ô, hối lộ; đẩy mạnh các
hoạt động văn hóa, gắn liền với thực hành tiết kiệm (chứ không nên tổ chức lễ hội tràn lan
như hiện nay).
Ba là, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
Với tư cách là chủ thể của hoạt động thực hành, con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có
nhân cách với những “tính cách riêng”, “sở trường riêng”, quyền lợi riêng, đời sống riêng.
Người cho rằng, người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thiện và ác khơng phải tự nhiên có,
mà “phần lớn do giáo dục mà ra”. Vì vậy, phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Thơng qua đó, đào tạo, giác ngộ con
người có phẩm chất cao đẹp, có trình độ phát triển tồn diện, để trở thành những con người
xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “... chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ
đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”(8). Nhưng để có “con người xã hội

chủ nghĩa” trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai
đoạn hiện nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải “trồng người” và phải biết phát huy
nhân tố con người.


4. Định hướng giải pháp phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trong thời gian tới
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền,
các tổ chức xã hội và người dân về vị trí, vai trị của văn hóa đối với sự phát triển đất nước;
tuyên tuyền gương người tốt, việc tốt, xây dựng gia đình văn hóa, mơi trường văn hóa xã hội
lành mạnh; coi trọng giáo dục truyền thống, tự hào, tự tơn dân tộc; phát triển văn hóa cũng là
để xây dựng con người có nhân cách và xây dựng con người cũng là để phát triển văn hóa
bền vững, tiếp tục cụ thể hóa đặc trưng văn hóa, đặc tính con người Việt Nam trong điều
kiện mới, hoàn thiện hệ giá trị chuẩn mực văn hóa, con người; phát huy tốt vai trị của văn
hóa với tư cách là hệ điều tiết phát triển xã hội.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, coi trọng xây dựng
luật pháp, hồn thiện thể chế phát triển văn hóa phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế; bổ sung, hồn thiện một số cơ chế, chính sách mang tính
đặc thù của văn hóa, nghệ thuật, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số; một số quy định
pháp luật về những vấn đề liên quan đến quyền tác giả và các quyền liên quan phù hợp với
luật pháp quốc tế; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế xã hội. Hồn chỉnh hệ tiêu chí về văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, cụ thể hóa
nội dung văn hóa trong chính trị và kinh tế, coi trọng việc đánh giá các tác động của các
chính sách kinh tế đối với văn hóa và ngược lại xây dựng tiêu chí văn hóa cho cấp ủy đảng
các cấp. Tăng cường đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa.
Ba là, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nâng cao khả
năng dự báo, định hướng phát triển văn hóa, con người. Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về
văn hóa theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả; khuyến khích hình thành các quỹ
đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật, đáp ứng
nhu cầu tinh thần của người dân và giới thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Huy động các nguồn lực xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa; coi trọng bảo
tồn các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, các giá trị văn hóa của dân tộc thiểu số. Có các
chính sách mới, phù hợp nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hưởng thụ văn hóa ở các
vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Phát triển các thiết chế văn hóa, đảm bảo tính
hiệu quả trong sử dụng, phù hợp với vùng miền, tập quán dân tộc. Đầu tư có trọng tâm,
trọng điểm, minh bạch, cơng khai và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển văn hóa,
đầu tư cho văn hóa phải tương đương với tăng trưởng kinh tế. Phát triển cơng nghiệp văn
hóa.
Bốn là, quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm văn hóa phù hợp với yêu cầu mới, đến năm
2030 và tầm nhìn đến 2045. Nâng cao chất lượng cơng tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ làm công tác văn hóa, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, nhất là cán bộ đầu đàn, chuyên
gia đầu ngành, doanh nhân trong lĩnh vực văn hóa, nghệ nhân. Có chính sách phù hợp thu
hút cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực văn hóa ở cơ sở. Quy hoạch lại hệ
thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó vừa đảm bảo nhu cầu đào tạo các lĩnh
vực văn hóa quần chúng, vừa chú trọng đào tạo chuyên sâu. Xây dựng một số trường đại học
nghiên cứu về văn hóa mang tầm khu vực. Tiếp tục hồn thiện chính sách tơn vinh, đãi ngộ,
trọng dụng những người tài, đặc biệt là những lĩnh vực văn hóa đặc thù.


Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con người.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, đề cao vai trò nêu gương của
người đứng đầu trong thực hiện các quy định về văn hóa, đạo đức, lối sống. Đẩy mạnh và
đưa vào chiều sâu việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi
trọng hiệu quả, chất lượng; thực hiện phong trào tồn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở. Cụ thể hóa nội dung xây dựng văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị, hồn thiện
các tiêu chí đánh giá cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược về các nội dung
liên quan đến đạo đức, văn hóa.
Gắn kết ngay từ đầu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển văn hóa. Triển khai
thực hiện có lộ trình đặt ngang hàng văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội về nhiệm vụ, đầu
tư kinh phí, trách nhiệm chính trị của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức xã hội và người

dân; phát huy vai trò các phương tiện truyền thống đại chúng trong xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới
IV- LIÊN HỆ BẢN THÂN
Tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam có mối quan hệ biện chứng,
tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam là nguồn gốc tư
tưởng lý luận quan trọng đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh; hành trang
đầu tiên khi Người ra đi tìm đường cứu nước; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát
triển giá trị truyền thống dân tộc lên tầm cao mới. Đây là một trong những quy luật, nguyên
tắc cơ bản của quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc mối quan hệ trên là cơ sở để khẳng định tính đúng đắn, cách
mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam, góp
phần nâng cao hiệu quả nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo, bảo vệ có hiệu quả tư
tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam trong tình hình mới.


Danh mục tài liệu tham khảo
1/ Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam ( Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia)
2/ Cơ sở văn hóa Việt Nam ( Trần Ngọc Thêm)
3/ Cơ sở văn hóa Việt Nam ( Trần Quốc Vượng)
4/ Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập ( Nguyễn Văn Dân)
5/ Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới(1986 - 2010)
(PGS.TS. Phạm Duy Đức)




×