Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
Chuyện người con gái Nam Xương
(Trích “Truyền kì mạn lục” – Nguyễn Dữ)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả Nguyễn Dữ
a) Cuộc đời
- Quê quán: xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh
Hải Dương.
- Ông sống ở thế kỉ XVI, là thời kì chế độ phong kiến khủng hoảng, nội chiến kéo dài (triều đình
nhà Lê bắt đầu khủng hoảng, các tập đồn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền bính,
gây ra các cuộc nội chiến liên miên).
- Ông là người học rộng, tài cao, là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông làm
quan 1 năm rồi xin nghỉ, sống ẩn dật.
b) Sự nghiệp văn chương
- Tác phẩm duy nhất cịn lại đến ngày nay: “Truyền kì mạn lục”.
- Tác giả văn xi kì tài, bút lực già dặn, có sự thơng minh, tài hoa và tầm tư tưởng lớn.
2. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục”
- Nhan đề: (truyền kì: chuyện kì lạ được lưu truyền, mạn: tản mạn, lục: sao lục, ghi chép) ghi
chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền.
- Thể loại: truyện truyền kì
+ Sự việc, cốt truyện dựa theo truyện dân gian, truyền thuyết lịch sử, dã sử.
+ Có sự tham gia của yếu tố hoang đường, kì ảo.
- Nội dung: tác phẩm gồm 20 truyện. Trong đó:
+ Hệ thống nhân vật: 2 kiểu nhân vật
Người phụ nữ đức hạnh nhưng có cảnh ngộ éo le, phải chịu nhiều tủi cực, đắng cay
Người trí thức bất mãn với thời cuộc, khơng chịu trói mình trong vịng danh lợi
+ Mỗi truyện đều mang ý nghĩa phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời và gửi
gắm tầm tư tưởng của tác giả.
2
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
- Hình thức: viết bằng chữ Hán, nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, sử dụng yếu tố kì ảo khéo
léo, hấp dẫn
- Vị trí:
+ Là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ.
+ Bước phát triển của văn xuôi tự sự, mở đầu cho trào lưu sáng tác mới chuyển từ cảm hứng
yêu nước sang cảm hứng nhân đạo.
Từ ngữ thay thế tên tác giả, tác phẩm
Tác giả Nguyễn Dữ
Tác phẩm “Truyền kì mạn lục”
Nhà văn họ Nguyễn
Thiên cổ kì bút
Vị nho sĩ ẩn dật
Áng văn hay của bậc đại gia
Ngòi bút tái tạo kì tài (đối với những tác
Tác phẩm có “văn từ thanh lệ”
phẩm truyện dân gian)
Người mở đường cho chủ nghĩa nhân đạo /
cho loại truyện thế sự trong lịch sử văn học
3. Văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”
- Vị trí: truyện thứ 16/20 truyện của tập “Truyền kì mạn lục”.
- Xuất xứ: truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.
- Phương thức biểu đạt: Tự sự (chính) kết hợp với biểu cảm, miêu tả.
- Nội dung tóm tắt:
+ “Chuyện người con gái Nam Xương” kể về Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương,
tính tình thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp.
+ Chồng nàng là Trương Sinh, tuy con nhà hào phú nhưng thất học và hay có tính đa nghi.
Vũ Nương biết vậy nên ln giữ gìn khn phép để giữ n ấm cho gia đình.
+ Gia đình hạnh phúc chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương ở nhà khơng
bao lâu thì sinh ra một bé trai đặt tên là Đản. Nàng ở nhà vừa phụng dưỡng mẹ chồng và
nuôi con nhỏ. Khi mẹ chồng mất, Vũ Nương lo ma chay chu đáo như với cha mẹ đẻ. Hằng
đêm, để dỗ dành con, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha của Đản.
3
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
+ Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói. Trong lúc Trương Sinh đi thăm mộ mẹ, muốn dỗ
dành con nhưng đứa bé khơng chịu, cịn ngây thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm
vẫn đến nhà. Trương Sinh sẵn có tính hay ghen nên đã một mực cho rằng vợ thất tiết, đã
mắng nhiếc và đuổi vợ đi. Vũ Nương cố giải thích nhưng khơng được nên đã tắm gội chay
sạch và ra bến Hoàng Giang tự vẫn.
+ Biết vợ tự vẫn, mặc dù vẫn còn giận nhưng Trương Sinh đã cố tìm vớt xác nàng Vũ Nương
mà khơng được. Trong một đêm, bé Đản chỉ lên bóng và nói với Trương Sinh đó là người
đêm đêm thường đến. Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã quá muộn màng.
+ Trong khi đó, Vũ Nương được Linh Phi cứu đưa về động rùa. Ở đây, nàng gặp Phan Lang
- người cùng làng. Khi Phan Lang được trở về nhân gian, nàng đã gửi chiếc hoa vàng cùng
lời nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.
+ Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Vương nhưng Vũ Nương chỉ hiện lên giữa dịng, nói
lời từ biệt rồi biến đi mất.
- Bố cục:
+ Từ đầu “lo liệu như với cha mẹ mình”: cuộc hơn nhân của Trương Sinh và Vũ Nương,
chiến tranh phong kiến và phẩm hạnh của người phụ nữ.
+ “Qua năm sau… … nhưng việc trót đã qua rồi”: nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ
Nương.
+ Còn lại: cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động của Linh Phi. Vũ Nương
được giải oan.
4. Gợi ý viết mở bài, kết bài
MB 1 (trực tiếp): Nguyễn Dữ là cây bút văn xi kì tài của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông
chỉ để lại duy nhất một tác phẩm đó là “Truyền kì mạn lục”. Nổi bật trong tổng số hai mươi truyện
trong tập “Truyền kì mạn lục” khơng thể không nhắc tới “Chuyện người con gái Nam Xương”. Từ
cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, tác giả Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm những chi tiết để rồi
thành công khắc họa vẻ đẹp, số phận nhân vật và bày tỏ quan điểm, tấm lịng nhân đạo của mình.
Nêu vấn đề nghị luận.
MB 2 (gián tiếp): Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người đọc bắt gặp những câu thơ tác giả
viết về nỗi khổ đau của người phụ nữ tài hoa, bạc mệnh:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
4
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
Với con mắt nhìn thấu sáu cõi, đại thi hào đã có những lời nhận định xác đáng về vẻ đẹp và số
phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Phận đàn bà hồng nhan thì cái điều bạc mệnh có
chừa ai đâu. Bởi vậy, thân phận người phụ nữ đã trở thành nguồn đề tài lớn trong văn học trung
đại, mà tiêu biểu trong số các tác phẩm viết về đề tài này chính là “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ. Nêu vấn đề nghị luận.
KB 1 (trực tiếp): Khép lại những trang viết thăng trầm của “Chuyện người con gái Nam Xương”,
ta không khỏi thán phục trước tài năng và tấm lòng của Nguyễn Dữ. Qua số phận và vẻ đẹp của
Vũ Nương, tác giả đã phản ánh kiếp sống bi thương của những người phụ nữ trong xã hội cũ.
Đồng thời, tác phẩm còn là tiếng kêu đanh thép lên án chế độ phong kiến với thói trọng nam khinh
nữ, chồng chúa vợ tơi đầy bất cơng. Truyện cịn tố cáo chiến tranh loạn lạc, phi nghĩa gây ra bao
đau thương, tan vỡ cho những mái ấm gia đình. Thời gian vẫn cứ trơi đi nhưng những trang viết
của Nguyễn Dữ vẫn còn đấy, khẳng định được chỗ đứng của mình trong khu vườn văn học khiến
ta nhớ mãi về tác phẩm để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót, để yêu thương.
KB 2 (mở rộng): Câu chuyện về cuộc đời của Vũ Nương càng làm cho ta thương cảm với những
nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội cũ. “Chuyện người con gái Nam Xương” cịn là tiếng nói tố
cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đơi, gia đình. Với những ý
nghĩa ấy, tác giả Nguyễn Dữ đã “để lại cho văn học dân tộc một thiên tình sử bi thảm làm nhức
nhói trái tim người đọc bao đời nay, cho lịch sử văn học Việt Nam một áng “thiên cổ kì bút”, cho
riêng thể loại truyện ngắn Việt Nam một truyện ngắn vừa là đột khởi, vừa là đỉnh cao vợi vợi trong
mn đời” (Nguyễn Đình Chú).
5
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
II. Phân tích chi tiết
1. Nhân vật Vũ Nương
Vẻ đẹp nhan sắc
Đoan trang, thùy mị, đảm đang,
tháo vát
Vẻ đẹp phẩm chất
Hiếu thảo với mẹ chồng, thủy
chung với chồng, yêu thương
con, sống trọng tình nghĩa
Vẻ đẹp
hồn hảo
Giàu lịng tự trọng
Nhân vật Vũ
Nương
Sự bất hạnh khi hạnh phúc quá
đỗi mong manh
Số phận bất
hạnh, bi kịch
Nỗi oan thất tiết
Bi kịch được quay trở về nhưng chỉ
trong giây lát rồi vĩnh viến biến mất
a) Vẻ đẹp hoàn hảo
Vẻ đẹp nhan sắc
- Lời giới thiệu của tác giả: “lại thêm tư dung tốt đẹp” Vũ Nương có dáng vẻ và nhan sắc xinh
đẹp.
- Vũ Nương được Trương Sinh yêu mến vì dung hạnh Vẻ đẹp của Vũ Nương khiến mọi người
yêu mến.
Vẻ đẹp phẩm chất
Đoan trang, thùy mị, đảm đang, tháo vát
- Lời giới thiệu về Vũ Nương: “tính đã thùy mị nết na” Sự đoan trang, nết na, thùy mị đã trở
thành bản tính đáng trân trọng của Vũ Nương. Tác giả cũng tập trung vào tính cách này để giới
thiệu trực tiếp ngay từ đầu câu chuyện, phần nào bày tỏ sự yêu mến, tran trọng nàng Vũ Nương.
- Cách ứng xử:
+ Biết chồng có tính đa nghi, Vũ Nương ln “giữ gìn khn phép”, “khơng từng để lúc
nào vợ chồng phải đến thất hòa” Sự khéo léo.
+ Khi chồng đi lính, Vũ Nương ở nhà sinh lo toan chu đáo cơng việc gia đình, chăm sóc
mẹ già và nuôi con nhỏ Sự đảm đang, tháo vát.
6
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
+ Khi bị nghi oan, trước tiên nàng hết sức phân trần, bình tĩnh trước sự nóng giân của
Trương Sinh, tỉnh táo hỏi nguyên do dẫn đến hiểu lầm. Đến khi bất lực khơng thể tự minh
oan cho mình, nàng quyết định tắm gội chay sạch để tìm đến cái chết.
Mọi hành động của Vũ Nương trong mọi hoàn cảnh đều có sự suy xét bình tĩnh, cẩn thận, giàu
lí trí.
- Cách nói năng:
+ Khi nói với chồng: lời nói của Vũ Nương lúc tiễn chồng đi lính rất rực thiết tha, xúc
động, lúc phân trần với chồng thì rất mực thước, giữ đạo làm vợ.
+ Lời nói với trời đất, thần linh trước lúc quyên sinh rất thống thiết, trang trọng.
+ Khi gặp Phan Lang dưới thủy cung, lời nói của Vũ Nương khi mộc mạc khi trang trọng,
chân thành.
Lời nói của Vũ Nương ln cho thấy sự chân thành, hòa nhã, mực thước, khéo léo.
Nhận xét: Ở Vũ Nương hội tụ những phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống của người
phụ nữ. Nàng là hiện thân của người phụ nữ công, dung, ngôn, hạnh trong xã hội xưa.
Hiếu thảo với mẹ chồng, thủy chung với chồng, yêu thương con, sống trọng tình
nghĩa
- Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng:
+ Khi mẹ chồng đau ốm, sự chu đáo của Vũ Nương được tác giả khẳng định trong lời trần
thuật: “nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khơn khéo khun
lơn”. Vũ Nương đã chăm sóc mẹ chồng bằng cả cái tâm, cái đức của mình, rất tận tụy và
chân thành.
+ Lời trăng trối của bà mẹ trước khi mất:
“Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về,
mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lịng tham
vơ cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chng rền, số cùng khí kiệt. Một tấm
thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con
nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được”. Bà mẹ hiểu
Vũ Nương đã hết mực yêu kính, chăm sóc mình nên khi mình mất sẽ để lại nỗi đau
tinh thần khó khỏa lấp trong lịng Vũ Nương. Vậy nên qua câu nói này, bà mẹ
muốn khuyên Vũ Nương hãy chấp nhận nỗi đau, không phải nàng không làm tốt
7
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
bổn phận người con mà do số trời đã định không thể nào khác được. Câu nói
thể hiện tình u thương của mẹ chồng dành cho con dâu.
“Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông
đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng giống như con đã chẳng phụ mẹ”. Bà
mẹ ghi nhận cơng lao của Vũ Nương đối với gia đình, bày tỏ niềm tin tưởng Vũ
Nương sẽ được hưởng hạnh phúc sum vầy, xứng đáng Lời chúc phúc, cảm tạ
của mẹ chồng dành cho con dâu.
+ Khi mẹ chồng mất “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối
với cha mẹ đẻ mình” Vũ Nương đã giữ trọn đạo làm con, tận hiếu với mẹ chồng.
Vũ Nương hiếu thảo với mẹ chồng bằng cái tâm và cái đức của mình, khiến cho mối quan hệ
mẹ chồng nàng dâu vốn tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn nay lại thuận hịa và giàu tình cảm. Lời trăng
trối của người mẹ là lời nhận xét khách quan, trung thực nhất và cũng cảm động nhất về phẩm
chất của Vũ Nương. Qua đó tác giả muốn gián tiếp ca ngợi sự hiếu thảo, đảm đang, tháo vát,
chăm lo chu tồn cơng việc gia đình của Vũ Nương.
- Vũ Nương là một người vợ luôn yêu thương và thủy chung với chồng:
+ Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: Nàng hiểu chồng có tính hay ghen nên ln
“giữ gìn khn phép”, khéo léo ứng xử để giữ cho cuộc sống gia đình ln n ấm.
+ Khi tiễn chồng đi lính:
Vũ Nương “rót chén rượu đầy” tiễn chồng đầy trân trọng.
Lời nói của nàng khi tiễn chồng:
o “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc
áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về đem theo được hai chữ bình yên thế
là đủ rồi” không màng đến vinh hoa phú quý, tước cao bổng lộc, chỉ
mong bình an đến với chồng, bởi “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, nàng
hiểu được giá trị của hạnh phúc gia đình và đó cũng chính là ước mong lớn
nhất của nàng.
o “Chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn lường, giặc cuồng cịn lẩn lút, quân
triều còn gian lao, thế chẻ tre chưa có mà mùa dưa lại chín q kì, khiến
cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng” thấu hiểu, lo âu, đốn trước
những khó khăn mà Trương Sinh sẽ gặp phải nơi chiến trường (thế giặc
mạnh, quan quân chưa có lợi thế, khơng được về với gia đình) bày tỏ
lòng yêu thương, lời động viên gửi đến chồng.
8
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
o “Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ
bãi hoang lại thổn thức thương người đất thú, dẫu có thư tín nghìn hàng
cũng sợ khơng có cách hồng bay bổng” thổn thức, bày tỏ nỗi nhớ thương
da diết, đó cũng là một cách an ủi Trương Sinh trước lúc lên đường.
Giọng điệu của Vũ Nương khi tiễn đưa chồng rất chân thành, khéo léo, thể hiện sự
hiểu biết, chừng mực, tháo vát. Mọi suy nghĩ của Vũ Nương đều hướng về Trương
Sinh và vì Trương Sinh, qn đi những khó khăn vất vả mà mình sắp phải đối diện
bởi rõ ràng khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương phải ở nhà lo toan bao việc vất vả. Vũ
Nương đã dành cả tâm và ý để hướng về Trương Sinh. tấm lịng vị tha, ln nghĩ
cho người khác.
+ Khi xa chồng:
Nỗi nhớ chồng đằng đẵng trải dài theo năm tháng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã
nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể
chân trời lại khơng thể nào ngăn được” những hình ảnh ước lệ “bướm lượn
đầy vườn”, “mây che kín núi” thể hiện sự quấn quýt, sum vầy, gắn bó, ấm áp của
thế giới tự nhiên, điều đó như đánh thức nỗi cơ đơn trong lịng người thiếu phụ,
khiến cho nỗi buồn lại dâng lên tầng tầng lớp lớp khơn ngi.
(liên hệ với tình cảnh của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm khúc”)
Luôn hướng về chồng và ước mong gia đình được sum vầy. Cái bóng của Vũ
Nương khơng chỉ là trị chơi với con trẻ mà đó phải chăng còn là biểu tượng cho
sự đồng nhất như hình với bóng của hai vợ chồng dù trong hồn cảnh xa cách.
Tâm trạng khắc khoải, nỗi cô đơn, nỗi nhớ thương da diết của Vũ Nương khi xa
chồng chủ yếu được khắc họa thông qua lời của người kể chuyện, cho thấy sự cảm
thông, thấu hiểu của tác giả trước tình cảnh của người chinh phụ phải xa chồng, trân
trọng tấm lòng thủy chung, vị tha của họ.
+ Khi bị chồng nghi oan: Vũ Nương tìm mọi cách để chứng minh tấm lòng chung thủy với
chồng:
Trước sự tức giận, vũ phu của Trương Sinh, Vũ Nương khóc mà rằng: “Thiếp vốn
con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phơi
vì động việc lửa binh” Nàng ý thức rất rõ về thân phận của mình và tình cảnh
buộc phải xa cách để gợi nhắc tình nghĩa vợ chồng, chân thành mong chồng bình
tĩnh thấu hiểu.
9
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
Nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt trong những năm tháng chồng
vắng nhà: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tơ son điểm phấn từng đã ngi
lịng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng
nói.”
“Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho
thiếp” nàng cầu xin chồng cởi bỏ mối nghi ngờ. Lời nói khẩn khoản, nhún
nhường, mực thước, tha thiết nhưng một lòng kiên định thanh minh.
Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, chứng tỏ lòng thủy chung của
nàng đều được mọi người chứng kiến và hiểu rõ.
Hành động quyên sinh của Vũ Nương sau bao nỗ lực thanh minh khơng thành và
sau đó nàng được các nàng tiên cứu giúp chính là minh chứng đanh thép cho tấm
lòng thủy chung đã được trời đất thần linh chứng giám.
Ở bổn phận làm vợ, Vũ Nương đã trọn nghĩa, vẹn tình, một lịng một dạ thủy chung với chồng.
- Vũ Nương là một người mẹ rất mực yêu thương con:
+ Thiếu bàn tay của người chồng làm trụ cột gia đình, Vũ Nương vẫn một mình sinh con
và ni dạy con chu đáo.
+ Nàng cũng rất tâm lí, tinh tế khi lo lắng con sẽ cảm thấy thiếu vắng tình cha nên đã nghĩ
ra trị chơi chiếc bóng để con cảm thấy được yêu thương đủ đầy.
- Vũ Nương là người sống trọng tình nghĩa:
+ Bởi trọng tình nghĩa nên nàng ln biết ơn ân đức của các nàng tiên đã cứu giúp mình,
cảm thấy may mắn khi được bảo tồn mạng sống thay vì cứ oán thán, sầu hận sau bao
bất hạnh trái ngang: “Các nàng tiên trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường
nước cho tơi thốt chết, nếu khơng thì đã vùi vào bụng cá, cịn đâu mà gặp ơng”. Nàng
xác nhận bi kịch cá nhân bằng một lời kể ngắn gọn, khách quan, không trực tiếp nhắc đến
Trương Sinh, khơng chứa đựng nỗi hờn ốn trong lịng. Giọng kể của nàng bình tĩnh, nhẹ
nhàng, khơng chút phẫn nộ, ốn thán. Điều đó cho thấy sự bao dung độ lượng của nàng,
trong thâm tâm nàng đã tha thứ cho Trương Sinh. Suy nghĩ ấy, tình cảm ấy quả thực
khơng dễ có được ở một người phụ nữ đã trải qua bao tủi cực đắng cay như Vũ Nương.
Vũ Nương khơng đặt mình vào vị trí một nạn nhân bất hạnh mà bản thân nàng cho
rằng cịn có cơ hội được sống đã là rất may mắn rồi.
10
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
+ Bởi trân trọng tình nghĩa vợ chồng nên khi biết chàng Trương đã ân hận và luôn nhớ
mong vợ, Vũ Nương đã phần nào tha thứ cho Trương Sinh qua lời tạ từ trước khi nàng
vĩnh viễn rời xa.
+ Khi nghe Phan Lang kể về chuyện gia đình, quê hương, Vũ Nương “ứa nước mắt khóc”,
nàng cũng khơng khỏi nhớ về q hương, gia đình: “Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió Bắc, chim
Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tơi tất phải tìm về có ngày.”
+ Mặc dù khao khát của nàng là được quay trở về với cuộc sống gia đình êm ấm nhưng
khơng vì thế mà nàng vơ ơn bội nghĩa với ơn đức của Linh Phi, nàng vẫn quyết định báo
đáp, “cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng khơng bỏ”.
Giàu lịng tự trọng
- Khi bị nghi oan:
+ Nàng hết lời phân trần, khơng vì chồng độc đốn, vũ phu mà chấp nhận chịu oan ức,
phẩm hạnh bị vấy bẩn.
+ Lòng tự trọng thơi thúc nàng kiên trì tìm ra ngun do khiến chồng nổi cơn ghen tng
vơ lí nhưng cũng bất lực khi Trương Sinh khơng chịu nói ra.
+ Thấy Trương Sinh đã q hồ đồ, độc đốn khơng chịu nghe lời thanh minh, Vũ Nương
bất đắc dĩ nói:
“Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất” khẳng
định mong muốn được gắn bó cùng Trương Sinh, mong ước có một gia đình hạnh
phúc, ấm êm.
“Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió,
khóc tuyết bơng hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu
cịn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa” ý thức về sự tan vỡ, Vũ Nương đã khơng
vì mong muốn được có một gia đình ấy mà hạ mình sống trong sự dèm pha và
tình cảnh tủi nhục. Lòng tự trọng của Vũ Nương bộc lộ rất rõ trong ý thức về mối
quan hệ của nàng với Trương Sinh trong hiện tại đã tan vỡ, mất đi sự tin tưởng.
+ Lời nói với trời: trong cảnh ngộ của Vũ Nương, ông trời là chứng nhân duy nhất cho sự
trong sạch mà nàng ln gìn giữ. Nói với trời là cách để Vũ Nương chứng minh phẩm giá
bản thân. Nội dung lời nói của Vũ Nương có ý nghĩa như một lời thề đầy khẳng khái:
“Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lịng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương,
xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin
làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ”.
11
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
+ Hành động quyên sinh:
Là biểu hiện quyết liệt nhất của ý thức tự trọng. Với Vũ Nương, sự tồn tại của lòng
tự trọng còn quan trọng hơn sự tồn tại của sinh mạng nên nàng mới lấy cái chết
để minh oan cho mình.
Tuy rằng sự lựa chọn này của nàng có mang màu sắc bi thảm và tiêu cực song đó
là giải pháp duy nhất mà nàng có thể lựa chọn trong bối cảnh ấy - sự lựa chọn
mang màu sắc văn hóa của một thời quá khứ.
- Khi ở thủy cung:
+ Cuộc gặp gỡ giữa Vũ Nương và Phan Lang ở dưới thủy cung xuất phát từ cơ sở là lời
cầu xin của Vũ Nương “nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lịng, vào nước xin làm
ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ” sự vô tội và lòng trinh bạch của Vũ
Nương đã làm cảm động thần linh nên đã được chư tiên “rẽ một đường nước” cho nàng
khỏi chết đúng như lời nàng khấn nguyện trước khi gieo mình xuống sơng Hồng Giang.
+ Lời nói của Vũ Nương với Phan Lang: “Tơi ngày trước khơng may bị người vu oan, phải
gieo mình xuống sơng tự tử” Khi ấy Vũ Nương chưa biết Trương Sinh đã hiểu chuyện
chiếc bóng và đã khơng cịn nghi oan cho nàng, nhưng nàng vẫn ln tin rằng mình bị
oan, tin vào phẩm giá của mình. Đó là sự ý thức rất cao về danh dự của bản thân người
phụ nữ.
+ Khi Phan Lang khuyên nàng nghĩ đến quê hương, gia đình, chồng con, Vũ Nương từ
chối vì “bị chồng ruồng rẫy”, thà ở nơi làng mây cung nước chứ khơng muốn gặp lại người
chồng đã có ý ngờ nàng thất tiết. Ý thức về phẩm hạnh của mình.
+ Khi Phan Lang một lần nữa khuyên nhủ Vũ Nương và nhắc đến tình nghĩa vợ chồng
giữa Vũ Nương và Trương Sinh, nàng đã ứa nước mắt khóc rồi quả quyết: Có lẽ khơng
thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Nàng bày tỏ khát vọng
muốn được sự chứng nhận trong sạch từ chính người đã gây ra nỗi oan cho mình.
Ở Vũ Nương, ý thức bảo vệ phẩm tiết đã trở thành ý thức về giá trị của bản thân.
Tiểu kết:
- Vũ Nương mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là vẻ đẹp tâm hồn.
Nàng vừa là người vợ thủy chung, vừa là người dâu thảo, người mẹ hiền. Nàng là người phụ nữ
hoàn hảo, lí tưởng của mọi gia đình, là khn vàng, thước ngọc của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
12
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả rất sâu sắc và toàn diện khi khắc họa vẻ đẹp của nhân
vật qua lời thoại, qua hoàn cảnh thử thách và cả sự đề cao trực tiếp. Ngôn ngữ nhân vật thì có
hình ảnh ước lệ phong phú, câu văn giàu nhịp điệu, ngôn ngữ tự nhiên, đời thường gần gũi.
- Chân dung một người phụ nữ hoàn hảo như Vũ Nương được tái hiện thành công trên trang văn
Nguyễn Dữ kết hợp với việc sáng tạo những chi tiết kì ảo đã cho thấy tinh thần nhân đạo của tác
giả. Sự thấu hiểu, cảm thơng cho tình cảnh nhiều vất vả, thử thách mà người phụ nữ phải đối diện,
sự phát hiện, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của họ từ đó bày tỏ ước mơ về một xã hội
công bằng, nhân văn hơn…., tất cả đã đưa trang văn về nàng Vũ Nương bước vào địa hạt của cảm
hứng nhân đạo trong văn chương trung đại Việt Nam.
Viết mẫu phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương:
Trước tiên, nhân vật Vũ Nương được khắc họa là một người phụ nữ xinh đẹp, có ngoại
hình đáng mến. Ấn tượng của bạn đọc ngay từ những dòng đầu tiên của truyện đó là những miêu
tả ngắn gọn nhưng cũng rất cụ thể về Vũ Nương: “Vũ Thị thiết, người con gái quê ở Nam Xương,
tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Dung mạo của Vũ Nương hẳn là xinh đẹp, dịu
dàng. Và cũng chính dung mạo ấy góp phần khiến cho con nhà hào phú như Trương Sinh đem lòng
yêu mến và cưới nàng về làm vợ. Nhà văn Nguyễn Dữ đã khéo léo gợi mở vẻ đẹp của Vũ Nương
qua thái độ của Trương Sinh, từ đó góp phần làm hồn thiện hơn vẻ đẹp của người con gái này.
Ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng bạn đọc về nhân vật Vũ Nương chính là những phẩm
chất tốt đẹp của nàng. Có người cho rằng Vũ Nương là “khuôn vàng thước ngọc” của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến quả không sai, bởi nàng rất đoan trang, thùy mị. Không chỉ được giới
thiệu là người con gái “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, được tác giả tập trung
nhấn mạnh về phẩm hạnh vẹn toàn, Vũ Nương cịn rất khéo léo, khiêm nhường trong cách ứng
xử, nói năng. Sự khéo léo, đoan trang, dịu dàng của Vũ Nương đã trở thành ngọn lửa giữ cho hạnh
phúc gia đình ln ấm nồng, gắn bó. Những lời nói của nàng trong mỗi hoàn cảnh khác nhau đều
được tác giả Nguyễn Dữ dụng cơng xây dựng với nhiều điển tích, điển cố, nhịp điệu và giọng điệu
hết sức ý nhị, thể hiện sự hiểu biết và phẩm chất đoan trang, thùy mị của người phụ nữ.
Vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương được bộc lộ rõ trong các mối quan hệ. Trước tiên chính
là sự hiếu thảo với mẹ chồng. Trong ba năm chồng đi chinh chiến, Vũ Nương đã thay Trương Sinh
làm tròn bổn phận của người con đối với gia đình. Khi mẹ chồng ống, nàng đã “hết sức thuốc
thang, lễ bái thần phật, dùng lời ngọt ngào, khơn khéo khun lơn”. Nàng tìm đủ mọi cách để mẹ
vơi bớt đi nỗi nhớ thương con và mau chóng hồi phục sức khỏe. Đến khi bà mất, nàng hết lời
thương xót, phần việc ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình. Nàng lễ phép, giữ lễ đến mức
trong lời trăng trối của bà lúc mất còn vẹn cả trời xanh để minh chứng cho tấm lòng của con dâu
13
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
“xanh kia quyết chẳng phụ lòng con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Tất cả những điều đó đã cho
thấy Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo hết lòng vun vén cho gia đình nhà chồng.
Biết Trương Sinh có tính hay ghen nên Vũ Nương “ln giữ gìn khn phép khơng từng lúc
nào vợ chồng phải đến thất hịa”. Nàng đúng là một người vợ khéo léo, nết na, đúng mực. Nàng
ln giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết
na đúng mực! Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương
Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xơi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy,
dặn dị chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám
mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình
yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi
trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi cơng danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước
những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn
lường. Giặc cuồng cịn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín
q kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”. Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng
bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người
ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn
hàng, cũng sợ khơng có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực
thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ
để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao! Và có lẽ vẻ đẹp tâm hồn nàng đẩy lên đến
cao độ qua hình ảnh chiếc bóng trên vách. Một chi tiết tưởng đơn giản ấy nhưng bao hàm biết bao
ý nghĩa về lòng yêu thương, thủy chung son sắt của nàng đối với chồng. Dù chiến tranh ngăn cách
nhưng trong tâm hồn nàng, hình bóng Trương Sinh vẫn khăng khít, gắn bó với nàng như hình với
bóng khơng rời nhau. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trơng đến thổn thức “Giữ trọn tấm
lịng thủy chung, son sắt”, “tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén
gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì
nỗi buồn góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng,
vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cơ đơn vò võ. Tâm trạng nhớ
thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong
mọi thời loạn lạc xưa nay:
“… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(Chinh phụ ngâm)
14
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của nàng, vừa ngợi ca tấm lòng
thủy chung, mong nhớ, chờ đợi chồng của nàng. Vũ Nương đã ra sức cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc
gia đình có nguy cơ tan vỡ. Nàng đã viện cả thân phận của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn
con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Qua lời nói nhún nhường ấy đã cho thấy thái độ trân trọng
chồng và niềm tha thiết giữ gìn hạnh phúc gia đình nhất mực của nàng. Rồi khi sống ở dưới thủy
cung nàng vẫn không nguôi nhớ về chồng. Khi nghe Phan Lang nhắc về tình cảnh gia đình nàng
đã ớn nước mắt. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy khơng có chút thù hận nào chỉ tồn là
lịng bao dung và sự vị tha. Nói tóm lại dù trong bất cứ hồn cảnh nào Vũ Nương ln trọn vẹn là
một người vợ yêu thương chồng tha thiết.
Bên cạnh đó, Vũ Nương còn là một người mẹ hết lòng yêu thương con. Nàng đã một mình
sinh con, ni và dạy con khi chồng vắng nhà. Chi tiết chỉ cái bóng trên tường cũng chỉ xuất phát
từ tấm lòng của người mẹ để con lớn lên vơi bớt đi sự thiếu vắng tình cảm của người cha. Như
vậy Vũ Nương khơng chỉ hồn thành bổn phận của một người phụ nữ mà còn hồn thành vai trị
của một người trụ cột gia đình.
Ở Vũ Nương, điều mà khơng ít bạn đọc cảm phục chính là ý thức giữ gìn phẩm hạnh, danh
dự của nàng. Là một người vợ, người mẹ trong gia đình, Vũ Nương luôn ý thức rất rõ về bổn phận
cũng như những phẩm chất mình phải giữ gìn. Nàng là người có lịng tự trọng. Bởi vậy, khi bị
chồng nghi oan rằng mình thất tiết, nàng chẳng thể nào dễ dàng chấp nhận. Vũ Nương đã tìm đủ
mọi cách để thanh minh với chồng, bằng cả lời nói và hành động. Trong lời thanh minh đầu tiên,
nàng đã nói đến thân phận của mình với sự tha thiết, chân thành: “Thiếp vốn con kẻ khó, được
nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phơi vì động việc lửa binh”. Vũ Nương
không chỉ khẳng định phẩm tiết của bản thân mà còn cầu xin chồng cởi bỏ mối nghi ngờ: “Cách
biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liễu tường hoa chưa hề
bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong
chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Bao nhiêu buồn khổ nàng khơng nói, bấy nhiêu gian
nan trong tình cảnh vắng bóng chồng nàng không tỏ bày, chỉ nhất nhất khẳng định phẩm hạnh
của mình, nhất nhất khẳng định tấm lịng trinh bạch khơng từng làm điều mất nết hư thân như
lời Trương Sinh nói. Nàng cũng đã sáng suốt khi hỏi chồng “chuyện kia từ ai nói ra” bởi hiểu rõ
muốn cởi dây thì phải tìm người buộc dây và cũng bởi nàng muốn điều tra để tháo gỡ mối nghi
ngờ cho chồng và chứng minh phẩm giá cho mình. Nhưng Trương Sinh vẫn một mực khơng tin,
lại cịn giấu nhẹm chuyện do con nói ra mà “lấy bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng”. Ngay cả
khi mọi cố gắng của nàng đều thất bại trước sự cố chấp của chồng, Vũ Nương vẫn khẳng định
mong muốn được gắn bó cùng Trương Sinh để được hưởng “thú vui nghi gia nghi thất” “yên ổn
được tựa bóng cây cao”. Tuy nhiên Vũ Nương đã khơng vì mong muốn chính đáng ấy mà hạ mình
15
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
sống trong sự dèm pha và tình cảnh tủi nhục. Lịng tự trọng của Vũ Nương bộc lộ rất rõ trong ý
thức về mối quan hệ của nàng với Trương Sinh trong hiện tại “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa
tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”. Những hình ảnh của sự chia phơi, tan vỡ trong lời nói của
Vũ Nương đã cho ta thấy nỗi đau đớn của nàng. Ý thức được hạnh phúc gia đình tan vỡ khó lịng
hàn gắn được bởi tính bảo thủ và sự nghi ngờ của chồng, Vũ Nương chỉ mong có thể chứng minh
sự trong sạch của bản thân. Nói với người, người khơng muốn, Vũ Nương chỉ có thể than với trời
mong trời thấu tỏ. Trong cảnh ngộ của Vũ Nương, ông trời là chứng nhân duy nhất cho sự trong
sạch mà nàng ln gìn giữ: “Kẻ bạc mệnh này dun phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu
bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sơng có linh, xin ngài chứng giám”. Nói với trời là cách để Vũ
Nương chứng minh phẩm giá bản thân. Nội dung lời nói của Vũ Nương có ý nghĩa như một lời thề
đầy khảng khái: nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lịng thì xin làm ngọc Mị Nương, cỏ Ngu
Mĩ, nếu lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con xin làm mồi cho cá tôm diều quạ, chịu lời phỉ nhổ của
người đời... Để rồi, quá đau đớn và bất lực, Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh cho sự trong
sạch của mình. Hành động quyên sinh ấy là biểu hiện quyết liệt nhất của ý thức tự trọng. Với Vũ
Nương, sự tồn tại của lòng tự trọng còn quan trọng hơn sự tồn tại của sinh mạng nên nàng mới
lấy cái chết để minh oan cho mình. Tuy rằng sự lựa chọn này của nàng có mang màu sắc bi thảm
và tiêu cực song đó là giải pháp duy nhất mà nàng có thể lựa chọn trong bối cảnh ấy - sự lựa chọn
mang màu sắc văn hóa của một thời quá khứ. Tác giả Nguyễn Dữ thấu hiểu nỗ lực ấy của Vũ
Nương để rồi dường như đã nhập vai Vũ Nương mà viết nên những lời thoại khiến bạn đọc xúc
động nghẹn ngào. Phẩm hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa có lẽ quan trọng hơn tất thảy,
bởi vậy mọi lời nói và hành động của Vũ Nương đều là minh chứng cho lòng tự trọng, cho ý thức
giữ gìn phẩm hạnh cao quý của nàng. Và cũng chính lịng tự trọng và phẩm hạnh tốt đẹp đã làm
nên một con người giàu tình nghĩa, ln hiểu chuyện và sống nhân hậu. Khi Phan Lang thuyết
phục Vũ Nương trở về quê hương, nàng từ chối vì “bị chồng ruồng rẫy”, thà ở nơi làng mây cung
nước chứ khơng muốn gặp lại người chồng đã có ý ngờ nàng thất tiết, không chấp nhận sống
trong điều tiếng nhuốc nhơ. Vũ Nương khi được các nàng tiên cứu giúp, được sống đủ đầy trong
cung nước, luôn trân trọng và biết ơn ân đức ấy, nhưng nàng cũng còn nặng tình nặng nghĩa với
q hương, lịng tự trọng đã thôi thúc nàng khao khát được trở về để phục hồi danh dự. Cuối cùng,
Vũ Nương đã chọn cách trở về khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng nhưng nàng khơng chọn
trở về mãi mãi bởi cịn mong muốn trả ơn cho Linh Phi và cũng bởi tiết hạnh của nàng thật khó
để trở lại khi phẩm hạnh đã từng bị chồng coi thường, chối bỏ. Quả thật, ở Vũ Nương, ý thức bảo
vệ phẩm tiết đã trở thành ý thức về giá trị của bản thân. Phẩm chất ấy thật đáng trân trọng!
b) Số phận bất hạnh, bi kịch
Sự bất hạnh khi hạnh phúc quá đỗi mong manh
16
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
- Cuộc sum vầy của gia đình hạnh phúc chưa được bao lâu thì chàng Trương phải đi lính, Vũ
Nương phải một mình cơ đơn, vất vả lo toan chuyện gia đình. Nàng chính là nạn nhân của
chiến tranh phi nghĩa.
- Khi chồng quay trở về, Vũ Nương chưa được hưởng hạnh phúc ngày nào thì đã bị chồng nghi
ngờ thất tiết rồi phải chọn cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình.
“Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn
ngủi. Mong manh như sương như khói, ngắn ngủi như kiếp sống của đóa phù dung sớm nở tối
tàn” (Đồng Thị Sáo).
Nỗi oan thất tiết
- Bao công lao và sự khó nhọc khi chồng đi vắng khơng hề được trân trọng. Chỉ một lời ngây thơ
của con trẻ cũng đủ để phá hủy tất cả những gì mà Vũ Nương vun đắp, giữ gìn: hạnh phúc tan
vỡ, địa vị trong gia đình bị phủ nhận phũ phàng. Hành động mắng mỏ, nhiếc móc, đánh đập của
Trương Sinh với Vũ Nương phá hủy tất cả những gì mà Vũ Nương hi vọng, khao khát, cũng phủ
nhận tất cả cơng lao và tình cảm của Vũ Nương với hạnh phúc gia đình của nàng và Trương Sinh.
Dù nàng đã tận tụy hi sinh bao nhiêu thì chỉ một chút nghi ngờ của chồng cũng khiến nàng mất
đi tất cả: gia đình, chồng con và hạnh phúc bấy lâu vun đắp.
- Kết cục bi thảm:
+ Không thể thanh minh với người, Vũ Nương chỉ còn cách thanh minh với trời đất, thánh
thần. Vũ Nương khơng tìm được sự tin tưởng ngay trong chính gia đình của mình. Xã hội
lúc bấy giờ cũng khơng có cơng lí cơng bằng để bênh vực và bảo vệ cho nàng. Cuối cùng
Vũ Nương phải tìm đến thần linh để mong cầu được chứng giám cho sự trong sạch, thế
lực thần linh ấy tuy linh thiêng nhưng chỉ là thế lực trong tâm tưởng.
+ Không thể thanh minh bằng lời, Vũ Nương chỉ còn cách lấy cái chết để chứng minh tiết
hạnh. Cái chết của Vũ Nương là cái chết oan khuất, nó gây đau xót, bất bình trong lịng
người đọc.
- Ngun nhân dẫn đến hành động tự vẫn của Vũ Nương:
+ Trực tiếp: do lời nói ngây thơ của bé Đản, lại thêm bản tính hay ghen, độc đốn, bảo
thủ, hồ đồ của Trương Sinh
+ Gián tiếp: do lễ giáo phong kiến hà khắc, nam quyền, người phụ nữ khơng có quyền tự
bảo vệ mình; do cuộc hơn nhân bất bình đẳng; do chiến tranh phong kiến đã gây nên
cảnh sinh lí tử biệt.
17
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
Bi kịch được quay trở về nhưng chỉ trong giây lát rồi vĩnh viến biến mất
- Tác giả xây dựng những chi tiết kì ảo để Vũ Nương có cơ hội giãi bày tâm sự và để người trên
dương thế biết về kết cục cuộc đời Vũ Nương.
- Vũ Nương được minh oan:
+ Nàng được quay trở về, “ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dịng, theo sau có đến
năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sơng, lúc ẩn, lúc hiện” Yếu tố kì ảo
đêm đến khơng khí huyền ảo, lung linh, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện và tạo nên một
cái kết phần nào có hậu: người đức hạnh như Vũ Nương khơng thể chết oan khuất. Việc
nàng được chư tiên cứu giúp và được chồng lập đàn giải oan đã hóa giải mối oan khuất
của đời nàng. Nhưng tất cả chỉ là kì ảo, hư vơ nên nó càng xốy sâu vào một sự thật phũ
phàng về những bi kịch mà Vũ Nương phải gánh chịu.
+ “Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” Nỗi đau vẫn
cịn đó, sự thật về cái chết của Vũ Nương, về sự cách biệt âm dương, về nỗi ân hận muộn
màng của Trương Sinh vẫn luôn luôn hiện hữu.
Tiểu kết:
- Vũ Nương đã rơi vào tận cùng của sự bất hạnh: gia đình tan nát, tấm lịng trinh bạch bị hàm
oan, mạng sống phải đem ra đánh đổi.
- Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo sâu sắc xã hội phong kiến, đồng thời bày tỏ nỗi thương cảm
của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.
Viết mẫu phân tích số phận bất hạnh của Vũ Nương:
Là người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng đau lòng thay, Vũ Nương lại mang một thân
phận bọt bèo, bất hạnh. Nàng đã từng lo toan, một lòng một dạ thủy chung chờ chồng, bao nhiêu
vất vả khó nhọc khi chồng vắng nhà đều một mình nàng gánh vác. Vậy mà tất cả đều bị phủ nhận
một cách phũ phàng. Chỉ một lời ngây thơ của con trẻ cũng đủ để phá hủy tất cả những gì mà Vũ
Nương vun đắp, giữ gìn: hạnh phúc tan vỡ, địa vị trong gia đình đều bị khước từ. Hành động mắng
mỏ, nhiếc móc, đánh đập của Trương Sinh với Vũ Nương đã phá hủy tất cả những gì mà Vũ Nương
hi vọng, khao khát, cũng phủ nhận tất cả cơng lao và tình cảm của Vũ Nương đối với gia đình. Dù
nàng đã tận tụy hi sinh bao nhiêu thì chỉ một chút nghi ngờ của chồng cũng khiến nàng mất đi tất
cả. Quả thực, “hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh,
ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói, ngắn ngủi như kiếp sống của đóa phù dung sớm nở
tối tàn” (Đồng Thị Sáo). Để rồi cuối cùng, nàng phải chịu một kết cục bi thảm. Không thể thanh
minh với người, Vũ Nương chỉ còn cách thanh minh với trời đất, thánh thần. Không thể thanh
18
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
minh bằng lời, Vũ Nương chỉ còn cách lấy cái chết để chứng minh tiết hạnh. Cái chết của Vũ Nương
là cái chết oan khuất, nó gây đau xót, bất bình trong lịng người đọc.
Ta đau xót và trăn trở trước sự sống quá đỗi mong manh của một kiếp người. Vì đâu và vì
thế lực nào mà sự sống của con người bị tước đoạt một cách dễ dàng như thế? Do lời nói ngây thơ
của bé Đản, lại thêm bản tính hay ghen, độc đốn, bảo thủ, hồ đồ của Trương Sinh hay do lễ giáo
phong kiến hà khắc, nam quyền, người phụ nữ khơng có quyền tự bảo vệ mình; do cuộc hơn nhân
bất bình đẳng, doo chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh lí tử biệt. Tất cả, tất cả đó đều là
nguyên nhân dù trực tiếp hay gián tiếp thì cũng đều là những sóng gió dập vùi khơng thương tiếc
số phận của người phụ nữ. Ngòi bút hiện thực của Nguyễn Dữ đã phát huy cao độ để đem đến
trang văn, trang đời chân thực về xã hội phong kiến bất công.
Nhưng “Chuyện người con gái Nam Xương” sẽ không chỉ dừng lại ở tiếng nói phơi bày, tố
cáo xã hội bất cơng, nam quyền, tác phẩm cịn là tiếng nói trân trọng và bênh vực người phụ nữ
tài đức vẹn toàn. Bởi vậy nên truyện có một kết thúc nhuốm màu huyền ảo, một cái kết có hậu hơn
để Vũ Nương được giải oan. Nhưng bi kịch của Vũ Nương vẫn cịn đó. Nàng được giải oan nhưng
chỉ có thể trở về trong giây lát rồi vĩnh viễn ra đi. Hình ảnh “Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang
lống mờ nhạt dần mà biến đi mất” ở cuối câu chuyện khiến ta không khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối.
Yếu tố kì ảo chỉ có thể đem đến cái kết phần nào có hậu. Tuy nhiên, kết cục nhuốm màu sắc kì ảo
ấy có thể xoa dịu nỗi đau, làm giảm tính chất bi thảm chứ khơng hóa giải hồn tồn bi kịch của
Vũ Nương vì dù sao nàng cũng khơng thể trở về dương thế đồn tụ với gia đình, hạnh phúc của
nàng cũng đã tan vỡ mà không thể hàn gắn lại như thuở ban đầu.
2. Nhân vật Trương Sinh
a) Gia cảnh
- Con nhà hào phú, có gia thế đàng hồng, giàu có, có thể đem trăm lặng vàng để xin cưới Vũ
Nương về làm vợ.
- Gia đình vốn rất êm ấm khi có mẹ già yêu thương, hiểu biết, có người vợ thùy mị, nết na, đảm
đang, tháo vát.
- Nhưng Trương Sinh thất học, bị ghi vào loại đầu trong sổ lính.
b) Tính cách
- Bản tính: đa nghi, ghen tng thái q.
- Biết quý trọng những giá trị tốt đẹp, giàu tình cảm:
19
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
+ Cảm mến dung hạnh của Vũ Nương, chàng sẵn sàng bỏ ra trăm lạng vàng làm sính lễ
để đón nàng về làm vợ. “Trăm lạng vàng” ấy của Trương Sinh không phải là sự phô
trương tiền của mà là cách đánh giá biểu hiện lòng quý chuộng của con người thời xưa.
+ Nỗi buồn khổ khi đi lính trở về thì mẹ già đã khuất núi - bộc lộ trong lời Trương Sinh
dỗ dành con “Con nín đi, đừng khóc! Lịng cha đã buồn khổ lắm rồi”. Việc Trương Sinh
trải lòng với đứa trẻ ngây thơ chứng tỏ trong lòng chàng mối sầu hận đang chất chứa. Dù
Trương Sinh không phải là người bất hiếu song dẫu sao không được phụng dưỡng mẹ
lúc cuối đời, không được kề cận phút tử biệt sinh li cũng là nỗi đau khiến lòng chàng trĩu
nặng. Có lẽ, chính nỗi buồn khổ ấy cũng phần nào khiến Trương Sinh khơng có được sự
tỉnh táo, sáng suốt để nghe những lời con nói.
+ Dù giận vợ thất tiết nhưng khi Vũ Nương trầm mình xuống sơng Hồng Giang cũng vì
lịng thương mà tìm vớt thây nàng - khơng phải là người lạnh lùng vơ tình.
+ Khi Phan Lang trở về với lời nhắn của Vũ Nương, Trương Sinh đã lập đàn giải oan 3
ngày đêm ở bến Hồng Giang theo lời nhắn, khi thấy bóng nàng hiện lên trên dòng nước,
Trương Sinh đã vội cất tiếng gọi - Trương Sinh cũng là người nặng tình.
- Thiếu bản lĩnh:
+ Trương Sinh u vợ song “có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá”. Sự “phòng
ngừa” ấy một phần vì q u, một phần vì có lẽ Trương Sinh khơng đủ tự tin vào chính
bản thân (khơng có học) trong mối quan hệ với người vợ hoàn hảo như Vũ Nương.
+ Khi nghe lời đứa con nói, Trương Sinh đã thiếu sáng suốt để có thể tìm hiểu rõ sự tình
mà dẫn đến ngờ oan cho vợ.
+ Khơng dám thẳng thắn nói rõ ngun cớ của sự nghi ngờ cũng chính là biểu hiện thiếu
tự tin, kém bản lĩnh ở người đàn ông vốn thất học. Khi lịng ghen tng nổi lên, rõ ràng,
Trương Sinh chỉ dựa vào cái quyền làm chồng để mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương chứ
khơng dựa vào lí trí, hiểu biết để phân tích thực hư.
Đây là chỗ đáng trách nhất ở Trương Sinh, cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tan vỡ hạnh phúc gia đình khiến cả Trương Sinh, Vũ Nương và bé Đản đều trở thành người bất
hạnh.
c) Nhận xét
- Trương Sinh cũng là một nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, phải xa cách gia đình và chính
thời gian xa cách đó đã khiến những hiểu lầm nảy sinh dẫn đến bao nỗi bi kịch.
20
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
- Thói vũ phu, độc đoán, áp đặt của Trương Sinh phản ánh bộ mặt của xã hội phong kiến nam
giới chuyên quyền, trọng nam khinh nữ. Ở đó người phụ nữ hồn tồn khơng có tiếng nói trong
gia đình, bị tước đoạt quyền sống... - một xã hội đáng lên án và phê phán.
Trương Sinh vừa đáng trách, vừa đáng thương.
3. Chi tiết chiếc bóng
- Chiếc bóng xuất hiện 3 lần trong tác phẩm:
+ Lần 1: trong lời nói của bé Đản nói với Trương Sinh: “Trước đây, thường có một người
đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao
giờ bế Đản cả” Đó là chiếc bóng của Vũ Nương khiến bé Đản hiểu đó là cha của mình
và khiến Trương Sinh nghi ngờ Vũ Nương thất tiết.
+ Lần 2: Sau khi Vũ Nương trầm mình xuống sơng Hồng Giang, chỉ cịn 2 cha con trong
đêm vắng, cái bóng lại xuất hiện với lời khẳng định của bé Đản “Cha Đản lại đến kia kìa”
Đó là chiếc bóng của Trương Sinh cũng khiến bé Đản nhớ ra đó là người cha hàng đêm
vẫn tới Chiếc bóng giải oan cho Vũ Nương.
+ Lần 3: Sau lời từ biệt với Trương Sinh thì hình ảnh Vũ Nương được miêu tả: “bóng nàng
loang lống mờ nhạt dần mà biến đi mất”. Đó là bóng của Vũ Nương khi xuất hiện
trong lần trở về gặp Trương Sinh, cũng là hình ảnh cuối cùng của Vũ Nương ở trần thế.
- Ý nghĩa của chi tiết chiếc bóng:
+ Góp phần thể hiện đặc điểm tính cách các nhân vật:
Vũ Nương:
- Chiếc bóng là trò chơi dành cho con trẻ xuất phát từ tấm lịng người mẹ lo lắng
con thiếu thốn tình cha. Chiếc bóng ấy cũng cho thấy tâm trí Vũ Nương ln
hướng đến chồng, mong muốn được gắn bó với người chồng thân yêu.
- Nhưng chiếc bóng cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến nàng bị chồng hiểu lầm,
đẩy nàng vào nỗi oan khiên bất hạnh.
- Và cũng chính chiếc bóng đã minh oan cho Vũ Nương, trả lại sự trong sạch cho
nàng.
Bé Đản: rất non nớt ngây thơ song đã sớm khao khát tình cha: tin ngay câu đùa
của mẹ, chỉ thừa nhận “người cha” trên vách mà không thừa nhận người cha trong
thực tế vì chưa từng gặp mặt từ khi bé được sinh ra.
Trương Sinh: nông nổi, hẹp hòi, cạn nghĩ - một lời ngây thơ của con trẻ cũng đủ
để chàng hắt hủi người vợ; cố chấp khi chỉ tin lời con trẻ mà không tin sự phân
21
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
trần của người vợ và sự chứng thực của họ hàng làng xóm. Chiếc bóng hàng đêm
sẽ là lời nhắc nhở đắt giá cho sự ân hận muộn màng của chàng Trương.
+ Tạo sự chuyển biến của cốt truyện:
Gây sóng gió trong gia đình Trương Sinh - Vũ Nương.
Tạo nút thắt, nút mở cho câu chuyện.
Làm hoàn chỉnh câu chuyện về cuộc đời nàng Vũ Nương.
+ Thể hiện tầm tư tưởng của tác giả:
Chi tiết chiếc bóng khi được khắc họa thành công trong “Chuyện người con gái
Nam Xương” đã khẳng định sự kế thừa trọn vẹn và tinh tế của tác giả Nguyễn Dữ
so với cốt truyện dân gian.
Chiếc bóng của Vũ Nương ở cuối truyện là một yếu tố kì ảo trong sự sáng tạo của
tác giả. Chiếc bóng loang loáng, mờ ảo rồi dần dần biến mất khiến bạn đọc còn
ngẫm suy mãi về cuộc đời nàng Vũ Nương, tuy đã được minh oan, được quay trở
về nhưng bi kịch vẫn cịn đó. Hiện thực xã hội bất cơng, oan trái được nhà văn thể
hiện vừa kín đáo, vừa thấm thía ở chi tiết ấy.
4. Yếu tố kì ảo
- Chi tiết kì ảo trong văn bản:
+ Chi tiết kì ảo thứ nhất: Phan Lang chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến xin tha
mạng, sáng hôm sau ông được người phường chài đem biếu con rùa mai xanh thì liền
thả.
+ Chi tiết kì ảo thứ hai: Phan Lan chết đuối vì có cơng nên được Linh Phi cứu sống, gặp
Vũ Nương, rồi được rẽ nước đưa về dương thế.
+ Chi tiết kì ảo thứ ba: Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, Vũ Nương ẩn
hiện giữa dịng nói vọng vài lời từ biệt rồi biến mất.
Chi tiết kì ảo là sự sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ trong tác phẩm, thể hiện tính chất truyền kì
của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” khơng
có.
- Ý nghĩa của các yếu tố kì ảo:
+ Làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì.
22
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
+ Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì, hấp dẫn và kích thích
trí tưởng tượng của người đọc.
+ Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác phẩm.
+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu:
Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện,
cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những người
lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ.
Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hồn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách
của Vũ Nương: Dù ở một thế giới khác, nhưng nàng vẫn tha thiết hướng về gia
đình, quê hương và khát khao được minh oan.
+ Tuy nhiên, những chi tiết kì ảo đó chỉ làm giảm chứ khơng làm mất đi tính bi kịch của
thiên truyện: Vũ Nương hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ là một sự hiển linh trong
thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “loang lống mờ nhạt” trên sơng rồi dần biến đi mất, tức
là vẫn còn xa cách, vẫn chia lìa âm dương đơi ngả. Vũ Nương khơng thể trở về, cái lí mà
nàng đưa ra là vì ân đức của Linh Phi nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu thuộc về những
người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi tiết Phan Lang được rẽ nước
trở về nhân gian cịn Vũ Nương thì khơng là một minh chứng đanh thép cho điều đó.
23
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
III. Tổng kết
1. Nội dung
a) Giá trị hiện thực
- Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công, nam quyền, chà đạp lên số phận người phụ nữ
- Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận người phụ nữ chịu nhiều oan khuất và bế
tắc
- Phản ánh xã hội phong kiến với những cuộc chiến tranh phi nghĩa làm cho cuộc sống của người
dân càng rơi vào bế tắc
b) Giá trị nhân đạo
- Khám phá, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ thông qua hình thượng nhân
vật Vũ Nương.
- Thấu hiểu, xót xa và cảm thương sâu sắc với số phận đầy ngang trái, thiệt thòi, bất hạnh của
Vũ Nương.
- Thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp, đề cao giá trị nhân văn “ở hiền gặp lành” và gửi
gắm những ước mơ tốt đẹp ngàn đời của nhân dân.
- Lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến, chế độ nam quyền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh
phúc của con người.
2. Nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Nghệ thuật dựng truyện hợp lí theo cách thắt nút, mở nút.
- Xây dựng nhân vật qua lời nói, hành động với nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn mang đậm nét
nội tâm.
- Sử dụng sáng tạo yếu tố kì ảo, câu chuyện vừa thực, vừa hư, kết truyện vừa có hậu, vừa bi kịch.
- Kết hợp khéo léo giữa tự sự và trữ tình.
24
Học Văn Chị Hiên THCS
Tài liệu Văn chuyên sâu
IV. Liên hệ mở rộng
1. Về cách giới thiệu nhân vật của tác giả Nguyễn Dữ
“Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái,
nóng nảy, thấy sự tà gian thì khơng thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người
cương trực.” (“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” - Nguyễn Dữ)
Liên hệ: cùng là cách giới thiệu trực tiếp như nhân vật Vũ Nương, nhấn mạnh về tính cách
của nhân vật, phần nào cho thấy thái độ trân trọng của tác giả.
2. Về nỗi nhớ thương của người thiếu phụ có chồng phải đi lính
“Lịng này gửi gió đơng có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
(Trích “Chinh phụ ngâm” - Đặng Trần Cơn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm)
Liên hệ: nỗi nhớ đằng đằng của người chinh phụ có chồng đi chinh chiến ngồi ải xa liên hệ
với tình cảnh cơ đơn, lẻ loi và nỗi nhớ đằng đẵng, tấm lòng thủy chung luôn hướng về chồng.
3. Về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong ca dao Việt Nam
“Thật thà cũng thể lái trâu
Thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”
Liên hệ: Cách nói đầy mỉa mai về mối quan hệ khơng mấy hịa thuận giữa mẹ chồng, nàng
dâu.
4. Về sự ngây thơ của con trẻ dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc mà sâu xa là do hoàn
cảnh chiến tranh gây ra:
Nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng
suốt 8 năm đầu đời không được gặp ba do ba của em phải đi chiến trường đánh giặc. Em chỉ
được nhìn ba qua tấm ảnh ba chụp chung hình với má và em chỉ chấp nhận duy nhất người đàn
ông trong bức hình đó là ba của mình. Đến khi ơng Sáu – ba của Thu về thăm nhà, do vết thẹo
dài trên má khi bị thương trên chiến trường mà ông Sáu trông khác với tấm ảnh, bé Thu không
25