Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐH DUY TÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.86 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC DUY TÂN

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ SỰ VẬN DỤNG
VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HĨA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN
SẮC DÂN TỘC

GVHD: HỒNG THỊ KIM OANH
LỚP: POS 361
TÊN THÀNH VIÊN NHÓM :
1. Nguyễn Võ Đăng Khoa - 0080
2. Nguyễn Văn Lưu – 8321 (NT)
3. Nguyễn Thanh Quân - 1475
4. Phan Huyền Bảo Trân - 9901
5. Trần Thu Quyền - 4897
6. Phan Thị Mỹ Duyên – 1690
7. Trương Thị Vy - 0488

1


MỤC LỤC

MỤC LỤC............................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................3
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA...............................4
1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.........................4
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hố..........................................4
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới............8


II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ VĂN HÓA VÀO VIỆC
XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC
DÂN TỘC............................................................................................11
1. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam trong thời gian gần đây.....11
2. Giải pháp...................................................................................14
KÉT LUẬN.........................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................16

2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng vấn để xây dựng
đạo đức cách mạng, coi đọ đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng. Bác nói rất nhiều
về đạo đức, văn hóa cũng như về xây dựng con người trong thời chiến cũng như thời bình theo
nhiều cách khác nhau. Những hành động cử chỉ của Bác, lời nói đã để lại nhiều bài học cho
chúng ta học hỏi. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận dụng tư tưởng của Người
trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với sự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
cách mạng cũ ng như những con người Việt Nam mới luôn là vấn đề thời sự, thể hiện tính cần
thiết, địi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, kiên trì phấn đấu và noi theo.
Đó là sự nghiệp của tồn Đảng, của hệ thống chính trị, nhằm góp phần xây dựng thành cơng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong giai đoạn
hiện nay, một phần cán bộ Đảng viên, các thanh thiếu niên đã sai lầm với những chn mực đạo
đức, v ăn hóa suy đồi gây tác hại không nhỏ đến người khác và sự vững chắc cũng nh ư làm
lung lay long tin vào Đảng trong tồn thể nhândân. Vì vậy giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ và cán
bộ Đảng viên đồng thời khơng ngừng nâng cao trình độ văn hóa khơng nằm ngồi mục đích xây
dựng con người mới xã hội mới đưa đất nước đi lên dân giàu nước mạnh. Ý nghĩa của bài tiêu
luận “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa đạo đức và xây dựng con người mới ” soi rõ con
đường mà Đảng và nhân dân ta đã và đang đi, đề cao nhiệm vụ xây dựng đất nước, nâng cao tư
duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng năng lực công tác, thực

hiện tốt các nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước

3


I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA
1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khái niệm: văn hóa có nội hàm phong phú và ngoại diên rất rộng, vì vậy có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo cả
ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp.
Theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh nêu văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do
loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó
cũng là mục đích của cuộc sống lồi người.
Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn”.
Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh đã khắc phục được những quan niệm phiến diện về văn
hóa trong lịch sử và hiện tại.
Theo nghĩa hẹp, Người viết: “Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý
đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là
một kiến trúc thượng tầng”.
Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản là trình độ học vấn của con người, thể hiện ở việc Hồ Chí
Minh yêu cầu mọi người phải đi học “văn hóa”, xóa mù chữ.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hố.
Từ những cơ sở khách quan, khoa học, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra khái
niệm văn hóa, quan điểm xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người đúc kết nội hàm khái niệm văn
hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát

minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn” [1]. Khái niệm văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra đã khái quát nội
dung rộng nhất của phạm trù văn hóa, bao hàm các hoạt động vật chất và tinh thần của con người
cùng với các giá trị mà con người sáng tạo ra; đồng thời, khái niệm văn hóa của Người cũng chỉ
ra nhu cầu sinh tồn của con người với tư cách chủ thể hoạt động của đời sống xã hội chính là
nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hóa.
Về vị trí, vai trị của văn hóa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đứng ngang hàng với các
lĩnh vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng
phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa” [2]. Quan trọng
hơn nữa, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác. Văn hóa
khơng thể đứng ngồi “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng
nằm “trong văn hóa”. Đời sống xã hội được xây dựng, kết cấu đan cài từ bốn lĩnh vực: chính trị,

4


kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, là lĩnh vực
thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó, một trong những vấn đề cơ bản, hệ trọng đặt ra
là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lĩnh vực văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
Về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: văn hóa phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở trong chính trị; chỉ khi chính trị, xã hội được giải phóng thì văn
hóa mới được giải phóng; chính trị mở đường cho văn hóa phát triển, để văn hóa phát triển tự do,
phải làm cách mạng chính trị trước. “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy... dưới chế độ thực dân và
phong kiến, nhân dân ta bị nơ lệ, thì văn nghệ cũng bị nơ lệ, bị tồi tàn, khơng thể phát triển được” .
[3]
Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị tức là tham gia vào các hoạt động cách mạng,
tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Văn hóa tham gia kháng chiến tức là văn

hóa khơng đứng ngồi mà ở trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến
trở thành cuộc kháng chiến có văn hóa.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cách mạng trên lĩnh vực văn hóa là một nhiệm
vụ rất quan trọng. Mặt trận văn hóa, văn nghệ khơng chỉ diễn ra trong chống giặc ngoại xâm, mà
còn cả ở cơng cuộc rất khó khăn, phức tạp là chống giặc nội xâm, “giặc ở trong lòng”, chủ nghĩa
cá nhân với những biểu hiện như tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí, lười biếng, quan liêu,...Vì thế,
mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thể hiện càng sâu sắc
hơn, hai lĩnh vực phải được tiến hành cùng lúc, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Đối với mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Muốn tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao khơng nói phát triển văn hóa và
kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước” [5]. Quan điểm
của Người chỉ rõ kinh tế chính là cơ sở của văn hóa; do đó, kinh tế phải đi trước một bước, phải
chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn
hóa.
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, vì thế phải dựa trên sự kiến thiết, phát triển của cơ sở hạ
tầng của xã hội thì mới kiến thiết được và có đủ điều kiện để phát triển văn hóa. Đồng thời, đứng
trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trình độ văn
hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khơi phục kinh tế, phát triển
dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Quan điểm này của Người
khẳng định rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, là động lực của kinh tế và chính trị, vì thế
văn hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Những luận điểm toàn diện và sâu sắc này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng cho quan
điểm hiện nay của Đảng ta; khẳng định xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đất nước, nhân
dân, chủ trương của Đảng ta luôn nhất quán là: tăng trưởng kinh tế không phải là mục tiêu duy
nhất, tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với phát triển văn hóa, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của văn hóa
dân tộc và giải quyết những vấn đề an sinh xã hội; văn hóa là nguồn lực, động lực của phát triển.
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực
quan trọng để phát triển đất nước, xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hịa với tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta”. [6]
Phát triển nền văn hóa lên tầm cao mới

5


Quan điểm nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa là: Người đã khẳng định văn hóa là
động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Người nêu rõ yêu cầu văn hóa phải soi đường
cho quốc dân đi; đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ,... Văn
hóa tạo sức mạnh vật chất, tinh thần thắng ngoại xâm theo tinh thần văn minh thắng bạo tàn. Nếu
kinh tế nâng cao đời sống vật chất, thì văn hóa có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân
dân.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng Thư ký Liên hợp quốc
António Guterres xem nhà thư pháp viết chữ tại đền Ngọc Sơn_Ảnh: Thống Nhất - TTXVN
Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển, nâng tầm văn hóa Việt Nam cịn thể
hiện trong việc Người đưa ra quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới với 5 điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc: “1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3- Xây dựng xã hội: mọi sự
nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4- Xây dựng chính trị: dân quyền. 5Xây dựng kinh tế”.
Để thay thế văn hóa nơ dịch của chủ nghĩa thực dân, điều quan trọng nhất là phải xây dựng
một nền văn hóa mới cách mạng. Nền văn hóa mới đó phát triển với ba tính chất: dân tộc, khoa
học, đại chúng. Xây dựng nền văn hóa mới trên một số lĩnh vực cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu lên một số yêu cầu nổi bật sau:
Một là, về giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”,
việc xây dựng nền giáo dục mới phải được coi là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ
bản, lâu dài, có tác dụng “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu
lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” [7]. Do đó, điều quan trọng trước
tiên ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập là phải mở ngay chiến dịch chống “giặc dốt”.
Người xác định mục tiêu của giáo dục là thực hiện ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục: dạy
và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dưỡng những

phẩm chất và phong cách tốt đẹp... Những quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục là định
hướng cho việc xây dựng nền giáo dục mới phát triển đúng đắn trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và góp phần quan trọng vào quá trình đấu tranh thống nhất nước nhà.
Hai là, về văn hóa - văn nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm cơ bản định
hướng cho việc xây dựng nền văn nghệ cách mạng: Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, người
hoạt động văn hóa, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong
đấu tranh cách mạng. Nội dung này là sự nhấn mạnh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
khẳng định vai trị, vị trí của văn hóa, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hóa
cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh được
hình thành từ những năm 20 thế kỷ XX và tiếp tục được phát triển qua các giai đoạn cách mạng
sau này. Ý nghĩa của quan điểm về mặt trận văn hóa, chiến sĩ văn hóa là: “Văn hóa, nghệ thuật
cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. [8]
“Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng
chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân... Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến,
của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết” [9]. Đối với mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và
tự do của văn nghệ sĩ, Người luôn chỉ rõ: dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn
nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng.

6


Ba là, về đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, để xây
dựng đời sống mới, thì phải xây dựng đạo đức mới, xây dựng lối sống văn minh, nếp sống mới.
Trước hết cần “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN,
KIỆM, LIÊM, CHÍNH” [10] vì “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho
đời sống mới” [11]. Để xây dựng lối sống mới, cần phải sửa đổi “cách ăn, cách mặc, cách ở, cách
đi lại”. Xây dựng nếp sống mới - nếp sống văn minh là quá trình làm cho lối sống mới dần dần
trở thành thói quen; trong đó có sự kế thừa, phát triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời cải
tạo những phong tục, tập quán cũ, lạc hậu và bổ sung những cái mới, tiến bộ,...
Trong xây dựng nền văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm phải giữ gìn và

phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong tác
phẩm “Lịch sử nước ta” (năm 1942), Người đặt ra vấn đề quan trọng hàng đầu là: Dân ta phải
biết sử ta. Những ngày đầu mới lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL, ngày 23-11-1945, về bảo tồn cổ tích trên tồn cõi Việt
Nam (bao gồm tất cả các di tích đình chùa, đền miếu, cung điện, thành quách, lăng mộ, bia ký, đồ
vật, văn bằng, sách vở,...). Theo Người, việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần trong công cuộc kiến
thiết nước Việt Nam.
Một năm sau ký Sắc lệnh số 65/SL, khi đến dự Hội nghị Văn hóa tồn quốc lần thứ nhất ở Hà
Nội, ngày 24-11-1946, Người nói: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đơng
phương và Tây phương chung đúc lại... Tây phương hay Đơng phương có cái gì tốt, ta học lấy để
tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và nay, trau dồi
cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam, để hợp với tinh thần dân chủ” và “Phát
triển hết cái hay, cái đẹp của dân tộc, tức là ta cùng đi tới chỗ nhân loại”. [12]
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định việc kế thừa và phát huy những giá trị tốt
đẹp trong truyền thống dân tộc của văn hóa Việt Nam đồng thời với việc khơng ngừng tự làm
phong phú qua việc tiếp thu, tiếp biến có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Hai q trình này
cùng diễn ra, làm cho nền văn hóa mới ở Việt Nam vừa mang những đặc trưng phản ánh cốt
cách, bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với trình độ văn minh tiên
tiến, hiện đại của nhân loại. Hơn nữa, cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc khi được phát triển,
phát huy hết mức sẽ đạt đến tầm cao nhân loại, trở thành giá trị chung của nhân loại.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng (năm 1951), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam cần phải đạt được
trong lĩnh vực văn hóa: “Phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ
những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất
dân tộc, khoa học và đại chúng” [13]. Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc có chọn
lọc của Hồ Chí Minh.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ngày 19-9-1954, trên đường từ Việt Bắc về Thủ đơ Hà
Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Phong Châu kính viếng các Vua Hùng, nói chuyện với đồng bào,
chiến sĩ tại đền Giếng, Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải
cùng nhau giữ lấy nước”. Câu nói bất hủ của Người khái quát hai phạm trù dựng nước và giữ

nước thành một cặp phạm trù tất yếu của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Phát huy, phát triển văn hóa dân tộc phải dựa trên cơ sở giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa
dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định quan điểm: gốc của văn hóa là dân tộc; khơng có

7


cái gốc ấy thì khơng thể tiếp thu được tinh hoa của các nước mà cũng khơng đóng góp được gì
cho văn hóa nhân loại. Người u cầu “phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc ... và học tập văn
hóa tiên tiến của các nước” và Người cũng rất tâm đắc với quan điểm của V.I Lê-nin: Chỉ có
những người cách mạng chân chính mới thu thái được những điều hiểu biết quý báu của các đời
trước để lại.[14] Người khuyên văn, nghệ sĩ phải chú ý giữ gìn vốn cũ dân tộc, đồng thời phê phán
những ai là người Việt Nam nhưng không hiểu biết rõ về lịch sử, đất nước, con người Việt Nam.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc giữ gìn
thuần phong mỹ tục vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Đối với vấn đề lễ hội ở các di tích, năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ý kiến chỉ đạo có
ý nghĩa phương pháp luận: “Nói là khơi phục vốn cũ, thì nên khơi phục cái gì tốt, cái gì khơng tốt
thì loại dần ra ... Cái gì tốt, thì ta nên khơi phục và phát triển, cịn cái xấu thì ta phải bỏ đi”. [15]
Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy thái độ khoa học, trân trọng tinh hoa thuần
phong mỹ tục đối với lễ hội, không phục cổ mà nâng lên cho phù hợp nếp sống mới, văn hóa
mới...
Cùng với những tư tưởng sâu sắc về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một tấm gương
mẫu mực về học tập, bảo tồn vốn cổ, bảo vệ văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Người rất trân trọng, gìn
giữ và làm trong sáng tiếng nói dân tộc để nâng tầm văn hóa Việt Nam. Nói chuyện tại Đại hội
lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam (ngày 8-9-1962), Người nhấn mạnh: “Tiếng nói là thứ của
cải vơ cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, q trọng nó, làm
cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”. [16] Người cũng yêu cầu các nhà văn phải chú ý trân trọng
và giúp đỡ những sáng tác của quần chúng, vì đó là những viên ngọc quý.
Như vậy, phát triển nâng tầm văn hóa dân tộc Việt Nam lên ngang tầm thời đại là một tư
tưởng vô cùng đẹp đẽ, sâu sắc và cao rộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với vai trị là người đứng

đầu của một quốc gia - dân tộc; hơn thế, là đại diện về tư tưởng, trí tuệ, tinh thần, hồn cốt của
quốc gia - dân tộc Việt Nam. Những quan điểm, tư tưởng của Người về văn hóa, phát triển, nâng
tầm văn hóa dân tộc khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ,
mà cịn có giá trị sâu sắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng ấy chính là
cơ sở, nền tảng cho Đảng xây dựng đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay với các định hướng cơ bản, như xây dựng hệ giá trị văn
hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam; xây dựng
con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị
hiện đại; xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện thụ
hưởng văn hóa của nhân dân; bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống
văn hóa Việt Nam; gắn việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam với
việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về
giao lưu văn hóa quốc tế; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị kiệt xuất,
người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người cịn là một nhà văn hoá lỗi lạc, một danh
nhân văn hoá thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan

8


tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá mới Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc ta.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
theo Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam,
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố vẫn ln là
một điểm tựa tinh thần vững chắc. Đồng thời, với sức sống mãnh liệt, tự nó, tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hố đã và đang trở thành một bộ phận của nền văn hoá Việt Nam.

Nền văn hố Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, Thấm đẫm tính dân tộc, hiện đại và nhân văn Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà
nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Quan điểm này tiếp tục tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về “xây dựng một nền văn hố Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”.
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hố Việt Nam là nền văn hố có gốc rễ, cội nguồn từ truyền thống
văn hoá dân tộc, thể hiện tâm hồn, cốt cách, bản sắc của con người Việt Nam. Nền văn hoá ấy kế
thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó
là truyền thống yêu nước thương nịi, tinh thần đồn kết, cố kết cộng đồng; tinh thần nhân ái
khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất; tinh thần
dũng cảm, kiên cường bất khuất, mưu trí, gan dạ trong chống giặc ngoại xâm... Những truyền
thống ấy khơng những phải được giữ gìn mà cịn phải được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây
dựng nền văn hố hiện nay. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác giáo dục truyền
thống lịch sử dân tộc. Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam” [18]. Đồng thời Người yêu cầu “phải phát huy hết cốt cách dân tộc, phải lột cho hết tinh thần
dân tộc, để cổ vũ đồng bào ta, để giáo dục con cháu ta”. Người phê phán mọi biểu hiện tơn sùng
văn hố ngoại. Theo Người, càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin bao nhiêu càng phải coi
trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ơng bấy nhiêu. Người địi hỏi phải giữ gìn và
phát huy những vốn văn hố q báu của dân tộc, loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống
tinh thần của nhân dân vừa kế thừa những truyền thống tốt đẹp vừa phê phán, loại bỏ các tập tục
cổ hủ lạc hậu. Với quan điểm dân tộc hiện đại, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Để phục vụ sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hố phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình
thức” [19]; “Con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật xã hội chủ
nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức [20]. Nền văn hố mà chúng ta xây dựng là một nền văn
hoá “mở”. Một mặt, nó kế thừa và phát huy những giá trị trong truyền thống dân tộc, mặt khác nó
tự làm giàu mình bằng việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho nền văn hoá
mới ở Việt Nam vừa mang những đặc trưng phản ánh cốt cách, bản sắc và truyền thống văn hoá
dân tộc, vừa bắt nhịp được với hơi thở của cuộc sống hiện đại, phù hợp với trình độ khoa học và
trình độ văn minh mà nhân loại đã đạt được.
Hai là, Gắn chặt với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và là một bộ phận của sự nghiệp cách

mạng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hố khơng tách rời kinh tế và chính trị, một mặt, nó chịu
sự chi phối của kinh tế và chính trị nhưng mặt khác, văn hố có tác động trở lại to lớn đến kinh tế
và chính trị. Chính vì thế Người coi văn hố nghệ thuật cũng là mặt trận, và anh chị em nghệ sỹ
là những chiến sỹ trên mặt trận ấy [21]. Người khẳng định: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn

9


nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ sĩ muốn có tự do thì phải tham gia cách mạng” [22]. Để làm trịn
nhiệm vụ, chiến sỹ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng... Về sáng tác, thì cần thấu
hiểu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. Như thế, mới bày tỏ được cái tinh thần anh
dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy”.
Người viết tiếp: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá gánh một
phần rất quan trọng”. “Văn hố cũng như chính trị, kinh tế và tín ngưỡng, đạo đức đều được phát
triển tự do. Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phị chính trừ tà,
mà anh chị em văn hố và trí thức phải làm cũng như là những chiến sỹ anh dũng trong công
cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc” [23]. Chính vì vậy, Hồ Chí
Minh ln coi trọng sự nghiệp xây dựng văn hố của nước nhà, và nhiều lần Người đã nói rằng:
“Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang
nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hố”. Tư tưởng đó của Người thể hiện rõ quan điểm duy vật,
phát triển toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ba là, sâu sắc tính nhân dân (tính đại chúng) Hồ Chí Minh cho rằng: “Cái văn hố mới này
cần phải có tính khoa học, tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện
đại. Nay nước ta đã được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hoá hợp
với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân” [22]. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nền văn
hố mới bắt nguồn từ trong nhân dânsẽ “ln ln tìm tịi những con đường để làm sao có thể kể
một cách chân thật hơn, chân thành hơn cho nhân dân nghe về những mối lo âu và suy nghĩ của
nhân dân”[23]. Người luôn uốn nắn, phê bình lối nói, lối viết và lối sáng tác xa rời nhân dân, khơng
phù hợp với trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân. Đồng thời, Người đề cao vai trị sáng tạo
văn hố nghệ thuật của nhân dân và coi những sáng tác của nhân dân như “những viên ngọc

quý”. Người thường căn dặn những người làm cơng tác văn hố, nghệ thuật phải đi sâu vào thực
tế cuộc sống, hiểu được tâm tư tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu... của nhân dân để từ đó các sáng
tác của mình phục vụ được nhân dân một cách tốt nhất. Tư tưởng đó của Người thể hiện quan
điểm vì con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã
hội đất nước.
Ngày nay, trước những biến động của tình hình thế giới và khu vực đang tác động mạnh mẽ
đến đời sống văn hoá của dân tộc, một mặt, chúng ta tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hoá
tiên tiến, khoa học, đại chúng. Mặt khác, chúng ta cũng kiên quyết xoá bỏ những hủ tục, tàn dư,
những sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngồi. Đặc biệt, để văn hố tăng thêm sức mạnh dân tộc,
góp phần bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ thì mỗi người dân chúng ta cần phải giữ gìn nền văn hố Việt
Nam ln tiên tiến, đậm đà bản sắt dân tộc.

10


II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ VĂN HÓA VÀO VIỆC XÂY
DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC.
1. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam trong thời gian gần đây
a. Thành tựu
Trước tiên, có thể thấy văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống mấy nghìn năm lịch sử, trải
qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến cố thăng trầm nên kết tinh và lắng đọng được nhiều giá trị
tích cực, như truyền thống yêu nước và lịng dũng cảm, khả năng thích ứng cao với sự thay đổi
của hoàn cảnh, sự khoan dung, tinh thần cộng đồng, sự nhân ái, lạc quan và hồn hậu, trọng nghĩa
tình, sự cần cù, siêng năng. Hiện nay, Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến như một đất nước
thanh bình, hiện đại, trẻ trung và năng động, một thành viên tích cực trong các hoạt động hợp tác
quốc tế cho hịa bình và phồn vinh chung trên toàn cầu. Hơn nữa, bối cảnh chuyển đổi mang tính
bước ngoặt của Việt Nam, sự “va đập” giữa cái mới và cái cũ tạo nên một lực hấp dẫn đặc biệt
của văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa hiện tại đang hướng đến việc kế thừa các giá trị văn hóa
truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị mới, hướng tới tương lai, như dân chủ, hiện đại,
nhân văn, khai phóng, khoan dung, rộng mở... Nhận diện được đặc tính, phẩm chất cơ bản này

của văn hóa Việt Nam trong truyền thống và hiện đại sẽ có ý nghĩa tích cực, để chuyển hóa thành
“sức mạnh mềm” của đất nước, tạo sức thuyết phục đối với bạn bè quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam có nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc, được hình thành qua hàng nghìn
năm lịch sử. Nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam dồi dào, đa dạng về loại hình và có giá trị cao
trên nhiều phương diện, được công nhận cả ở tầm khu vực và quốc tế là điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Hệ thống di sản văn hóa phong phú, cảnh quan kỳ vĩ và
thơ mộng là những tài sản vô giá, có tiềm năng chuyển hóa thành những sản phẩm, dịch vụ độc
đáo, đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế, thương mại cũng như tạo dựng thương hiệu, vị thế của
văn hóa Việt Nam.
Thứ ba, các văn bản pháp lý về quản lý văn hóa của nước ta từng bước được hoàn thiện.
Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ
sung, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa phù hợp với tình hình mới. Nhiều luật
quan trọng liên quan đến văn hóa và các văn bản quy phạm pháp luật khác góp phần hồn thiện
thể chế văn hóa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Nhiều chiến lược ngành đã được phê duyệt,
làm căn cứ để triển khai các hoạt động văn hóa trong thực tiễn.
Thứ tư, chủ trương “xã hội hóa” hoạt động văn hóa đã thu được những kết quả thiết thực,
bước đầu huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội. Xã hội hóa được coi là một trong những
giải pháp quan trọng nhằm thu hút các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế tham gia vào các
hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến sản phẩm văn hóa, xây dựng cộng đồng trách nhiệm
của toàn xã hội vào sự nghiệp phát triển văn hóa, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa phát
triển mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Sự đa dạng hóa

11


về các chủ thể văn hóa, sự chuyển đổi từ nguồn lực đơn tuyến của Nhà nước cho văn hóa đến sự
nhập cuộc, hiệp lực và phối hợp đa chiều, đa thành phần từ nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội
cho các hoạt động văn hóa; thúc đẩy sự đa dạng trong loại hình, ý tưởng, xu hướng và phong
cách của các biểu đạt văn hóa, đem đến cho cơng chúng những món ăn tinh thần phong phú hơn.
Thứ năm, sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; có sự thể

nghiệm nhiều phương thức, hình thức biểu đạt mới làm phong phú thể loại, phong cách sáng tác
và sản phẩm nghệ thuật với các đề tài, chủ đề được mở rộng bên cạnh những nỗ lực bảo tồn và
phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống. Một số tác phẩm mỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh đã
nhận được giải thưởng cao trong nước và quốc tế; việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại
vào việc sản xuất sản phẩm văn hóa từng bước được thực hiện, nhiều dự án văn hóa nghệ thuật đã
khuyến khích được những sáng tạo mới của các cá nhân nghệ sĩ, thu hút sự quan tâm của giới trẻ
và đưa ra những cách nhìn mới về những vấn đề của cuộc sống đương đại.
Thứ sáu, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện là tiền đề góp phần thúc đẩy việc
hình thành thị trường tiêu dùng văn hóa với nhu cầu ngày càng lớn. Văn hóa, từ một lĩnh vực bị
xem là chủ yếu mang nặng yếu tố tuyên truyền đang dần trở thành một lĩnh vực có giá trị kinh tế,
mang lại lợi nhuận cho xã hội. Đặc biệt, hoạt động du lịch được đẩy mạnh, trong đó tiềm năng
văn hóa được khai thác và tạo ra sức hấp dẫn cho du lịch Việt Nam, đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.
Thứ bảy, hợp tác quốc tế về văn hóa được đẩy mạnh, góp phần tăng cường quảng bá hình ảnh
đất nước, văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới, tạo nên “sức mạnh mềm” cho đất nước.
Giao lưu văn hóa với nước ngồi ngày càng được mở rộng cùng với q trình đa phương hóa, đa
dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của Nhà nước ta, góp phần tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu
biết lẫn nhau, quảng bá cho hình ảnh đất nước, con người, văn hóa – nghệ thuật Việt Nam đến
với bạn bè thế giới.
Thứ tám, công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh. Hạ tầng
mạng lưới viễn thông, In-tơ-nét tiếp tục được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Hoạt động của các cơ
quan thông tấn báo chí cũng có nhiều đổi mới, tích cực hội nhập, học hỏi kinh nghiệm truyền
thơng của thế giới, có những bước phát triển vượt bậc, thông tin đa chiều, nội dung phong phú,
góp phần nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ, giúp người dân tiếp cận nhanh với những tri thức
mới của nhân loại, nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống.
Thứ chín, nhiều phong trào, cuộc vận động văn hóa được thực hiện và có những thành tựu
nhất định, góp phần tạo mơi trường văn hóa, bảo vệ và phát huy những giá trị nhân văn truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống được tơn vinh, tính năng
động sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của người dân được phát huy, mở rộng.
b. Hạn chế

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì văn hóa nước ta thời gian qua cịn tồn tại
một số hạn chế.
Một là, tư duy quản lý văn hóa chưa theo kịp sự phát triển của xã hội. Dấu ấn của tư duy bao
cấp, “xin cho”, tư duy hành chính - mệnh lệnh, tác nghiệp vẫn cịn nặng nề. Hiện nay các cơ quan
quản lý vẫn cịn ơm đồm nhiều cơng việc “làm văn hóa” hoặc bị sa đà vào các hoạt động văn hóa
cụ thể, các cơng việc sự vụ, phong trào mà chưa thực sự phát huy được đầy đủ trách nhiệm, vai

12


trò của xã hội, của cộng đồng, doanh nghiệp và các hiệp hội nghề nghiệp. Cơ chế quản lý vẫn chủ
yếu mang tính tập quyền; tính chất phân quyền, phi tập trung hóa chưa cao. Các chủ trương,
đường lối, kế hoạch phát triển văn hóa phần lớn được xác định và xây dựng từ cấp vĩ mô tỏa
xuống các cấp vi mô, không được đề xuất và xây dựng từ dưới lên, từ thực tiễn cơ sở. Pháp luật
chưa trở thành cơng cụ tối thượng để điều tiết, kiểm sốt, điều chỉnh đời sống văn hóa. Nhận thức
về văn hóa của các ngành,
các cấp có lúc cịn cứng nhắc, áp đặt, giáo điều. Trên thực tế, vị thế của văn hóa cịn thấp,
chưa thực sự được đặt ngang hàng với các lĩnh vực khác.
Hai là, Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổi tiếp diễn, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vẫn đang trong quá trình hồn thiện, điều kiện khoa học, kỹ thuật của đất
nước, nguồn nhân lực... còn nhiều hạn chế. Kinh tế phát triển chưa bền vững, có những ảnh
hưởng đến sự phát triển các mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Thể chế văn
hóa cịn chậm đổi mới, thiếu đồng bộ. Việc ban hành luật vẫn còn những yếu kém. Một số văn
bản quản lý vừa được ban hành đã có những bất cập, địi hỏi phải điều chỉnh, bổ sung. Việc tổ
chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa còn yếu nên nhiều quy phạm pháp
luật chưa thực sự đi vào cuộc sống. Việc thực thi nhiều quy định của pháp luật liên quan đến văn
hóa cịn lúng túng.
Ba là, nguồn nhân lực cho sự phát triển văn hóa cịn yếu và thiếu các kỹ năng chun mơn và
quản lý, đặc biệt là năng lực đổi mới sáng tạo, các kỹ năng quản trị kinh doanh. Chất lượng đội
ngũ cán bộ quản lý về văn hóa ở các cấp không theo kịp sự phát triển phong phú, đa dạng, và

phức tạp của hoạt động văn hóa, dẫn tới lúng túng trong hoạch định chính sách, trong hướng dẫn
tổ chức thực hiện, trong xử lý các vụ, việc vi phạm pháp luật và các chính sách về văn hóa.
Bốn là, đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trị, vị trí của văn hóa trong phát triển. Về
tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách tương đối thấp so với các lĩnh vực
khác, chưa tương xứng với thực tiễn, chưa đồng đều. Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho
hoạt động văn hóa nhìn chung cịn kém phát triển và trong tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu
đồng bộ, hiệu quả sử dụng cịn thấp. Cơng tác quy hoạch, đầu tư phát triển thiết chế văn hóa
trọng điểm cịn chậm. Hệ thống thiết chế văn hóa vùng nơng thơn, nhất là vùng sâu, vùng xa còn
thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự phù hợp với đặc điểm vùng, miền, với nhu cầu và nguyện
vọng của người dân; nội dung hoạt động còn nghèo nàn, chưa thiết thực.
Năm là, chất lượng dịch vụ, sản phẩm văn hóa chưa cao; cịn thiếu các thương hiệu văn hóa ở
cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế, thiếu những sản phẩm văn hóa có chất lượng cao, góp phần
bồi bổ tâm hồn, xây dựng nhân cách, giáo dục đạo đức. Tình trạng nhập
khẩu, nhập siêu sản phẩm văn hóa nước ngồi vào Việt Nam vượt trội so với xuất khẩu văn
hóa, việc tiếp thu sản phẩm văn hóa nước ngồi cịn thiếu chọn lọc. Các sản phẩm văn hóa Việt
Nam vẫn chưa thực sự sáng tạo, phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu của công chúng, năng
lực cạnh tranh trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế còn thấp.
Sáu là, bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị phai nhạt. Nhiều dân tộc thiểu số đã và đang
mất dần những nét văn hóa đặc sắc trong tiến trình phát triển, hội nhập, đời sống văn hóa nghệ
thuật nghèo nàn. Nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số
chưa được chú trọng kiểm kê và lập hồ sơ bảo vệ. Nhiều loại hình văn hóa – nghệ thuật chưa

13


được quan tâm phát triển, trong đó có nhiều ngành nghệ thuật đỉnh cao và nghệ thuật truyền
thống, nghệ thuật cơng cộng, nghệ thuật mới.
Bảy là, mơi trường văn hóa cịn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần
phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Văn hóa ứng xử
nơi cơng cộng, ở cơng sở, trong gia đình, nhà trường có nhiều bất cập. Sự suy thối về tư tưởng,

xuống cấp về đạo đức, tha hóa về lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, gây bức
xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Nạn
tham nhũng, hối lộ, làm ăn phi pháp, lối sống bng thả, sống gấp, thói cơ hội trong chính trị,
gian lận trong học hành, bằng cấp,... diễn ra ngày càng phổ biến. Đạo đức nghề nghiệp sa sút,
ngay cả trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh, như y tế, giáo dục, bảo vệ luật pháp, báo
chí... Văn hóa gia đình chưa được chăm lo, củng cố. Văn hóa học đường có những biểu hiện đáng
báo động. Các hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa, sự xuống cấp về đạo đức, suy
thoái về lối sống, sự băng hoại các giá trị văn hóa đang có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách
hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân
chậm được rút ngắn.
Tám là, hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn hạn chế, chưa đáp ứng được
nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác. Khoảng cách của nhiều vấn đề lý luận
với cuộc sống hiện thực không những chưa được thu hẹp mà có xu hướng mở rộng thêm. Các
cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về lý luận văn học, nghệ thuật cịn ít và chất lượng chưa cao;
chưa giải đáp được nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra. Hiện nay đang tồn tại hai thực tế trái ngược
nhau: Một mặt, lý luận văn hóa bị lạc hậu, đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ bản và cấp bách
do thực tiễn đặt ra mà công tác lý luận chưa trả lời được, hoặc trả lời chưa thuyết phục; mặt khác,
do thiếu sự dẫn dắt, chỉ đường, định hướng của lý luận đúng đắn, nên nhiều hiện tượng văn hóa
diễn ra một cách tự phát, khiến cho chỉ đạo thực tiễn bị lúng túng, thụ động đối phó, khơng có đối
sách rõ ràng, kịp thời và hiệu quả. Hoạt động phê bình văn nghệ chưa góp phần định hướng kịp
thời, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác, nhiều khi
còn dễ dãi, né tránh, cảm tính trong phê bình và ngược lại, cũng xuất hiện kiểu phê bình áp đặt,
triệt tiêu bản chất khoa học của phê bình văn nghệ; chưa phân tích phê phán đầy đủ những
khuynh hướng sai trái, lệch lạc.
2. Giải pháp
Một là, nâng cao nhận thức về vai trị của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong bối cảnh hiện nay cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ xã hội về tầm
quan trọng của văn hóa, cả về lĩnh vực lý luận và hoạt động thực tiễn, nhất là việc thực hành các
giá trị văn hóa trong nhân dân, trước tiên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó:

Cùng với việc tiếp tục nghiên cứu lý luận theo hướng tăng cường gắn với thực tiễn, cần phải
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục các giá trị văn hóa, mà cụ thể là các chuẩn mực văn
hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong tồn xã hội, trước tiên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là các cấp lãnh đạo, quản lý.
Cần đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ, bởi, thanh niên, cịn là những
nhân cách đang định hình. Và cũng cần phải đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho đội

14


ngũ lao động khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngồi, vùng sâu, vùng xa.
Vì ở những khu vực này trình độ học vấn, trong đó có nhận thức về tư tưởng, chính trị, cịn hạn
chế.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của của
các đoàn thể nhân dân, đồng thời, đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa trong sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tập trung xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng ta thực sự
trong sạch, vững mạnh, qua đó hình thành, phát triển “văn hóa Đảng” và mỗi cán bộ, đảng viên
“vừa hồng, vừa chuyên”, “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”. Đồng thời, đưa văn hóa vào q
trình xây dựng, triển khai tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm sao
để mỗi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, từ khâu xây dựng đến khâu triển khai tổ
chức, thực hiện đều được thẩm thấu và thấm sâu các giá trị văn hóa, có sức lay động lịng người.
Xây dựng, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, đưa văn hóa vào q trình xây dựng, triển
khai tổ chức, thực hiện pháp luật của Nhà nước để pháp luật thực sự nghiêm minh và công minh
theo nguyên tắc “khơng trừ một ai” (Hồ Chí Minh); trên cơ sở đó, lối sống của nhân dân tuân
theo “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Hồ Chí Minh).
Phát huy vai trị của của các đồn thể nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, là “cải cách hành chính” đối
với các đồn thể nhân dân, trước tiên là các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, để
các tổ chức này thực sự là tổ chức nhân dân hay tổ chức có tính tự quản. Nhờ đó, chúng thực hiện

vai trị là tiếng nói về tư tưởng, tình cảm của nhân dân thuộc các thành phần kinh tế, các giai tầng
xã hội khác nhau; đồng thời, đóng vai trị phản biện trong khn khổ Hiến pháp, pháp luật có tính
xây dựng đối với các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
trong điều kiện một đảng cầm quyền ở nước ta.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa để văn hóa thực sự phát triển ngày càng rộng, càng sâu do nó
là kết quả của “ý Đảng lịng dân”, chứ khơng phải là sản phẩm của “kế hoạch hóa”. Xã hội hóa
các hoạt động văn hóa khơng chỉ đóng khung ở việc góp tiền, mà được phát triển trên cơ sở “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng làm”, từ khâu quy hoạch đến
khâu triển khai tổ chức, thực hiện các cơng trình văn hóa và các phong trào văn hóa, trước hết từ
cơ sở. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa theo phương châm Hồ Chí Minh là: thực hành dân chủ,
quản lý dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân; trong công tác không gò ép, mệnh lệnh,
quan liêu; quét sạch nạn quan liêu, tham ô, hối lộ; đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, gắn liền với
thực hành tiết kiệm (chứ khơng nên tổ chức lễ hội tràn lan như hiện nay).
Ba là, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc
Với tư cách là chủ thể của hoạt động thực hành, con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có
nhân cách với những “tính cách riêng”, “sở trường riêng”, quyền lợi riêng, đời sống riêng. Người
cho rằng, người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thiện và ác khơng phải tự nhiên có, mà “phần
lớn do giáo dục mà ra”. Vì vậy, phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Thơng qua đó, đào tạo, giác ngộ con người có phẩm chất
cao đẹp, có trình độ phát triển tồn diện, để trở thành những con người xã hội chủ nghĩa trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

15


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “... chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ
đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người” [34]. Nhưng để có “con người xã hội chủ
nghĩa” trong q trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn
hiện nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải “trồng người” và phải biết phát huy nhân tố con

người.

KÉT LUẬN
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hình mẫu của con người nhân văn của thời đại
mới. Trong con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lịng u thương con người với lịng
tin, sự tơn trọng và y chí cùng hành động triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đặt hạnh phúc nhân dân
lên trên hết. Ở Hồ Chí Minh nhân dân khơng phải là một khái niệm chung chung.mơ hồ mà là
cộng đồng việt nam là từng con người,từng cuộc đời ,từ ng hoàn cảnh cụ thể.cho đến lúc đi xa,
người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân,sự phát triển và tiễn bộ của đảng,củ a dân tộc; người vẫn
dành mn ngàn tình thương u cho mọi người.lời dạy của bác mn vàng kính u cũng chính
là tâm niệm của mỗi thanh niên.đảng và nhà nước ta luôn dành sự quan tâm tin tưởng đặt biệt đối
với thế hệ trẻ,đó chính là niềm cỗ vũ lớn lao,là lao động mạnh mẽ đê tuổi trẻ tự tín,vững bước.
Những lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng, đối với Đảng ta, đối với mỗi cán bộ, đảng
viên, ngày nay vẫn cịn mang tính thời sự nóng hỗi; nhất là những phẩm chất trung với Đảng,
trung với nước, hiếu với dân, về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, về nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, về đảng viên đi trước, làng nước theo sau... là khơng
bao giờ. Nếu có cái gì gọi là cũ thì đó chính là nhận thứ e e ủa chúng ta về các lời dạy của Bác
không đến nơi, đến chốn, không thật đầy đủ và nhuần nhuyễn, nhất là chúng ta nói mà khơng đi
đơi với làm, hoặc nói nhiều làm ít, khiến cho đời sống văn hóa trong Đảng, nhất là đời sống về
đạo đức, có những biêu hiện suy thối nghiêm trọng. Trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng hiện nay đồi hỏi ph ải khắc phục bằng được tình trạng suy thối về tư tưởng, đạo đức và lối
sơng trong cán bộ, đả ng viên, đặc biệt là tình trạng tham những, lãng phí, quan liêu, một că n
bệnh nguy hiểm đang đục khoét cơ thể sống của Đảng ta. Trong cuộc chiến đấu sinh tử này, mỗi
cán bộ, đảng viên chúng ta càng phải đề cao trách nhiệm tu dưỡng và thực hành tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 458
[2] Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr. 11
[3] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 9, tr. 231

[4] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 12, tr. 470
[5] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 10, tr. 458 - 459
[6] Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979, tháng 12-2021, tr. 7
[7] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 3, tr. 458
[8] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 4, tr. 7

16


[9], [10] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 7, tr. 246
[11] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 4, tr. 7
[13] Hồ Chí Minh: Về cơng tác văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 71
[14] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 7, tr. 40
[15] Xem: Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 6, tr. 357
[16] Đại học Quốc gia Hà Nội: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr. 161 - 162
[17] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 13, tr. 465
[18] Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021 t. I, tr. 143 – 147
[19] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3, tr 221
[20] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10, tr 60.
[21] Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981, tr 516.
[22] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 1, tr XX
[23] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 6, tr 368
[24] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 5, tr 464.
[25] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 5, tr 131.
[26] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1993, Tập 3, tr 16.
[27] Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981, tr 515
[28] Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn phóng viên Mỹ, báo Nhân dân, ngày 18-5-1965.

[29] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 2000, T. 10, tr. 60.
[30] Hồ Chí Minh, Tồn tập, sđd, T. 10, tr. 59.
[31], [32] Hồ Chí Minh, Tồn tập, sđd, T. 4, tr. 8-9.
[33], [34] Hồ Chí Minh, Tồn tập, sđd, T. 3, tr. 431.
[35] Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, T. 8, tr. 494-495.

17


PHÂN CHIA CƠNG VIỆC GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHĨM
STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

NỘI DUNG PHÂN TÍCH

KHỐI
LƯỢNG

1

Nguyễn Võ Đăng Khoa

0800

Trình bày tiểu luận

100%


2

Nguyễn Thanh Qn

1475

Phần 2, mục 1

100%

3

Nguyễn Văn Lưu

8321

Nhóm trưởng, trình bày, in

100%

ấn
4

Phan Huyền Bảo Trân

9901

Phần 1, mục 3


100%

5

Trần Thu Quyền

4897

Phần 1, mục 2

100%

6

Phan Thị Mỹ Duyên

1609

Phần 2, mục 2

100%

7

Trương Thị Vy

0488

Lời mở đầu, kết luận


100%

18



×